Table of Contents

Jātaka-aṭṭhakathā-2

Edit
2415

4. Abbhantaravaggo

4. Abbhantara Vagga

4. Phẩm Abbhantara

2416
* 1. Abbhantarajātakavaṇṇanā
* 1. The Story of the Abbhantara Jātaka
* 1. Câu chuyện Jātaka về Abbhantara
2417
Abbhantaro nāma dumoti idaṃ satthā jetavane viharanto sāriputtattherassa bimbādevītheriyā ambarasadānaṃ ārabbha kathesi.
"The tree named Abbhantara" – The Teacher, while dwelling at Jetavana, told this story concerning the donation of mango juice by the Theri Bimbādevī to Thera Sāriputta.
Cây tên là Abbhantara – câu chuyện này được Đức Đạo Sư kể tại Jetavana, liên quan đến việc Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Bimbādevī cúng dường trái xoài.
Sammāsambuddhe hi pavattitavaradhammacakke vesāliyaṃ kūṭāgārasālāyaṃ viharante mahāpajāpatī gotamī pañca sākiyasatāni ādāya gantvā pabbajjaṃ yācitvā pabbajjañceva upasampadañca labhi.
Indeed, when the Perfectly Self-Enlightened One was dwelling in the Kūṭāgāra Hall in Vesālī, having set in motion the excellent Wheel of Dhamma, Mahāpajāpatī Gotamī, taking five hundred Sākiyan women, went and requested ordination, and obtained both ordination and higher ordination.
Khi Đức Chánh Đẳng Giác chuyển bánh xe Chánh pháp tối thượng, Ngài trú tại Kūṭāgārasālā ở Vesālī. Mahāpajāpatī Gotamī cùng năm trăm vị Sakya nữ đến xin xuất gia và đã thọ nhận sự xuất gia và giới Tỳ kheo ni.
Aparabhāge tā pañcasatā bhikkhuniyo nandakovādaṃ (ma. ni. 3.398 ādayo) sutvā arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
Later, those five hundred bhikkhunīs, having heard the Nandakaovāda (M.N. 3.398 onwards), attained Arahantship.
Sau đó, năm trăm vị Tỳ kheo ni này đã đạt được quả A-la-hán sau khi nghe Nandakovāda (Ma. Ni. 3.398 trở đi).
Satthari pana sāvatthiṃ upanissāya viharante rāhulamātā bimbādevī ‘‘sāmiko me pabbajitvā sabbaññutaṃ patto, puttopi me pabbajitvā tasseva santike vasati, ahaṃ agāramajjhe kiṃkarissāmi, ahampi pabbajitvā sāvatthiṃ gantvā sammāsambuddhañca puttañca nibaddhaṃ passamānā viharissāmī’’ti cintetvā bhikkhunupassayaṃ gantvā pabbajitvā ācariyupajjhāyāhi saddhiṃ sāvatthiṃ gantvā satthārañca piyaputtañca passamānā ekasmiṃ bhikkhunupassaye vāsaṃ kappesi.
When the Teacher was dwelling near Sāvatthī, Bimbādevī, Rāhula’s mother, thought: "My husband has gone forth and attained omniscience; my son has also gone forth and lives with him. What shall I do in a household? I too shall go forth, go to Sāvatthī, and live constantly seeing the Perfectly Self-Enlightened One and my dear son." Having thought this, she went to the bhikkhunī monastery, went forth, and together with her teachers and preceptors, went to Sāvatthī and resided in a bhikkhunī monastery, seeing the Teacher and her beloved son.
Khi Đức Đạo Sư trú gần Sāvatthī, Bimbādevī, mẹ của Rāhula, suy nghĩ: “Chồng ta đã xuất gia và đạt được Nhất thiết trí, con trai ta cũng đã xuất gia và sống bên Ngài. Ta sẽ làm gì ở tại gia? Ta cũng sẽ xuất gia, đến Sāvatthī để thường xuyên gặp Đức Chánh Đẳng Giác và con trai ta.” Sau đó, bà đến tu viện của Tỳ kheo ni, xuất gia, rồi cùng các vị A-xà-lê và Hòa thượng ni đến Sāvatthī, sống trong một tu viện Tỳ kheo ni, thường xuyên gặp Đức Đạo Sư và con trai yêu quý của mình.
Rāhulasāmaṇero āgantvā mātaraṃ passati.
Sāmaṇera Rāhula came to see his mother.
Sāmaṇera Rāhula đến thăm mẹ.
2418
Athekadivasaṃ theriyā udaravāto kuppi.
Then one day, the Theri was afflicted by stomach wind.
Một ngày nọ, Tôn giả ni bị chứng đầy hơi.
Sā putte daṭṭhuṃ āgate tassa dassanatthāya nikkhamituṃ nāsakkhi, aññāva āgantvā aphāsukabhāvaṃ kathayiṃsu.
She was unable to go out to see her son when he came to visit; others came and told him of her discomfort.
Bà ấy không thể ra ngoài để gặp các con trai đã đến thăm, mà những người khác đến kể về tình trạng không khỏe của bà.
So mātu santikaṃ gantvā ‘‘kiṃ te laddhuṃ vaṭṭatī’’ti pucchi.
He went to his mother and asked, "What is it that you need?"
Vị ấy đến chỗ mẹ mình và hỏi: “Mẹ cần gì để có thể khỏe lại?”
‘‘Tāta, agāramajjhe me sakkharayojite ambarase pīte udaravāto vūpasammati, idāni piṇḍāya caritvā jīvikaṃ kappema, kuto taṃ labhissāmā’’ti.
"My dear, when I was in a household, my stomach wind would subside if I drank mango juice mixed with sugar. Now we live by collecting almsfood; from where shall I obtain it?"
(Bà ấy nói): “Con trai, khi uống nước xoài trộn đường ở trong nhà, chứng đầy hơi ở bụng của mẹ sẽ thuyên giảm. Giờ đây chúng ta sống bằng cách đi khất thực, làm sao có thể tìm được thứ đó?”
Sāmaṇero ‘‘labhanto āharissāmī’’ti vatvā nikkhami.
The Sāmaṇera said, "If I obtain it, I will bring it," and departed.
Vị Sa-di nói: “Con sẽ mang về nếu tìm được,” rồi ra đi.
Tassa panāyasmato upajjhāyo dhammasenāpati, ācariyo mahāmoggallāno, cūḷapitā ānandatthero, pitā sammāsambuddhoti mahāsampatti.
Now, the Venerable's preceptor was the Dhammasenāpati (Sāriputta), his teacher was Mahāmoggallāna, his paternal uncle was Thera Ānanda, and his father was the Perfectly Self-Enlightened One—such was his great fortune.
Tuy nhiên, vị Tôn giả ấy có một sự may mắn lớn: vị Upajjhāya (Thầy tế độ) của ngài là Dhammasenāpati (Đại tướng Pháp) Sāriputta, vị Ācariya (Thầy giáo thọ) là Mahāmoggallāna, người chú là Tôn giả Ānanda, và cha là Đức Sammāsambuddha (Chánh Đẳng Giác).
Evaṃ santepi aññassa santikaṃ agantvā upajjhāyassa santikaṃ gantvā vanditvā dummukhākāro hutvā aṭṭhāsi.
Even with such connections, he did not go to anyone else but went to his preceptor, paid homage, and stood with a dejected expression.
Dù có như vậy, ngài không đến chỗ người khác mà đến chỗ Upajjhāya của mình, đảnh lễ rồi đứng với vẻ mặt buồn bã.
Atha naṃ thero ‘‘kiṃ nu kho, rāhula, dummukho viyāsī’’ti āha.
Then the Thera said to him, "Rāhula, why do you look so dejected?"
Bấy giờ, vị Trưởng lão hỏi ngài: “Này Rāhula, sao con lại có vẻ mặt buồn bã như vậy?”
‘‘Mātu me, bhante, theriyā udaravāto kupito’’ti.
"Venerable sir, my mother, the Theri, is afflicted by stomach wind."
“Bạch Ngài, chứng đầy hơi ở bụng của mẹ con, vị Trưởng lão ni, đã phát sinh.”
‘‘Kiṃ laddhuṃ vaṭṭatī’’ti?
"What is it that she needs?"
“Cần gì để có thể khỏe lại?”
‘‘Sakkharayojitena kira ambarasena phāsu hotī’’ti.
"She is said to feel better with mango juice mixed with sugar."
“Nghe nói nước xoài trộn đường sẽ giúp bà ấy khỏe hơn.”
‘‘Hotu labhissāmi, mā cintayī’’ti.
"It shall be obtained; do not worry."
“Được rồi, ta sẽ tìm được, con đừng lo lắng.”
2419
So punadivase taṃ ādāya sāvatthiṃ pavisitvā sāmaṇeraṃ āsanasālāyaṃ nisīdāpetvā rājadvāraṃ agamāsi.
The next day, taking the Sāmaṇera, he entered Sāvatthī, seated the Sāmaṇera in the assembly hall, and went to the royal palace.
Ngày hôm sau, vị ấy mang thứ đó vào Sāvatthī, cho vị Sa-di ngồi ở sảnh đường rồi đi đến cổng cung vua.
Kosalarājā theraṃ disvā nisīdāpesi, taṅkhaṇaññeva uyyānapālo piṇḍipakkānaṃ madhuraambānaṃ ekaṃ puṭaṃ āhari.
The King of Kosala, seeing the Thera, seated him; at that very moment, the gardener brought a basket of sweet mangoes for alms.
Vua Kosala thấy vị Trưởng lão liền mời ngồi. Ngay lúc đó, người coi vườn mang đến một giỏ xoài chín ngọt.
Rājā ambānaṃ tacaṃ apanetvā sakkharaṃ pakkhipitvā sayameva madditvā therassa pattaṃ pūretvā adāsi.
The King removed the skin of the mangoes, added sugar, crushed them himself, filled the Thera's bowl, and gave it to him.
Nhà vua lột vỏ xoài, cho đường vào, tự tay nghiền nát rồi đổ đầy bát của vị Trưởng lão và dâng lên.
Thero rājanivesanā nikkhamitvā āsanasālaṃ gantvā sāmaṇerassa adāsi ‘‘haritvā mātu te dehī’’ti.
The Thera, having left the royal residence, went to the assembly hall and gave it to the Sāmaṇera, saying, "Take this and give it to your mother."
Vị Trưởng lão rời khỏi cung vua, đến sảnh đường và đưa cho vị Sa-di, nói: “Con hãy mang về cho mẹ con.”
So haritvā adāsi, theriyā paribhuttamatteva udaravāto vūpasami.
He took it and gave it to her; as soon as the Theri consumed it, her stomach wind subsided.
Vị ấy mang về và dâng lên. Ngay khi vị Trưởng lão ni dùng xong, chứng đầy hơi ở bụng liền thuyên giảm.
Rājāpi manussaṃ pesesi – ‘‘thero idha nisīditvā ambarasaṃ na paribhuñji, gaccha kassaci dinnabhāvaṃ jānāhī’’ti.
The king also sent a man, saying, "The elder did not consume the mango juice while sitting here. Go and find out if he gave it to anyone."
Nhà vua cũng sai người đi hỏi: “Vị Trưởng lão không dùng nước xoài ở đây, hãy đi tìm hiểu xem ngài đã cho ai.”
So therena saddhiṃyeva gantvā taṃ pavattiṃ ñatvā āgantvā rañño kathesi.
He went with the elder, learned the news, returned, and reported it to the king.
Người đó đi cùng với vị Trưởng lão, biết được sự việc rồi trở về kể lại cho nhà vua.
Rājā cintesi – ‘‘sace satthā agāraṃ ajjhāvasissa, cakkavattirājā abhavissa, rāhulasāmaṇero pariṇāyakaratanaṃ, therī itthiratanaṃ, sakalacakkavāḷarajjaṃ etesaññeva abhavissa.
The king thought, "If the Teacher had remained a householder, he would have become a Cakkavatti king; the novice Rāhula would have been the chief-guide jewel; the elder bhikkhunī would have been the woman-jewel; the sovereignty of the entire world-system would have belonged to them.
Nhà vua suy nghĩ: “Nếu Đức Đạo Sư sống đời tại gia, Ngài sẽ là một vị Chuyển Luân Thánh Vương. Sa-di Rāhula sẽ là châu báu vị lãnh đạo, vị Trưởng lão ni sẽ là châu báu nữ giới. Toàn bộ vương quốc trong vũ trụ sẽ thuộc về họ.
Amhehi ete upaṭṭhahantehi caritabbaṃ assa, idāni pabbajitvā amhe upanissāya vasantesu etesu na yuttaṃ amhākaṃ pamajjitu’’nti.
We should have lived serving them. Now, with them having gone forth and dwelling dependent on us, it is not proper for us to be negligent."
Chúng ta đáng lẽ phải phụng sự họ, nhưng giờ đây khi họ đã xuất gia và sống nương tựa chúng ta, thì chúng ta không nên lơ là.”
So tato paṭṭhāya theriyā nibaddhaṃ ambarasaṃ dāpesi.
From that time on, he had mango juice regularly given to the elder bhikkhunī.
Từ đó trở đi, nhà vua cho dâng nước xoài thường xuyên cho vị Trưởng lão ni.
Therena bimbādevītheriyā ambarasassa dinnabhāvo bhikkhusaṅghe pākaṭo jāto.
The fact that the elder had given mango juice to Bhaddā Bimbādevī Theri became known in the assembly of bhikkhus.
Việc vị Trưởng lão dâng nước xoài cho Trưởng lão ni Bimbādevī đã được biết đến trong Tăng đoàn.
Athekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, sāriputtatthero kira bimbādevītheriṃ ambarasena santappesī’’ti.
Then one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall, saying, "Friends, it seems that Elder Sāriputta satisfied Bhaddā Bimbādevī Theri with mango juice."
Rồi một ngày nọ, các Tỳ-khưu khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: “Này các bạn, nghe nói Trưởng lão Sāriputta đã làm hài lòng Trưởng lão ni Bimbādevī bằng nước xoài.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva rāhulamātā sāriputtena ambarasena santappitā, pubbepesa etaṃ santappesiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came, and having asked, "What is the topic of discussion you are gathered for now, bhikkhus?" and being told, "This is it," he said, "Bhikkhus, it is not only now that Rāhula's mother has been satisfied with mango juice by Sāriputta; in the past too, he satisfied her," and he related a past event.
Đức Đạo Sư đến, hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn chuyện gì vậy?” Khi được trả lời “Chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ mẹ của Rāhula mới được Sāriputta làm hài lòng bằng nước xoài, mà trong quá khứ vị ấy cũng đã làm hài lòng bà ấy như vậy,” rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
2420
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsigāmake brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sabbasippāni uggaṇhitvā saṇṭhapitagharāvāso mātāpitūnaṃ accayena isipabbajjaṃ pabbajitvā himavantapadese abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā isigaṇaparivuto gaṇasatthā hutvā dīghassa addhuno accayena loṇambilasevanatthāya pabbatapādā otaritvā cārikaṃ caramāno bārāṇasiṃ patvā uyyāne vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in a brahmin family in a Kāsi village. Having come of age, he learned all crafts in Takkasilā, established a household, and after the passing of his parents, he took up the ascetic's life. Having developed supernormal powers and attainments in the Himālaya region, he became a leader of a group of ascetics. After a long time, to partake of salty and sour flavors, he descended from the foothills and, wandering from place to place, arrived at Bārāṇasī and took up residence in the royal park.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở làng Kāsī. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài học tất cả các nghề ở Takkasilā, lập gia đình. Sau khi cha mẹ qua đời, Ngài xuất gia làm ẩn sĩ, tu tập các Abhiññā (thắng trí) và Samāpatti (thiền định) ở vùng Himavanta. Sau khi trở thành một đạo sư dẫn đầu nhóm ẩn sĩ, trải qua một thời gian dài, Ngài rời chân núi để dùng muối và vị chua. Ngài du hành và đến Bārāṇasī, rồi ở lại trong khu vườn.
Athassa isigaṇassa sīlatejena sakkassa bhavanaṃ kampi.
Then, due to the power of the ascetics' virtue, Sakka's abode trembled.
Bấy giờ, do uy lực giới đức của nhóm ẩn sĩ, cung điện của Sakka (Đế Thích) rung chuyển.
Sakko āvajjamāno taṃ kāraṇaṃ ñatvā ‘‘imesaṃ tāpasānaṃ avāsāya parisakkissāmi, atha te bhinnāvāsā upaddutā caramānā cittekaggataṃ na labhissanti, evaṃ me phāsukaṃ bhavissatī’’ti cintetvā ‘‘ko nu kho upāyo’’ti vīmaṃsanto imaṃ upāyaṃ addasa – majjhimayāmasamanantare rañño aggamahesiyā sirigabbhaṃ pavisitvā ākāse ṭhatvā ‘‘bhadde, sace tvaṃ abbhantaraambapakkaṃ khādeyyāsi, puttaṃ labhissasi, so cakkavattirājā bhavissatī’’ti ācikkhissāmi.
Sakka, reflecting, understood the reason and thought, "I will strive to make these ascetics homeless. Then, being scattered and distressed, they will not achieve mental one-pointedness. This will be advantageous for me." He pondered, "What is the means?" and found this method: "Immediately after midnight, I will enter the chief queen's royal chamber, stand in the air, and tell her, 'Good lady, if you eat an inner mango fruit, you will give birth to a son, who will become a Cakkavatti king.'
Sakka quán xét và biết được nguyên nhân. Ngài nghĩ: “Ta sẽ cố gắng để các vị đạo sĩ này không thể ở yên. Khi họ bị chia rẽ và quấy rầy, họ sẽ không thể đạt được sự định tâm. Như vậy sẽ thuận lợi cho ta.” Ngài tự hỏi: “Phương pháp nào đây?” và tìm ra phương pháp này: “Ngay sau nửa đêm, ta sẽ vào phòng ngủ của hoàng hậu, đứng trên không trung và nói: ‘Này công chúa, nếu nàng ăn trái xoài Abbhantara, nàng sẽ sinh một hoàng tử, vị ấy sẽ trở thành Chuyển Luân Thánh Vương.’
Rājā deviyā kathaṃ sutvā ambapakkatthāya uyyānaṃ pesessati, athāhaṃ ambāni antaradhāpessāmi, rañño uyyāne ambānaṃ abhāvaṃ ārocessanti, ‘‘ke te khādantī’’ti vutte ‘‘tāpasā khādantī’’ti vakkhanti, taṃ sutvā rājā tāpase pothetvā nīharāpessati, evaṃ te upaddutā bhavissantīti.
The king, hearing the queen's words, will send men to the park for mangoes. Then I will make the mangoes disappear. They will report to the king that there are no mangoes in the park. When asked, 'Who ate them?' they will say, 'The ascetics ate them.' Hearing that, the king will beat and expel the ascetics, and thus they will be distressed."
Nhà vua nghe lời hoàng hậu sẽ sai người đến vườn tìm trái xoài. Bấy giờ, ta sẽ làm cho những trái xoài biến mất. Họ sẽ báo với nhà vua rằng không có xoài trong vườn. Khi được hỏi ‘Ai đã ăn chúng?’, họ sẽ nói ‘Các đạo sĩ đã ăn.’ Nghe vậy, nhà vua sẽ đánh đuổi các đạo sĩ ra khỏi vườn. Như vậy, họ sẽ bị quấy rầy.”
2421
So majjhimayāmasamanantare sirigabbhaṃ pavisitvā ākāse ṭhito attano devarājabhāvaṃ jānāpetvā tāya saddhiṃ sallapanto purimā dve gāthā avoca –
So, immediately after midnight, he entered the royal chamber, stood in the air, made his divine royal status known, and conversing with her, he spoke the first two verses:
Ngay sau nửa đêm, Sakka vào phòng ngủ, đứng trên không trung, cho biết mình là vua trời, rồi nói chuyện với hoàng hậu và đọc hai bài kệ đầu tiên:
2422
91.
91.
91.
2423
‘‘Abbhantaro nāma dumo, yassa dibyamidaṃ phalaṃ;
"There is a tree called 'Inner,' whose fruit is divine;
“Có một cây gọi là Abbhantara, có trái cây thần diệu này;
2424
Bhutvā dohaḷinī nārī, cakkavattiṃ vijāyati.
A woman with a craving, having eaten it, gives birth to a Cakkavatti king.
Người phụ nữ đang mang thai mà ăn, sẽ sinh ra một vị Chuyển Luân Thánh Vương.
2425
92.
92.
92.
2426
‘‘Tvampi bhadde mahesīsi, sā cāpi patino piyā;
You, good lady, are the chief queen, and you are dear to your husband;
Này công chúa tốt lành, nàng là hoàng hậu, và cũng là người được chồng yêu quý;
2427
Āharissati te rājā, idaṃ abbhantaraṃ phala’’nti.
The king will bring you this 'inner' fruit."
Nhà vua sẽ mang đến cho nàng trái Abbhantara này.”
2428
Tattha abbhantaro nāma dumoti iminā tāva gāmanigamajanapadapabbatādīnaṃ asukassa abbhantaroti avatvā kevalaṃ ekaṃ abbhantaraṃ ambarukkhaṃ kathesi.
There, abbhantaro nāma dumo means that without specifying "the inner* of such and such a village, market town, district, or mountain," he merely spoke of one "inner" mango tree.
Ở đây, abbhantaro nāma dumo (cây tên là Abbhantara) nghĩa là Ngài chỉ nói đến một cây xoài Abbhantara, không nói rõ đó là cây xoài Abbhantara ở làng, thị trấn, quận huyện, hay núi non nào.
Yassa dibyamidaṃ phalanti yassa ambarukkhassa devatānaṃ paribhogārahaṃ dibyaṃ phalaṃ.
Yassa dibyamidaṃ phala means the divine fruit of which mango tree is suitable for consumption by deities.
Yassa dibyamidaṃ phalaṃ (trái thần diệu này của nó) nghĩa là trái cây thần diệu, xứng đáng cho các vị trời hưởng dụng, của cây xoài đó.
Idanti pana nipātamattameva.
Ida is merely a particle.
Idaṃ (này) chỉ là một giới từ.
Dohaḷinīti sañjātadohaḷā.
Dohaḷinī means one who has conceived a craving.
Dohaḷinī (người mang thai) nghĩa là người đã phát sinh sự thèm ăn (dohaḷa).
Tvampi, bhadde, mahesīsīti tvaṃ, sobhane mahesī, asi.
Tvampi, bhadde, mahesīsī means "You, good lady, are the chief queen."
Tvampi, bhadde, mahesīsī (nàng, công chúa tốt lành, là hoàng hậu) nghĩa là nàng, hoàng hậu xinh đẹp, là hoàng hậu.
Aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘mahesī cā’’tipi pāṭho.
In the commentary, the reading "mahesī cā" is also found.
Tuy nhiên, trong Chú giải cũng có đoạn văn là “mahesī cā” (và hoàng hậu).
Sā cāpi patino piyāti soḷasannaṃ devīsahassānaṃ abbhantare aggamahesī cāpi patino cāpi piyāti attho.
Sā cāpi patino piyā means that among the sixteen thousand queens, the chief queen is also dear to her husband.
Sā cāpi patino piyā (và nàng cũng là người được chồng yêu quý) nghĩa là trong số mười sáu ngàn hoàng hậu, vị hoàng hậu tối thượng cũng là người được chồng yêu quý.
Āharissati te rājā, idaṃ abbhantaraṃ phalanti tassā te piyāya aggamahesiyā idaṃ mayā vuttappakāraṃ phalaṃ rājā āharāpessati, sā tvaṃ taṃ paribhuñjitvā cakkavattigabbhaṃ labhissasīti.
" The king will bring you this inner fruit." "The king will have this fruit, as described by me, brought to you, his beloved chief queen. Having partaken of it, you will conceive a Cakkavatti."
Āharissati te rājā, idaṃ abbhantaraṃ phalaṃ (nhà vua sẽ mang đến cho nàng trái Abbhantara này) nghĩa là nhà vua sẽ cho mang đến cho nàng, vị hoàng hậu được yêu quý đó, trái cây mà ta đã nói, và nàng sẽ ăn nó rồi mang thai một vị Chuyển Luân Thánh Vương.
2429
Evaṃ sakko deviyā imā dve gāthā vatvā ‘‘tvaṃ appamattā hohi, mā papañcaṃ akāsi, sve rañño āroceyyāsī’’ti taṃ anusāsitvā attano vasanaṭṭhānameva gato.
Having thus spoken these two verses to the queen, Sakka advised her, "Be heedful, do not procrastinate. Tomorrow, you should inform the king," and then he departed to his own abode.
Như vậy, Sakka nói hai bài kệ này với hoàng hậu, rồi căn dặn bà: “Nàng hãy cẩn thận, đừng gây ra phiền phức, ngày mai nàng hãy báo cho nhà vua biết,” rồi Ngài trở về chỗ ở của mình.
Sā punadivase gilānālayaṃ dassetvā paricārikānaṃ saññaṃ datvā nipajji.
The next day, feigning illness, she gave a sign to her attendants and lay down.
Ngày hôm sau, bà ấy giả vờ bệnh, ra hiệu cho các thị nữ rồi nằm xuống.
Rājā samussitasetacchatte sīhāsane nisinno nāṭakāni passanto deviṃ adisvā ‘‘kahaṃ, devī’’ti paricārike pucchi.
The king, seated on his throne under the raised white parasol, watching performances, did not see the queen and asked his attendants, "Where is the queen?"
Nhà vua ngồi trên ngai vàng có lọng trắng giương cao, đang xem các vở kịch, không thấy hoàng hậu liền hỏi các thị nữ: “Hoàng hậu ở đâu?”
‘‘Gilānā, devā’’ti.
"She is ill, Your Majesty."
“Bạch Đức Vua, bà ấy đang bệnh.”
So tassā santikaṃ gantvā sayanapasse nisīditvā piṭṭhiṃ parimajjanto ‘‘kiṃ te, bhadde, aphāsuka’’nti pucchi.
He went to her, sat by her couch, and stroking her back, asked, "What troubles you, my lady?"
Ngài đến chỗ bà, ngồi bên giường và vuốt lưng bà, hỏi: “Này công chúa tốt lành, nàng không khỏe chỗ nào?”
‘‘Mahārāja aññaṃ aphāsukaṃ nāma natthi, dohaḷo me uppanno’’ti.
"Your Majesty, there is no other trouble, but a longing has arisen in me."
“Tâu Đại vương, không có gì không khỏe khác, chỉ là con có chứng thèm ăn (dohaḷa).”
‘‘Kiṃ icchasi, bhadde’’ti?
"What do you desire, my lady?"
“Nàng muốn gì, công chúa tốt lành?”
‘‘Abbhantaraambaphalaṃ devā’’ti.
"An inner mango fruit, Your Majesty."
“Bạch Đức Vua, trái xoài Abbhantara.”
‘‘Abbhantaraambo nāma kahaṃ atthī’’ti?
"Where is this 'inner mango'?"
“Xoài Abbhantara ở đâu?”
‘‘Nāhaṃ, deva, abbhantaraambaṃ jānāmi, tassa pana me phalaṃ labhamānāya jīvitaṃ atthi, alabhamānāya natthī’’ti.
"I do not know the inner mango, Your Majesty, but if I obtain its fruit, I shall live; if not, I shall not."
“Tâu Đức Vua, con không biết xoài Abbhantara, nhưng nếu con có được trái đó thì con sẽ sống, nếu không thì con sẽ chết.”
‘‘Tena hi āharāpessāmi, mā cintayī’’ti rājā deviṃ assāsetvā uṭṭhāya gantvā rājapallaṅke nisinno amacce pakkosāpetvā ‘‘deviyā abbhantaraambe nāma dohaḷo uppanno, kiṃ kātabba’’nti pucchi.
"Then I shall have it brought; do not worry," said the king, reassuring the queen. He rose, went and sat on the royal couch, summoned his ministers, and asked, "A longing for an inner mango has arisen in the queen. What should be done?"
“Vậy thì ta sẽ cho mang đến, nàng đừng lo lắng,” nhà vua an ủi hoàng hậu, rồi đứng dậy đi đến ngồi trên ngai vàng, cho gọi các quan đại thần và hỏi: “Hoàng hậu có chứng thèm ăn xoài Abbhantara, phải làm gì đây?”
‘‘Deva dvinnaṃ ambānaṃ antare ṭhito ambo abbhantaraambo nāma, uyyānaṃ pesetvā abbhantare ṭhitaambato phalaṃ āharāpetvā deviyā dāpethā’’ti.
"Your Majesty, an inner mango is a mango located between two other mangoes. Send to the garden, have a fruit brought from a mango tree located in the interior, and give it to the queen."
“Tâu Đức Vua, cây xoài nằm giữa hai cây xoài được gọi là xoài Abbhantara. Hãy sai người đến vườn, mang trái xoài từ cây xoài nằm giữa đó về cho hoàng hậu.”
2430
Rājā ‘‘sādhu, evarūpaṃ ambaṃ āharathā’’ti uyyānaṃ pesesi.
The king said, "Good, bring such a mango," and sent to the garden.
Nhà vua nói: “Tốt lắm, hãy mang loại xoài như vậy về,” rồi sai người đến vườn.
Sakko attano ānubhāvena uyyāne ambāni khāditasadisāni katvā antaradhāpesi.
Sakka, by his power, made the mangoes in the garden appear as if eaten and made them disappear.
Sakka dùng thần lực của mình làm cho những trái xoài trong vườn như thể đã bị ăn hết và biến mất.
Ambatthāya gatā manussā sakalauyyānaṃ vicarantā ekaṃ ambampi alabhitvā gantvā uyyāne ambānaṃ abhāvaṃ rañño kathayiṃsu.
The men who went for the mangoes searched the entire garden but found no mangoes, and they returned to tell the king of the absence of mangoes in the garden.
Những người đi tìm xoài đã lục soát khắp vườn nhưng không tìm thấy một trái xoài nào. Họ trở về và báo với nhà vua rằng không có xoài trong vườn.
‘‘Ke ambāni khādantī’’ti?
"Who eats the mangoes?"
“Ai đã ăn xoài?”
‘‘Tāpasā, devā’’ti.
"Ascetics, Your Majesty."
“Bạch Đức Vua, các đạo sĩ.”
‘‘Tāpase uyyānato pothetvā nīharathā’’ti.
"Beat the ascetics and drive them out of the garden!"
“Hãy đánh đuổi các đạo sĩ ra khỏi vườn.”
Manussā ‘‘sādhū’’ti paṭissuṇitvā nīhariṃsu.
The men assented, saying, "Yes, Your Majesty," and drove them out.
Những người đó nói: “Vâng,” rồi tuân lệnh và đuổi họ đi.
Sakkassa manoratho matthakaṃ pāpuṇi.
Sakka's wish was fulfilled.
Mong muốn của Sakka đã thành hiện thực.
Devī ambaphalatthāya nibaddhaṃ katvā nipajjiyeva.
The queen continued to lie down, insistent on the mango fruit.
Hoàng hậu vẫn nằm đó, khăng khăng đòi trái xoài.
Rājā kattabbakiccaṃ apassanto amacce ca brāhmaṇe ca sannipātāpetvā ‘‘abbhantaraambassa atthibhāvaṃ jānāthā’’ti pucchi.
The king, seeing no course of action, assembled his ministers and brahmins and asked, "Do you know the existence of an inner mango?"
Đức Vua, không biết việc cần làm, liền triệu tập các vị đại thần và các vị Bà-la-môn lại và hỏi: “Các khanh có biết sự hiện hữu của cây xoài Abbhantara không?”
Brāhmaṇā āhaṃsu – ‘‘deva, abbhantaraambo nāma devatānaṃ paribhogo, ‘himavante kañcanaguhāya anto atthī’ti ayaṃ no paramparāgato anussavo’’ti.
The brahmins said, "Your Majesty, the inner mango is consumed by devas. This is a tradition handed down to us: 'It is within a golden cave in the Himavanta.'"
Các vị Bà-la-môn thưa: “Tâu Đại Vương, cây xoài Abbhantara là vật hưởng dụng của các vị thiên nhân. ‘Nó nằm bên trong một hang vàng trên núi Hy Mã Lạp Sơn’ – đây là truyền thuyết mà chúng tôi được nghe từ đời này sang đời khác.”
‘‘Ko pana tato ambaṃ āharituṃ sakkhissatī’’ti?
"But who will be able to bring a mango from there?"
“Vậy ai có thể mang quả xoài từ đó về được?”
‘‘Na sakkā tattha manussabhūtena gantuṃ, ekaṃ suvapotakaṃ pesetuṃ vaṭṭatī’’ti.
"It is not possible for a human being to go there; it is necessary to send a parrot chick."
“Không thể có người phàm nào đến đó được, nên cần phải phái một con vẹt con đi.”
2431
Tena ca samayena rājakule eko suvapotako mahāsarīro kumārakānaṃ yānakacakkanābhimatto thāmasampanno paññavā upāyakusalo.
At that time, there was a large parrot chick in the royal palace, as strong as the hub of a prince's chariot wheel, wise and skilled in means.
Vào thời điểm đó, trong hoàng cung có một con vẹt con thân hình to lớn, to bằng trục bánh xe của các hoàng tử, có sức mạnh, trí tuệ và khéo léo trong việc dùng phương tiện.
Rājā taṃ āharāpetvā ‘‘tāta suvapotaka, ahaṃ tava bahūpakāro, kañcanapañjare vasasi, suvaṇṇataṭṭake madhulāje khādasi, sakkharapānakaṃ pivasi, tayāpi amhākaṃ ekaṃ kiccaṃ nittharituṃ vaṭṭatī’’ti āha.
The king had it brought and said, "My dear parrot chick, I have been of great service to you; you live in a golden cage, you eat honeyed puffed rice from a golden plate, you drink sweetened water. It is fitting that you, too, accomplish a task for us."
Đức Vua cho gọi nó đến và nói: “Này vẹt con, ta đã có nhiều ân huệ với ngươi, ngươi sống trong lồng vàng, ăn cốm mật trên đĩa vàng, uống nước đường; ngươi cũng nên hoàn thành một việc cho chúng ta.”
‘‘Kiṃ, devā’’ti.
"What, Your Majesty?"
“Tâu Đại Vương, việc gì ạ?”
‘‘Tāta deviyā abbhantaraambe dohaḷo uppanno, so ca ambo himavante kañcanapabbatantare atthi devatānaṃ paribhogo, na sakkā manussabhūtena tattha gantuṃ, tayā tato ambaphalaṃ āharituṃ vaṭṭatī’’ti.
"My dear, a longing for an inner mango has arisen in the queen. That mango is in the Himavanta, within a golden mountain, and is consumed by devas. It is not possible for a human being to go there. It is fitting that you bring a mango fruit from there."
“Này con, Hoàng hậu có lòng thèm ăn quả xoài Abbhantara. Cây xoài đó ở trong hang núi vàng trên núi Hy Mã Lạp Sơn, là vật hưởng dụng của các vị thiên nhân. Người phàm không thể đến đó được, nên ngươi phải mang quả xoài đó về.”
‘‘Sādhu, deva, āharissāmī’’ti.
"Very well, Your Majesty, I shall bring it."
“Vâng, tâu Đại Vương, con sẽ mang về.”
Atha naṃ rājā suvaṇṇataṭṭake madhulāje khādāpetvā sakkharapānakaṃ pāyetvā satapākatelena tassa pakkhantarāni makkhetvā ubhohi hatthehi gahetvā sīhapañjare ṭhatvā ākāse vissajjesi.
Then the king fed it honeyed puffed rice from a golden plate, gave it sweetened water to drink, anointed its wing-joints with oil purified a hundred times, took it with both hands, stood in the lion's cage, and released it into the sky.
Sau đó, Đức Vua cho nó ăn cốm mật trên đĩa vàng, uống nước đường, xoa dầu bách luyện lên hai cánh của nó, rồi dùng hai tay nâng nó lên, đứng ở lồng sư tử và thả nó bay lên không trung.
Sopi rañño nipaccakāraṃ dassetvā ākāse pakkhandanto manussapathaṃ atikkamma himavante paṭhame pabbatantare vasantānaṃ sukānaṃ santikaṃ gantvā abbhantaraambo nāma kattha atthi, kathetha me taṃ ṭhāna’’nti pucchi.
He, too, showing his gratitude to the king, leapt into the air, passed beyond the human path, and going to the parrots living in the first mountain range of the Himalayas, asked, "Where is the mango tree called Abbhantara? Tell me that place."
Nó cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Vua, bay vút lên không trung, vượt qua đường của loài người, đến chỗ những con vẹt sống ở hang núi đầu tiên trên núi Hy Mã Lạp Sơn và hỏi: “Cây xoài Abbhantara ở đâu? Hãy chỉ cho tôi nơi đó.”
‘‘Mayaṃ na jānāma, dutiye pabbatantare sukā jānissantī’’ti.
"We do not know. The parrots in the second mountain range will know."
“Chúng tôi không biết, những con vẹt ở hang núi thứ hai sẽ biết.”
2432
So tesaṃ vacanaṃ sutvā tato uppatitvā dutiyaṃ pabbatantaraṃ agamāsi, tathā tatiyaṃ, catutthaṃ, pañcamaṃ, chaṭṭhaṃ agamāsi.
Hearing their words, he flew from there to the second mountain range, and likewise to the third, fourth, fifth, and sixth.
Nghe lời chúng, nó bay lên từ đó và đi đến hang núi thứ hai; rồi thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu.
Tatthapi naṃ sukā ‘‘na mayaṃ jānāma, sattamapabbatantare sukā jānissantī’’ti āhaṃsu.
There too, the parrots told him, "We do not know. The parrots in the seventh mountain range will know."
Ở đó, những con vẹt cũng nói với nó: “Chúng tôi không biết, những con vẹt ở hang núi thứ bảy sẽ biết.”
So tatthapi gantvā ‘‘abbhantaraambo nāma kattha atthī’’ti pucchi.
He went there too and asked, "Where is the mango tree called Abbhantara?"
Nó cũng đến đó và hỏi: “Cây xoài Abbhantara ở đâu?”
‘‘Asukaṭṭhāne nāma kañcanapabbatantare’’ti āhaṃsu.
They said, "It is in a certain place, in the golden mountain range."
Chúng đáp: “Ở hang núi vàng tên là Asukaṭṭhāna.”
‘‘Ahaṃ tassa phalatthāya āgato, maṃ tattha netvā tato me phalaṃ dāpethā’’ti.
"I have come for its fruit. Lead me there and let me have its fruit."
“Tôi đến vì quả của nó, hãy dẫn tôi đến đó và cho tôi một quả.”
Sukagaṇā āhaṃsu – ‘‘samma, so vessavaṇamahārājassa paribhogo, na sakkā upasaṅkamituṃ, sakalarukkho mūlato paṭṭhāya sattahi lohajālehi parikkhitto, sahassakumbhaṇḍarakkhasā rakkhanti, tehi diṭṭhassa jīvitaṃ nāma natthi, kappuṭṭhānaggiavīcimahānirayasadisaṭṭhānaṃ, mā tattha patthanaṃ karī’’ti.
The flock of parrots said, "Friend, that is the possession of King Vessavaṇa. It is not possible to approach it. The entire tree, from its root upwards, is surrounded by seven iron nets, and a thousand Kumbhaṇḍa ogres guard it. For one seen by them, there is no life. It is a place like the great Avīci hell, which arises at the end of a world-cycle. Do not wish for that place."
Đàn vẹt nói: “Này bạn, đó là vật hưởng dụng của Đại Vương Vessavaṇa, không thể đến gần được. Cả cây xoài từ gốc trở lên đều được bao bọc bởi bảy lớp lưới sắt, được hàng ngàn quỷ Kumbhaṇḍa canh giữ. Kẻ nào bị chúng nhìn thấy thì không còn mạng sống. Nơi đó giống như đại địa ngục Avīci, nơi lửa cháy từ đầu kiếp. Đừng mong cầu đến đó.”
‘‘Sace tumhe na gacchatha, mayhaṃ ṭhānaṃ ācikkhathā’’ti.
"If you do not go, tell me the way."
“Nếu các bạn không đi, hãy chỉ cho tôi đường đi.”
‘‘Tena hi asukena ca asukena ca ṭhānena yāhī’’ti.
"Then go by such and such a place."
“Vậy thì, hãy đi theo con đường này và con đường này.”
So tehi ācikkhitavaseneva suṭṭhu maggaṃ upadhāretvā taṃ ṭhānaṃ gantvā divā attānaṃ adassetvā majjhimayāmasamanantare rakkhasānaṃ niddokkamanasamaye abbhantaraambassa santikaṃ gantvā ekena mūlantarena saṇikaṃ abhiruhituṃ ārabhi.
He, having carefully ascertained the path as described by them, went to that place and, without revealing himself during the day, at the end of the middle watch, at the time when the ogres were falling asleep, he went to the Abbhantara mango tree and slowly began to climb up through a root-opening.
Nó đã ghi nhớ kỹ con đường mà chúng chỉ dẫn, đi đến nơi đó, không để lộ mình vào ban ngày, và ngay sau giữa canh, khi các quỷ đang ngủ say, nó đến gần cây xoài Abbhantara và bắt đầu từ từ leo lên qua một kẽ hở ở gốc cây.
Lohajālaṃ ‘‘kirī’’ti saddamakāsi.
The iron net made a "kirī" sound.
Lưới sắt kêu “kiri”.
2433
Rakkhasā pabujjhitvā sukapotakaṃ disvā ‘‘ambacoroya’’nti gahetvā kammakaraṇaṃ saṃvidahiṃsu.
The ogres awoke, saw the parrot, and, exclaiming "This is the mango thief!", they made preparations for his punishment.
Các quỷ thức dậy, thấy con vẹt con liền nói: “Đây là kẻ trộm xoài!” và chuẩn bị hành hình.
Eko ‘‘mukhe pakkhipitvā gilissāmi na’’nti āha, aparo ‘‘hatthehi madditvā puñjitvā vippakirissāmi na’’nti, aparo ‘‘dvedhā phāletvā aṅgāresu pacitvā khādissāmī’’ti.
One said, "I will put him in my mouth and swallow him." Another said, "I will crush him with my hands, grind him, and scatter him." Another said, "I will split him in two, roast him on coals, and eat him."
Một con nói: “Ta sẽ bỏ vào miệng nuốt chửng nó!” Con khác nói: “Ta sẽ nghiền nát nó bằng tay, vò nát rồi vứt tung tóe!” Con khác nữa nói: “Ta sẽ xẻ đôi nó, nướng trên than hồng rồi ăn!”
So tesaṃ kammakaraṇasaṃvidhānaṃ sutvāpi asantasitvāva te rakkhase āmantetvā ‘‘ambho rakkhasā, tumhe kassa manussā’’ti āha.
Hearing their preparations for punishment, he, without being frightened, addressed those ogres, "Sirs, ogres, whose men are you?"
Nghe chúng bàn tính cách hành hình, nó không hề sợ hãi mà gọi các quỷ đó và nói: “Này các quỷ, các ngươi là người của ai?”
‘‘Vessavaṇamahārājassā’’ti.
"King Vessavaṇa's."
“Của Đại Vương Vessavaṇa.”
‘‘Ambho, tumhepi ekassa raññova manussā, ahampi raññova manusso, bārāṇasirājā maṃ abbhantaraambaphalatthāya pesesi, svāhaṃ tattheva attano rañño jīvitaṃ datvā āgato.
"Sirs, you are also the men of a king, and I too am the man of a king. The King of Bārāṇasī sent me for the fruit of the Abbhantara mango. I have come here having given my life for my king.
“Này các ngươi, các ngươi cũng là người của một vị vua, ta cũng là người của một vị vua. Đức Vua Bārāṇasī đã phái ta đến để tìm quả xoài Abbhantara. Ta đã đến đây để dâng mạng sống của mình cho Đức Vua của ta.
Yo hi attano mātāpitūnañceva sāmikassa ca atthāya jīvitaṃ pariccajati, so devalokeyeva nibbattati, tasmā ahampi imamhā tiracchānayoniyā cavitvā devaloke nibbattissāmī’’ti vatvā tatiyaṃ gāthamāha –
Indeed, whoever sacrifices their life for the sake of their parents and their master is reborn in the deva-world. Therefore, I too, passing away from this animal realm, will be reborn in the deva-world," and having said this, he spoke the third verse:
Kẻ nào hy sinh mạng sống vì cha mẹ và chủ của mình, kẻ đó sẽ được tái sinh vào cõi trời. Do đó, ta cũng sẽ chuyển từ loài súc sanh này mà tái sinh vào cõi trời.” Nói xong, nó đọc bài kệ thứ ba –
2434
93.
93.
93.
2435
‘‘Bhatturatthe parakkanto, yaṃ ṭhānamadhigacchati;
"Having striven for the master's welfare, whatever state one attains;
“Kẻ anh hùng hy sinh thân mình,
2436
Sūro attapariccāgī, labhamāno bhavāmaha’’nti.
A hero, sacrificing himself, may I attain that."
Nỗ lực vì lợi ích của chủ, sẽ đạt được cảnh giới cao quý; ta cũng sẽ đạt được điều đó.”
2437
Tattha bhatturattheti bhattā vuccanti bhattādīhi bharaṇaposakā pitā mātā sāmiko ca, iti tividhassapetassa bhattu atthāya.
There, bhatturatthe means for the welfare of the master. Masters are called those who nourish and support with food, etc., namely, father, mother, and husband. Thus, for the welfare of these three kinds of masters.
Ở đây, bhatturatthe có nghĩa là vì lợi ích của ba loại chủ: cha, mẹ và chủ, những người nuôi dưỡng bằng thực phẩm và các vật dụng khác.
Parakkantoti parakkamaṃ karonto vāyamanto.
Parakkanto means striving, making effort.
Parakkanto có nghĩa là nỗ lực, cố gắng.
Yaṃ ṭhānamadhigacchatīti yaṃ sukhakāraṇaṃ yasaṃ vā lābhaṃ vā saggaṃ vā adhigacchati.
Yaṃ ṭhānamadhigacchati means whatever state of happiness, or fame, or gain, or heaven one attains.
Yaṃ ṭhānamadhigacchati có nghĩa là đạt được điều gì đó mang lại hạnh phúc, danh tiếng, lợi lộc hoặc cõi trời.
Sūroti abhīru vikkamasampanno.
Sūro means fearless, endowed with valor.
Sūro có nghĩa là dũng cảm, không sợ hãi, đầy nghị lực.
Attapariccāgīti kāye ca jīvite ca nirapekkho hutvā tassa tividhassapi bhattu atthāya attānaṃ pariccajanto.
Attapariccāgī means sacrificing oneself for the welfare of those three kinds of masters, being indifferent to one's body and life.
Attapariccāgī có nghĩa là hy sinh bản thân vì lợi ích của ba loại chủ đó, không tiếc thân mạng.
Labhamāno bhavāmahanti yaṃ so evarūpo sūro devasampattiṃ vā manussasampattiṃ vā labhati, ahampi taṃ labhamāno bhavāmi, tasmā hāsova me ettha, na tāso, kiṃ maṃ tumhe tāsethāti.
Labhamāno bhavāmaha means whatever divine prosperity or human prosperity such a hero obtains, may I also obtain that. Therefore, it is a joy for me here, not fear. Why do you frighten me?
Labhamāno bhavāmahanti có nghĩa là điều mà kẻ anh hùng như vậy đạt được, dù là sự giàu sang của chư thiên hay loài người, ta cũng sẽ đạt được điều đó. Do đó, ở đây ta chỉ có niềm vui, không có sự sợ hãi. Tại sao các ngươi lại dọa ta?
2438
Evaṃ so imāya gāthāya tesaṃ dhammaṃ desesi.
Thus, he taught them the Dhamma with this verse.
Như vậy, nó đã thuyết pháp cho chúng bằng bài kệ này.
Te tassa dhammakathaṃ sutvā pasannacittā ‘‘dhammiko esa, na sakkā māretuṃ, vissajjema na’’nti vatvā sukapotakaṃ vissajjetvā ‘ambho sukapotaka, muttosi, amhākaṃ hatthato sotthinā gacchā’’ti āhaṃsu.
Having heard his discourse on Dhamma, they, with minds pleased, said, "He is righteous; it is not possible to kill him. Let us release him." And having released the parrot, they said, "Oh parrot, you are free! Go safely from our hands."
Nghe lời thuyết pháp của nó, các quỷ hoan hỷ nói: “Kẻ này là người có đạo đức, không thể giết được, hãy thả nó ra!” Rồi chúng thả con vẹt con và nói: “Này vẹt con, ngươi đã được tự do, hãy đi bình an khỏi tay chúng ta.”
‘‘Mayhaṃ āgamanaṃ mā tucchaṃ karotha, detha me ekaṃ ambaphala’’nti.
"Do not make my coming in vain; give me one mango fruit."
“Đừng để chuyến đi của tôi vô ích, hãy cho tôi một quả xoài.”
‘‘Sukapotaka, tuyhaṃ ekaṃ ambaphalaṃ dātuṃ nāma na bhāro, imasmiṃ pana rukkhe ambāni aṅketvā gahitāni, ekasmiṃ phale asamente amhākaṃ jīvitaṃ natthi.
"Parrot, to give you one mango fruit is not a burden. But the mangoes on this tree have been marked and taken; if even one fruit is missing, our lives will be lost.
“Này vẹt con, việc cho ngươi một quả xoài không phải là khó, nhưng những quả xoài trên cây này đã được đánh dấu và đếm. Nếu thiếu một quả, mạng sống của chúng ta sẽ không còn.
Vessavaṇena hi kujjhitvā sakiṃ olokite tattakapāle pakkhittatilā viya kumbhaṇḍasahassaṃ bhijjitvā vippakirīyati, tena te dātuṃ na sakkoma, labhanaṭṭhānaṃ pana ācikkhissāmā’’ti.
For when Vessavaṇa looks with anger, a thousand kumbhaṇḍas shatter and scatter like sesame seeds put into a hot pot. Therefore, we cannot give them to you, but we will tell you where to get them."
Vì nếu Vessavaṇa nổi giận và nhìn một lần, hàng ngàn quỷ Kumbhaṇḍa sẽ bị vỡ tan như hạt mè rang trong chảo nóng. Vì vậy, chúng ta không thể cho ngươi. Nhưng chúng ta sẽ chỉ cho ngươi nơi có thể lấy được.”
‘‘Yo koci detu, phaleneva me attho, labhanaṭṭhānaṃ ācikkhathā’’ti.
"Let anyone give it; I am only concerned with the fruit. Tell me where to get it."
“Ai cho cũng được, tôi chỉ cần quả xoài. Hãy chỉ cho tôi nơi có thể lấy được.”
‘‘Etassa kañcanapabbatassa antare jotiraso nāma tāpaso aggiṃ juhamāno kañcanapattiyā nāma paṇṇasālāyaṃ vasati vessavaṇassa kulūpako, vessavaṇo tassa nibaddhaṃ cattāri ambaphalāni peseti, tassa santikaṃ gacchā’’ti.
"Within this golden mountain, there lives an ascetic named Jotirasa, a devotee of Vessavaṇa, who offers fire and resides in a leaf-hut named Kañcanapatti. Vessavaṇa regularly sends him four mango fruits. Go to him."
“Trong hang núi vàng này, có một đạo sĩ tên là Jotirasa đang cúng lửa, sống trong một am lá tên là Kañcanapatti. Ông ấy là người thân cận của Vessavaṇa. Vessavaṇa thường xuyên gửi cho ông ấy bốn quả xoài. Hãy đến chỗ ông ấy.”
2439
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā tāpasassa santikaṃ gantvā vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
He, saying "So be it," went to the ascetic, paid homage, and sat down to one side.
Nó nói “Lành thay!” rồi chấp nhận, đi đến chỗ đạo sĩ, đảnh lễ và ngồi sang một bên.
Atha naṃ tāpaso ‘‘kuto āgatosī’’ti pucchi.
Then the ascetic asked him, "Where have you come from?"
Sau đó, đạo sĩ hỏi nó: “Ngươi từ đâu đến?”
‘‘Bārāṇasirañño santikā’’ti.
"From the King of Bārāṇasī."
“Từ chỗ Đức Vua Bārāṇasī.”
‘‘Kimatthāya āgatosī’’ti?
"For what purpose have you come?"
“Ngươi đến vì việc gì?”
‘‘Sāmi, amhākaṃ rañño deviyā abbhantaraambapakke dohaḷo uppanno, tadatthaṃ āgatomhi, rakkhasā pana me sayaṃ ambapakkaṃ adatvā tumhākaṃ santikaṃ pesesu’’nti.
"Venerable sir, a craving for ripe mangoes has arisen in our king's queen. I have come for that purpose. The rākṣasas, however, did not give me a mango fruit themselves but sent me to you."
“Bạch Tôn giả, Hoàng hậu của Đức Vua chúng con có lòng thèm ăn quả xoài Abbhantara chín, con đến vì việc đó. Các quỷ đã không tự mình cho con quả xoài mà lại phái con đến chỗ Tôn giả.”
‘‘Tena hi nisīda, labhissasī’’ti.
"Then sit down, you will receive it."
“Vậy thì, hãy ngồi xuống, ngươi sẽ nhận được.”
Athassa vessavaṇo cattāri phalāni pesesi.
Then Vessavaṇa sent him four fruits.
Sau đó, Vessavaṇa gửi bốn quả cho đạo sĩ.
Tāpaso tato dve paribhuñji, ekaṃ suvapotakassa khādanatthāya adāsi.
The ascetic ate two of them and gave one for the parrot to eat.
Đạo sĩ ăn hai quả, và cho con vẹt con một quả để ăn.
Tena tasmiṃ khādite ekaṃ phalaṃ sikkāya pakkhipitvā suvapotakassa gīvāya paṭimuñcitvā ‘‘idāni gacchā’’ti sukapotakaṃ vissajjesi.
After it had eaten that, he put one fruit into a net, tied it around the parrot's neck, and released the parrot, saying, "Now go."
Sau khi nó ăn xong, đạo sĩ bỏ một quả vào túi lưới, buộc vào cổ con vẹt con và nói: “Bây giờ hãy đi đi!” rồi thả con vẹt con ra.
So taṃ āharitvā deviyā adāsi.
It brought that and gave it to the queen.
Nó mang quả đó về và dâng cho Hoàng hậu.
Sā taṃ khāditvā dohaḷaṃ paṭippassambhesi, tatonidānaṃ panassā putto nāhosi.
She ate it and her craving subsided, but because of that, she did not have a son.
Hoàng hậu ăn quả đó và lòng thèm ăn dịu đi, nhưng từ đó bà không có con trai.
2440
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā devī rāhulamātā ahosi, suko ānando, ambapakkadāyako tāpaso sāriputto, uyyāne nivutthatāpaso pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the queen was Rāhula's mother; the parrot was Ānanda; the ascetic who gave the mango fruit was Sāriputta; and the ascetic residing in the park was I myself."
Đức Bổn Sư đã kể lại câu chuyện pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Vào thời đó, Hoàng hậu là mẹ của Rāhula, con vẹt là Ānanda, đạo sĩ cho quả xoài là Sāriputta, còn đạo sĩ sống trong khu vườn chính là Ta.”
2441
Abbhantarajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The first description of the Abbhantara Jātaka.
Câu chuyện Abbhantara Jātaka thứ nhất đã chấm dứt.
2442
* 2. Seyyajātakavaṇṇanā
* 2. Seyya Jātaka Description
* 2. Câu chuyện Seyya Jātaka
2443
Seyyaṃso seyyaso hotīti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kosalarañño amaccaṃ ārabbha kathesi.
"The better one becomes even better" – The Teacher, while residing at Jetavana, told this story concerning a minister of the King of Kosala.
Seyyaṃso seyyaso hotī (Kẻ tốt hơn sẽ trở thành tốt nhất) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một vị đại thần của Đức Vua Kosala.
So kira rañño bahūpakāro sabbakiccanipphādako ahosi.
He was, it is said, of great service to the king, accomplishing all tasks.
Vị ấy là người đã giúp ích rất nhiều cho Đức Vua, hoàn thành mọi công việc.
Rājā ‘‘bahūpakāro me aya’’nti tassa mahantaṃ yasaṃ adāsi.
The king, thinking "He is of great service to me," bestowed great honor upon him.
Đức Vua nghĩ: “Vị này đã giúp ích rất nhiều cho ta,” nên đã ban cho vị ấy danh vọng lớn lao.
Taṃ asahamānā aññe rañño pesuññaṃ upasaṃharitvā taṃ paribhindiṃsu.
Others, unable to bear this, brought slander to the king and caused him to be alienated.
Không thể chịu đựng điều đó, những người khác đã dâng lời gièm pha lên vua và chia rẽ vị ấy.
Rājā tesaṃ vacanaṃ saddahitvā dosaṃ anupaparikkhitvāva taṃ sīlavantaṃ niddosaṃ saṅkhalikabandhanena bandhāpetvā bandhanāgāre pakkhipāpesi.
The king, believing their words, and without examining the fault, had that virtuous and blameless minister bound in chains and cast into prison.
Vua tin lời họ, không điều tra kỹ lỗi lầm mà ra lệnh xiềng xích vị tỳ khưu giữ giới trong sạch ấy rồi tống vào ngục.
So tattha ekako vasanto sīlasampattiṃ nissāya cittekaggataṃ labhitvā ekaggacitto saṅkhāre sammasitvā sotāpattiphalaṃ pāpuṇi.
Residing there alone, by virtue of his moral perfection, he attained one-pointedness of mind, and with a concentrated mind, he contemplated the formations and attained the fruit of stream-entry (sotāpatti).
Vị ấy ở một mình trong ngục, nhờ vào sự thành tựu giới hạnh mà đạt được tâm định, với tâm định ấy đã quán xét các hành và chứng đắc quả Dự Lưu (Sotāpatti).
Athassa rājā aparabhāge niddosabhāvaṃ ñatvā saṅkhalikabandhanaṃ bhindāpetvā purimayasato mahantataraṃ yasaṃ adāsi.
Later, the king, realizing his blamelessness, had his chains broken and bestowed upon him even greater honor than before.
Sau đó, vua biết được sự trong sạch của vị ấy, liền ra lệnh phá bỏ xiềng xích và ban cho vị ấy danh vọng lớn hơn trước.
So ‘‘satthāraṃ vandissāmī’’ti bahūni mālāgandhādīni ādāya vihāraṃ gantvā tathāgataṃ pūjetvā vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
He, thinking "I will pay homage to the Teacher," took many garlands, perfumes, and other offerings, went to the monastery, honored the Tathāgata, paid homage, and sat down to one side.
Vị ấy nghĩ: “Tôi sẽ đảnh lễ Đức Bổn Sư,” liền mang theo nhiều vòng hoa, hương liệu và các thứ khác đến tịnh xá, cúng dường và đảnh lễ Đức Như Lai rồi ngồi sang một bên.
Satthā tena saddhiṃ paṭisanthāraṃ karonto ‘‘anattho kira te uppannoti assumhā’’ti āha.
The Teacher, conversing with him, said, "We heard that some misfortune befell you."
Đức Bổn Sư hỏi thăm vị ấy: “Nghe nói có điều bất lợi đã xảy ra cho ông phải không?”
‘‘Āma, bhante, uppanno, ahaṃ pana tena anatthena atthaṃ akāsiṃ, bandhanāgāre nisīditvā sotāpattiphalaṃ nibbattesi’’nti.
"Yes, Venerable sir, it did befall me, but I turned that misfortune into a benefit; by sitting in prison, I brought forth the fruit of stream-entry."
“Thưa Bạch Đức Thế Tôn, đúng vậy, có điều bất lợi đã xảy ra, nhưng tôi đã biến điều bất lợi đó thành lợi ích. Khi ngồi trong ngục, tôi đã chứng đắc quả Dự Lưu.”
Satthā ‘‘na kho, upāsaka, tvaññeva anatthena atthaṃ āhari, porāṇakapaṇḍitāpi attano anatthena atthaṃ āhariṃ suyevā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, "It is not only you, lay follower, who turned misfortune into benefit; ancient wise ones also turned their misfortunes into benefits," and being requested by him, recounted a past story.
Đức Bổn Sư nói: “Này cận sự nam, không chỉ riêng ông biến điều bất lợi thành lợi ích, mà các bậc hiền trí thời xưa cũng đã biến điều bất lợi của mình thành lợi ích.” Sau khi nói vậy, theo lời thỉnh cầu của vị ấy, Đức Bổn Sư đã kể lại câu chuyện quá khứ.
2444
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa aggamahesiyā kucchimhi nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sabbasippāni uggaṇhitvā pitu accayena rajje patiṭṭhāya dasa rājadhamme akopetvā dānaṃ deti, pañca sīlāni rakkhati, uposathakammaṃ karoti.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in the womb of his chief queen. Having reached maturity, he learned all crafts in Takkasilā, and after his father's demise, he established himself in the kingship. Without violating the ten royal virtues, he gave alms, observed the five precepts, and performed the Uposatha ceremony.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào thai của hoàng hậu, khi đến tuổi trưởng thành, đã học tất cả các nghề ở Takkasilā, sau khi vua cha băng hà, Ngài lên ngôi trị vì, không vi phạm mười pháp của bậc vua chúa, bố thí, giữ gìn năm giới, và thực hành các nghi lễ Uposatha.
Athasseko amacco antepure padussi.
Then one of his ministers misbehaved in the inner palace.
Sau đó, một vị quan của Ngài đã phạm lỗi trong hậu cung.
Pādamūlikādayo ñatvā ‘‘asukaamacco antepure paduṭṭho’’ti rañño ārocesuṃ.
The palace servants and others, knowing this, reported to the king, "Such and such a minister has misbehaved in the inner palace."
Các người hầu cận biết được, liền tâu lên vua: “Thưa Đại Vương, vị quan kia đã phạm lỗi trong hậu cung.”
Rājā pariggaṇhanto yathāsabhāvato ñatvā pakkosāpetvā ‘‘mā maṃ ito paṭṭhāya upaṭṭhāhī’’ti nibbisayaṃ akāsi.
The king, investigating and knowing the truth, had him summoned and, saying, "Do not attend upon me from now on," banished him.
Vua điều tra và biết rõ sự thật, liền triệu vị quan đó đến và phán: “Từ nay trở đi, ngươi đừng hầu hạ ta nữa,” rồi trục xuất vị ấy khỏi lãnh thổ.
So gantvā aññataraṃ sāmantarājānaṃ upaṭṭhahīti sabbaṃ vatthu heṭṭhā mahāsīlavajātake (jā. 1.1.51) kathitasadisameva.
He went and served another neighboring king; the entire story is similar to what was narrated below in the Mahāsīlava Jātaka.
Vị ấy đi và hầu hạ một vị tiểu vương lân cận. Toàn bộ câu chuyện tương tự như đã kể trong Đại Giới Hạnh Jātaka (Jā. 1.1.51).
Idhāpi so rājā tikkhattuṃ vīmaṃsitvā tassa amaccassa vacanaṃ saddahitvā ‘‘bārāṇasirajjaṃ gaṇhissāmī’’ti mahantena parivārena rajjasīmaṃ pāpuṇi.
Here too, that king, having investigated three times and believing the words of that minister, reached the border of the kingdom with a large retinue, thinking, "I will seize the kingdom of Bārāṇasī."
Ở đây, vị vua đó cũng đã ba lần điều tra, rồi tin lời vị quan kia và dẫn theo một đoàn tùy tùng lớn đến biên giới để chiếm lấy vương quốc Bārāṇasī.
Bārāṇasirañño sattasatamattā mahāyodhā taṃ pavattiṃ sutvā ‘‘deva, asuko nāma kira rājā bārāṇasirajjaṃ gaṇhissāmī’ti janapadaṃ bhindanto āgacchati, ettheva naṃ gantvā gaṇhissāmā’’ti āhaṃsu.
Seven hundred great warriors of the king of Bārāṇasī, hearing that news, said, "Your Majesty, it seems that a certain king is coming, breaking into the country, intending to seize the kingdom of Bārāṇasī. We will go and capture him right here."
Bảy trăm dũng sĩ của vua Bārāṇasī nghe tin đó liền tâu: “Thưa Đại Vương, nghe nói có vị vua kia đang đến để chiếm vương quốc Bārāṇasī, tàn phá đất nước. Chúng ta hãy đi bắt hắn ngay tại đây.”
‘‘Mayhaṃ paravihiṃsāya laddhena rajjena kiccaṃ natthi, mā kiñci karitthā’’ti?
"I have no need for a kingdom obtained by harming others. Do not do anything!"
Vua nói: “Ta không cần vương quốc giành được bằng cách làm hại người khác. Đừng làm gì cả!”
2445
Corarājā āgantvā nagaraṃ parikkhipi, puna amaccā rājānaṃ upasaṅkamitvā ‘‘deva, mā evaṃ karittha, gaṇhissāma na’’nti āhaṃsu.
The robber king came and surrounded the city. Again, the ministers approached the king and said, "Your Majesty, do not do this. We will capture him."
Vua giặc đến bao vây thành. Các quan lại lại đến tâu vua: “Thưa Đại Vương, xin đừng làm vậy, chúng ta hãy bắt hắn.”
Rājā ‘‘na labbhā kiñci kātuṃ, nagaradvārāni vivarathā’’ti vatvā sayaṃ amaccagaṇaparivuto mahātale rājapallaṅke nisīdi.
The king said, "Nothing can be done. Open the city gates!" and then, surrounded by his retinue of ministers, he sat on the royal throne in the great hall.
Vua nói: “Không thể làm gì được. Hãy mở cửa thành,” rồi Ngài cùng đoàn tùy tùng ngồi trên ngai vàng ở đại sảnh.
Corarājā catūsu dvāresu manusse pothento nagaraṃ pavisitvā pāsādaṃ abhiruyha amaccaparivutaṃ rājānaṃ gāhāpetvā saṅkhalikāhi bandhāpetvā bandhanāgāre pakkhipāpesi.
The robber king, beating people at the four gates, entered the city, ascended the palace, had the king, surrounded by his ministers, seized, bound with chains, and thrown into prison.
Vua giặc xông vào thành qua bốn cửa, giết hại người dân, rồi leo lên cung điện, bắt vua cùng các quan lại, xiềng xích lại và tống vào ngục.
Rājā bandhanāgāre nisinnova corarājānaṃ mettāyanto mettajjhānaṃ uppādesi.
The king, sitting in prison, directed loving-kindness towards the robber king and developed mettā meditation.
Vua, khi đang ngồi trong ngục, đã phát triển thiền định từ tâm (mettājhāna) hướng đến vua giặc.
Tassa mettānubhāvena corarañño kāye ḍāho uppajji, sakalasarīraṃ yamakaukkāhi jhāpiyamānaṃ viya jātaṃ.
Through the power of his mettā, a burning sensation arose in the robber king's body; his entire body felt as if it were being scorched by twin torches.
Nhờ năng lực của tâm từ bi đó, một cơn nóng rát đã nổi lên trong thân thể vua giặc, toàn thân như bị đốt cháy bởi hai ngọn lửa.
So mahādukkhābhitunno ‘‘kiṃ nu kho kāraṇa’’nti pucchi.
Overwhelmed by great suffering, he asked, "What could be the cause?"
Vua giặc bị đau khổ tột cùng, hỏi: “Nguyên nhân là gì vậy?”
‘‘Tumhe sīlavantaṃ rājānaṃ bandhanāgāre pakkhipetha, tena vo idaṃ dukkhaṃ uppannaṃ bhavissatī’’ti.
"You have thrown the virtuous king into prison. This suffering must have arisen for you because of that."
“Các hạ đã tống vị vua giữ giới vào ngục, có lẽ vì thế mà nỗi đau này đã phát sinh cho các hạ.”
So gantvā bodhisattaṃ khamāpetvā ‘‘tumhākaṃ rajjaṃ tumhākameva hotū’’ti rajjaṃ tasseva niyyādetvā ‘‘ito paṭṭhāya tumhākaṃ paccatthiko me bhāro hotū’’ti vatvā paduṭṭhāmaccassa rājāṇaṃ kāretvā attano nagarameva gato.
He went and apologized to the Bodhisatta, saying, "Let your kingdom be yours alone," and handed the kingdom back to him. Then, saying, "From now on, your enemies are my responsibility," he had the corrupt minister executed and returned to his own city.
Vua giặc đến xin lỗi Bồ Tát, nói: “Vương quốc của Ngài hãy thuộc về Ngài,” rồi trả lại vương quốc cho Ngài. Sau đó, nói: “Từ nay trở đi, kẻ thù của Ngài sẽ là gánh nặng của tôi,” rồi ra lệnh xử tội vị quan phản bội và trở về thành của mình.
2446
Bodhisatto alaṅkatamahātale samussitasetacchatte rājapallaṅke nisinno amaccehi saddhiṃ sallapanto purimā dvegāthā avoca –
The Bodhisatta, seated on the royal throne in the adorned great hall with the white parasol raised, conversed with his ministers and spoke the first two verses:
Bồ Tát, ngồi trên ngai vàng với chiếc lọng trắng được dựng lên trên đại sảnh trang hoàng, trò chuyện với các quan lại và nói hai bài kệ đầu tiên:
2447
94.
94.
94.
2448
‘‘Seyyaṃso seyyaso hoti, yo seyyamupasevati;
"He who associates with the superior becomes superior;
“Người ưu việt sẽ trở nên ưu việt hơn, ai phụng sự người ưu việt;
2449
Ekena sandhiṃ katvāna, sataṃ vajjhe amocayiṃ.
By making peace with one, I freed a hundred condemned to death."
Kết giao với một người, ta đã giải thoát hàng trăm kẻ đáng bị trói buộc.”
2450
95.
95.
95.
2451
‘‘Tasmā sabbena lokena, sandhiṃ katvāna ekato;
"Therefore, by making peace with all the world as one,
“Vì vậy, hãy kết giao với tất cả mọi người, cùng nhau;
2452
Pecca saggaṃ nigaccheyya, idaṃ suṇātha kāsiyā’’ti.
One goes to heaven after death. Listen to this, people of Kāsī!"
Sau khi chết sẽ lên cõi trời, hỡi dân Kāsī, hãy lắng nghe điều này!”
2453
Tattha seyyaṃso seyyaso hoti, yo seyyamupasevatīti anavajjauttamadhammasaṅkhāto seyyo aṃso koṭṭhāso assāti seyyaṃso, kusaladhammanissitapuggalo.
Here, seyyaṃso seyyaso hoti, yo seyyamupasevatī means "superior" (seyyaṃso) is one who possesses a superior part (aṃsa), referring to the blameless highest Dhamma, a person devoted to wholesome states. He who repeatedly associates with that superior one, that cultivation of wholesome states, or that supreme person who delights in wholesome states, becomes superior (seyyaso), more praiseworthy and more excellent.
Ở đây, seyyaṃso seyyaso hoti, yo seyyamupasevatī có nghĩa là: người có phần ưu việt, tức là người có phẩm chất ưu việt không đáng chê trách, người nương tựa vào các pháp thiện. Người nào thường xuyên phụng sự sự tu tập các pháp thiện ưu việt đó, hoặc phụng sự một người ưu việt yêu thích sự thiện, thì người đó sẽ trở nên ưu việt hơn và xuất sắc hơn.
Yo punappunaṃ taṃ seyyaṃ kusaladhammabhāvanaṃ kusalābhirataṃ vā uttamapuggalamupasevati, so seyyaso hoti pāsaṃsataro ceva uttaritaro ca hoti.
He who repeatedly associates with that superior one, that cultivation of wholesome states, or that supreme person who delights in wholesome states, becomes superior (seyyaso), more praiseworthy and more excellent.
Người nào thường xuyên phụng sự sự tu tập các pháp thiện ưu việt đó, hoặc phụng sự một người ưu việt yêu thích sự thiện, thì người đó sẽ trở nên ưu việt hơn và xuất sắc hơn.
Ekena sandhiṃ katvāna, sataṃ vajjhe amocayinti tadamināpi cetaṃ veditabbaṃ – ahañhi seyyaṃ mettābhāvanaṃ upasevanto tāya mettābhāvanāya ekena coraraññā sandhiṃ santhavaṃ katvā mettābhāvanaṃ bhāvetvā tumhe satajane vajjhe amocayiṃ.
Ekena sandhiṃ katvāna, sataṃ vajjhe amocayi – this should also be understood as follows: Indeed, I, associating with the superior cultivation of mettā, by cultivating that mettā, made peace and friendship with one robber king, and thereby freed you, a hundred people, who were condemned to death.
Ekena sandhiṃ katvāna, sataṃ vajjhe amocayi có nghĩa là: điều này cũng cần được hiểu rằng – ta đây, khi phụng sự sự tu tập tâm từ, đã kết giao, kết bạn với một vị vua giặc bằng sự tu tập tâm từ đó, và nhờ tu tập tâm từ, ta đã giải thoát các ngươi, hàng trăm người đáng bị trói buộc.
2454
Dutiyagāthāya attho – yasmā ahaṃ ekena saddhiṃ ekato mettābhāvanāya sandhiṃ katvā tumhe vajjhappatte satajane mocayiṃ, tasmā veditabbamevetaṃ, tasmā sabbena lokena saddhiṃ mettābhāvanāya sandhiṃ katvā ekato puggalo pecca paraloke saggaṃ nigaccheyya.
The meaning of the second verse is: "Since I, having made peace with one and cultivated mettā, released a hundred people who were liable to punishment, it should be known that therefore a person, having made peace with the whole world through the cultivation of mettā, and being united, would go to heaven in the next world after death."
Ý nghĩa của bài kệ thứ hai là – bởi vì ta đã kết giao với một người để tu tập tâm từ, và đã giải thoát các ngươi, hàng trăm người đáng bị trói buộc, nên điều này cần được biết. Vì vậy, một người, sau khi kết giao với tất cả mọi người để tu tập tâm từ, sẽ tái sinh vào cõi trời ở đời sau.
Mettāya hi upacāraṃ kāmāvacare paṭisandhiṃ deti, appanā brahmaloke.
Indeed, the preliminary stage (upacāra) of mettā gives rebirth in the sense-sphere realms, while absorption (appanā) leads to the Brahma realms.
Thật vậy, sự cận định của tâm từ đưa đến tái sinh trong cõi dục giới, còn sự nhập định đưa đến tái sinh trong cõi Phạm thiên.
Idaṃ mama vacanaṃ sabbepi tumhe kāsiraṭṭhavāsino suṇāthāti.
"All of you, inhabitants of the Kasi kingdom, listen to these words of mine."
Hỡi tất cả những người dân xứ Kāsī, hãy lắng nghe lời nói này của ta!
2455
Evaṃ mahāsatto mahājanassa mettābhāvanāya guṇaṃ vaṇṇetvā dvādasayojanike bārāṇasinagare setacchattaṃ pahāya himavantaṃ pavisitvā isipabbajjaṃ pabbaji.
Thus, the Great Being, having praised the virtue of mettā-bhāvanā to the multitude, abandoned the white parasol in the city of Bārāṇasī, which was twelve yojanas in extent, and entered the Himalayas, taking up the ascetic's life.
Như vậy, Đại Bồ Tát đã tán dương công đức của sự tu tập tâm từ cho đại chúng, rồi từ bỏ vương quốc Bārāṇasī rộng mười hai dojana, đi vào dãy Himalaya và xuất gia làm ẩn sĩ.
Satthā sammāsambuddho hutvā tatiyaṃ gāthamāha –
The Teacher, having become a Sammāsambuddha, spoke the third verse:
Đức Bổn Sư, sau khi trở thành bậc Chánh Đẳng Giác, đã nói bài kệ thứ ba:
2456
96.
96.
96.
2457
‘‘Idaṃ vatvā mahārājā, kaṃso bārāṇasiggaho;
"Having said this, the great king Kaṃsa, the captor of Bārāṇasī,
“Đại vương Kaṃsa, người đã cai trị Bārāṇasī, nói điều này;
2458
Dhanuṃ kaṇḍañca nikkhippa, saṃyamaṃ ajjhupāgamī’’ti.
Put down his bow and arrow, and entered restraint."
Bỏ cung và tên, Ngài đã đi vào sự tự chế.”
2459
Tattha mahanto rājāti mahārājā.
Therein, mahārājā means a great king.
Ở đây, mahārājā là vị vua vĩ đại.
Kaṃsoti tassa nāmaṃ.
Kaṃso is his name.
Kaṃso là tên của vị ấy.
Bārāṇasiṃ gahetvā ajjhāvasanato bārāṇasiggaho.
Bārāṇasiggaho means one who seized and dwelt in Bārāṇasī.
Bārāṇasiggaho là người đã chiếm giữ và cai trị Bārāṇasī.
So rājā idaṃ vacanaṃ vatvā dhanuñca sarasaṅkhātaṃ kaṇḍañca nikkhippa ohāya chaḍḍetvā sīlasaṃyamaṃ upagato pabbajito, pabbajitvā ca pana jhānaṃ uppādetvā aparihīnajjhāno brahmaloke uppannoti.
That king, having spoken these words, put down his bow and the arrow, having abandoned and cast them aside, entered the restraint of sīla, became an ascetic, and having become an ascetic, developed jhāna, and without losing his jhāna, was reborn in the Brahma realm.
Vị vua đó, sau khi nói lời này, đã bỏ cungtên (sara) xuống, từ bỏ chúng, và đi vào sự tự chế giới hạnh, tức là xuất gia. Sau khi xuất gia, Ngài đã phát triển thiền định, và không bị thoái thất thiền định, Ngài đã tái sinh vào cõi Phạm thiên.
2460
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā corarājā ānando ahosi, bārāṇasirājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the king of thieves was Ānanda; the king of Bārāṇasī was I myself."
Đức Bổn Sư, sau khi thuyết giảng pháp này, đã kết nối Jātaka – “Khi đó, vua giặc là Ānanda, còn vua Bārāṇasī chính là Ta vậy.”
2461
Seyyajātakavaṇṇanā dutiyā.
The second explanation of the Seyya Jātaka is finished.
Chuyện Seyya Jātaka, thứ hai, chấm dứt.
2462
* 3. Vaḍḍhakīsūkarajātakavaṇṇanā
* 3. The explanation of the Vaḍḍhakīsūkara Jātaka
* 3. Chuyện Vaḍḍhakīsūkara Jātaka
2463
Varaṃ varaṃ tvanti idaṃ satthā jetavane viharanto dhanuggahatissattheraṃ ārabbha kathesi.
Varaṃ varaṃ tvaṃ – This the Teacher related while dwelling in Jetavana, concerning the Elder Dhanuggaha Tissa.
Varaṃ varaṃ tvanti – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến Trưởng lão Dhanuggahatissa.
Pasenadirañño pitā mahākosalo bimbisārarañño dhītaraṃ vedehiṃ nāma kosaladeviṃ dadamāno tassā nhānacuṇṇamūlaṃ satasahassuṭṭhānaṃ kāsigāmaṃ adāsi.
King Pasenadi's father, Mahākosala, when giving his daughter Vedehī, also known as Kosaladevi, to King Bimbisāra, gave her a Kasi village that yielded a hundred thousand (coins) for her bath powder.
Vua Mahākosala, cha của vua Pasenadi, khi gả công chúa Kosaladevi tên là Vedehī cho vua Bimbisāra, đã ban cho nàng một làng Kāsī có thu nhập một trăm ngàn (đồng tiền) làm tiền bột tắm.
Ajātasattunā pana pitari mārite kosaladevīpi sokābhibhūtā kālamakāsi.
However, when Ajātasattu killed his father, Kosaladevi also died, overcome with grief at her husband's death.
Sau đó, khi vua cha bị Ajātasattu giết hại, công chúa Kosaladevi cũng vì quá đau buồn mà qua đời.
Tato pasenadi kosalarājā cintesi – ‘‘ajātasattunā pitā mārito, bhaginīpi me sāmike kālakate tena sokena kālakatā, pitughātakassa corassa kāsigāmaṃ na dassāmī’’ti.
Then King Pasenadi of Kosala thought: "Ajātasattu killed his father, and my sister also died from grief after her husband's death. I will not give the Kasi village to that parricide and thief."
Từ đó, vua Pasenadi của Kosala nghĩ: “Ajātasattu đã giết cha ta, em gái ta cũng vì đau buồn khi chồng qua đời mà mất. Ta sẽ không ban làng Kāsī đó cho tên cướp giết cha.”
So taṃ ajātasattussa na adāsi.
So he did not give it to Ajātasattu.
Ngài không ban làng đó cho Ajātasattu.
Taṃ gāmaṃ nissāya tesaṃ dvinnampi kālena kālaṃ yuddhaṃ hoti, ajātasattu taruṇo samattho, pasenadi mahallakoyeva.
Because of that village, there were battles between the two of them from time to time; Ajātasattu was young and strong, while Pasenadi was already old.
Vì làng đó, hai vị vua thường xuyên xảy ra chiến tranh. Ajātasattu còn trẻ và mạnh mẽ, còn Pasenadi đã già.
So abhikkhaṇaṃ parajjati, mahākosalassāpi manussā yebhuyyena parājitā.
He was frequently defeated, and most of Mahākosala's men were also defeated.
Ngài thường xuyên thất bại, và binh lính của Mahākosala cũng hầu hết bị đánh bại.
Atha rājā ‘‘mayaṃ abhiṇhaṃ parajjāma, kiṃ nu kho kātabba’’nti amacce pucchi.
Then the king asked his ministers, "We are constantly being defeated; what should be done?"
Sau đó, vua hỏi các quan: “Chúng ta thường xuyên thất bại, phải làm gì đây?”
‘‘Deva, ayyā nāma mantacchekā honti, jetavanavihāre bhikkhūnaṃ kathaṃ sotuṃ vaṭṭatī’’ti.
"Your Majesty, the noble ones are skilled in counsel; it would be proper to listen to the discourse of the bhikkhus in the Jetavana monastery."
“Thưa Đại Vương, các vị A-la-hán là bậc trí tuệ cao siêu, nên lắng nghe lời dạy của các vị Tỳ khưu tại Jetavana.”
Rājā ‘‘tena hi tāyaṃ velāyaṃ bhikkhūnaṃ kathāsallāpaṃ suṇāthā’’ti carapurise āṇāpesi.
The king commanded his spies, "Then, at that time, listen to the conversation of the bhikkhus."
Vua liền ra lệnh cho các mật thám: “Vậy thì, vào thời điểm đó, hãy lắng nghe cuộc đàm đạo của các vị Tỳ khưu.”
Te tato paṭṭhāya tathā akaṃsu.
From then on, they did so.
Từ đó trở đi, họ đã làm như vậy.
2464
Tasmiṃ pana kāle dve mahallakattherā vihārapaccante paṇṇasālāyaṃ vasanti dattatthero ca dhanuggahatissatthero ca.
At that time, two elderly bhikkhus, Dattatthera and Dhanuggaha Tissatthera, were dwelling in a leaf-hut on the outskirts of the monastery.
Vào thời điểm đó, có hai vị Trưởng lão cao tuổi sống trong một tịnh xá lá ở ngoại vi tu viện: Trưởng lão Datta và Trưởng lão Dhanuggahatissa.
Tesu dhanuggahatissatthero paṭhamayāmepi majjhimayāmepi niddāyitvā pacchimayāme pabujjhitvā ummukkāni sodhetvā aggiṃ jāletvā nisinnako āha – ‘‘bhante, dattattherā’’ti.
Among them, Dhanuggaha Tissatthera, having slept during the first and middle watches, awoke in the last watch, cleaned the ashes, lit a fire, and sitting down, said, "Venerable Dattatthera."
Trong số đó, Trưởng lão Dhanuggaha Tissa, sau khi ngủ cả canh đầu và canh giữa, thức dậy vào canh cuối, làm sạch các vết bẩn, nhóm lửa và đang ngồi thì nói: “Bạch Đại đức Dattatthera!”
‘‘Kiṃ, bhante, tissattherā’’ti?
"What is it, Venerable Tissatthera?"
“Có việc gì vậy, bạch Đại đức Tissa?”
‘‘Kiṃ niddāyasi no tva’’nti.
"Are you not sleeping?"
“Ngài không ngủ sao?”
‘‘Aniddāyantā kiṃ karissāmā’’ti?
"What else would we do if not sleeping?"
“Không ngủ thì làm gì được?”
‘‘Uṭṭhāya tāva nisīdathā’’ti.
"Please get up and sit down."
“Vậy thì hãy đứng dậy mà ngồi xuống đi.”
So uṭṭhāya nisinno taṃ dattattheraṃ āha – ‘‘bhante dattatthera, ayaṃ te lolo mahodarakosalo cāṭimattaṃ bhattameva pūtiṃ karoti, yuddhavicāraṇaṃ pana kiñci na jānāti, parājito parājitotveva vadāpetī’’ti.
He got up and sat down, then said to Dattatthera, "Venerable Dattatthera, this greedy, pot-bellied Kosala only spoils a potful of rice; he knows nothing about military strategy, and only keeps saying 'defeated, defeated'."
Vị ấy đứng dậy ngồi xuống rồi nói với Trưởng lão Datta ấy: “Bạch Đại đức Datta, vị tham ăn, bụng lớn, khéo léo này chỉ làm cho một nồi cơm bị hư thối, chẳng biết gì về việc mưu tính chiến trận, chỉ biết nói rằng ‘thua rồi, thua rồi’ mà thôi.”
‘‘Kiṃ pana kātuṃ vaṭṭatī’’ti?
"But what should be done?"
“Vậy thì nên làm gì?”
Tasmiṃ khaṇe te carapurisā tesaṃ kathaṃ suṇantā aṭṭhaṃsu.
At that moment, the spies stood listening to their conversation.
Ngay lúc đó, những người do thám ấy đang nghe câu chuyện của họ thì đứng lại.
2465
Dhanuggahatissatthero yuddhaṃ vicāresi – ‘‘bhante, yuddho nāma tividho – padumabyūho, cakkabyūho, sakaṭabyūhoti.
Dhanuggaha Tissatthera discussed military strategy: "Venerable sir, warfare is of three kinds: the lotus formation (padumabyūha), the wheel formation (cakkabyūha), and the cart formation (sakaṭabyūha)."
Trưởng lão Dhanuggaha Tissa mưu tính chiến trận: “Bạch Đại đức, chiến trận có ba loại: thế trận hoa sen (padumabyūha), thế trận bánh xe (cakkabyūha), thế trận xe (sakaṭabyūha).
Ajātasattuṃ gaṇhitukāmena asuke nāma pabbatakucchismiṃ dvīsu pabbatabhittīsu manusse ṭhapetvā purato dubbalabalaṃ dassetvā pabbatantaraṃ paviṭṭhabhāvaṃ jānitvā paviṭṭhamaggaṃ occhinditvā purato ca pacchato ca ubhosu pabbatabhittīsu vaggitvā unnaditvā khipe patitamacchaṃ viya antomuṭṭhiyaṃ vaṭṭapotakaṃ viya ca katvā sakkā assa taṃ gahetu’’nti.
“One desiring to capture Ajātasattu, having placed men in the hollow of a certain mountain, on two mountain walls, and showing a weak force in front, knowing that he has entered the mountain pass, cutting off the path he entered, and having gathered on both mountain walls, in front and behind, and having roared, can capture him, making him like a fish fallen into a net, or like a quail chick in a closed fist.”
Để bắt Ajātasattu, nên bố trí người ở hai vách núi tại một sườn núi nào đó, giả vờ để lộ quân yếu kém ở phía trước, khi biết hắn đã tiến vào khe núi, hãy cắt đứt đường tiến vào, rồi từ phía trước và phía sau, từ cả hai vách núi, hãy vây hãm và la hét, khiến hắn như con cá bị mắc lưới, như con lợn con bị nhốt trong nắm tay, như vậy có thể bắt được hắn.”
Carapurisā taṃ sāsanaṃ rañño ārocesuṃ.
The spies reported that message to the king.
Những người do thám ấy báo tin ấy cho nhà vua.
Taṃ sutvā rājā saṅgāmabheriṃ carāpetvā gantvā sakaṭabyūhaṃ katvā ajātasattuṃ jīvaggāhaṃ gāhāpetvā attano dhītaraṃ vajirakumāriṃ bhāgineyyassa datvā kāsigāmaṃ tassā nhānamūlaṃ katvā datvā uyyojesi.
Hearing that, the king had the war drum beaten, went, formed a wagon-array, captured Ajātasattu alive, gave his daughter, Princess Vajirī, to his nephew, gave the Kāsī village as her bath-money, and sent her off.
Nghe vậy, nhà vua cho đánh trống hiệu chiến, rồi đi đến, lập thế trận xe, bắt Ajātasattu sống, gả con gái mình là Vajirakumārī cho cháu trai, ban làng Kāsī làm lễ tắm gội cho nàng rồi tiễn đi.
Sā pavatti bhikkhusaṅghe pākaṭā jātā.
That event became known in the Saṅgha of bhikkhus.
Câu chuyện ấy trở nên nổi tiếng trong Tăng đoàn.
Athekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, kosalarājā kira dhanuggahatissattherassa vicāraṇāya ajātasattuṃ jinī’’ti.
Then one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: “Friends, it seems King Kosala defeated Ajātasattu by the strategy of the elder Dhanuggaha Tissa.”
Rồi một ngày nọ, các Tỳ-kheo khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: “Thưa các bạn, nghe nói vua Kosala đã chiến thắng Ajātasattu nhờ sự mưu tính của Trưởng lão Dhanuggaha Tissa.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi dhanuggahatisso yuddhavicāraṇāya chekoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, “Bhikkhus, what discussion are you sitting together with now?” And when told, “This one,” he said, “Bhikkhus, not only now, but in the past too, Dhanuggaha Tissa was skillful in battle strategy,” and he related a past event.
Đức Thế Tôn đến, hỏi: “Này các Tỳ-kheo, hiện giờ các ông đang ngồi bàn luận về câu chuyện gì vậy?” Khi được trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, về câu chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, không chỉ bây giờ, mà ngay cả trước kia, Dhanuggaha Tissa cũng đã khéo léo trong việc mưu tính chiến trận,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
2466
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto araññe rukkhadevatā hutvā nibbatti.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn as a tree deity in the forest.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh làm một vị thần cây trong rừng.
Tadā bārāṇasiṃ nissāya nivutthavaḍḍhakigāmakā eko vaḍḍhakī thambhatthāya araññaṃ gantvā āvāṭe patitaṃ sūkarapotakaṃ disvā taṃ gharaṃ netvā paṭijaggi.
At that time, a carpenter from a carpenters’ village near Bārāṇasī went to the forest for timber and, seeing a piglet fallen into a pit, took it home and cared for it.
Lúc ấy, một người thợ mộc từ làng thợ mộc gần Bārāṇasī, đi vào rừng để tìm cột, thấy một con heo con bị rơi xuống hố, liền mang về nhà nuôi dưỡng.
So vuḍḍhippatto mahāsarīro vaṅkadāṭho ācārasampanno ahosi, vaḍḍhakinā positattā pana ‘‘vaḍḍhakīsūkaro’’tveva paññāyi.
Having grown up, it became large-bodied, with curved tusks, and well-behaved; but because it was raised by the carpenter, it was known simply as “the Carpenter’s Boar.”
Nó lớn lên, thân hình to lớn, răng nanh cong, có phong thái tốt đẹp, nhưng vì được người thợ mộc nuôi dưỡng nên được gọi là “Heo Thợ Mộc” (Vaḍḍhakīsūkaro).
Vaḍḍhakissa rukkhatacchanakāle tuṇḍena rukkhaṃ parivatteti, mukhena ḍaṃsitvā vāsipharasunikhādanamuggare āharati, kālasuttakoṭiyaṃ gaṇhāti.
When the carpenter was cutting wood, it would turn the tree with its snout, bite and bring the adze, axe, chisel, and hammer, and hold the end of the chalk-line.
Khi người thợ mộc đẽo cây, nó dùng mõm lật cây, dùng miệng cắn và mang đến rìu, búa, đục, và nắm lấy đầu dây mực.
Atha so vaḍḍhakī ‘‘kocideva, naṃ khādeyyā’’ti bhayena netvā araññe vissajjesi.
Then the carpenter, fearing that someone might eat it, took it and released it in the forest.
Rồi người thợ mộc vì sợ có ai đó sẽ ăn thịt nó, nên mang nó vào rừng thả ra.
Sopi araññaṃ pavisitvā khemaṃ phāsukaṭṭhānaṃ olokento ekaṃ pabbatantare mahantaṃ girikandaraṃ addasa sampannakandamūlaphalaṃ phāsukaṃ vasanaṭṭhānaṃ anekasatasūkarasamākiṇṇaṃ.
It entered the forest and, looking for a safe and comfortable place, saw a large mountain cave in a mountain pass, abundant with roots, tubers, and fruits, a comfortable dwelling place, crowded with many hundreds of boars.
Nó cũng vào rừng, tìm kiếm một nơi an toàn và thoải mái, thì thấy một hang núi lớn giữa hai ngọn núi, đầy rẫy củ, rễ, quả, là một nơi ở thoải mái, có hàng trăm con heo tụ tập.
Te sūkarā taṃ disvā tassa santikaṃ āgamaṃsu.
Those boars saw it and came to it.
Những con heo ấy thấy nó thì đến gần nó.
Sopi te āha – ‘‘ahaṃ tumheva olokento vicarāmi, apica vo mayā diṭṭhā, idañca ṭhānaṃ ramaṇīyaṃ, ahampi idāni idheva vasissāmī’’ti.
It said to them, “I have been wandering, looking for you. Besides, I have seen you, and this place is delightful. I too will now live here.”
Nó cũng nói với chúng: “Ta đang đi tìm kiếm các ngươi, nhưng các ngươi đã được ta nhìn thấy rồi, và nơi này cũng thật đẹp, bây giờ ta cũng sẽ ở lại đây.”
‘‘Saccaṃ idaṃ ṭhānaṃ ramaṇīyaṃ, parissayo panettha atthī’’ti.
“It is true that this place is delightful, but there is danger here.”
“Nơi này thật sự đẹp, nhưng ở đây có nguy hiểm.”
‘‘Ahampi tumhe disvā etaṃ aññāsiṃ, evaṃ gocarasampanne ṭhāne vasantānaṃ vo sarīresu maṃsalohitaṃ natthi, kiṃ pana vo ettha bhaya’’nti?
“I also realized this when I saw you. Living in such a place abundant with food, you have no flesh and blood in your bodies. What, then, is the danger here for you?”
“Ta cũng đã nhận ra điều đó khi thấy các ngươi, sống ở một nơi đầy thức ăn như vậy mà thân thể các ngươi không có thịt và máu, vậy các ngươi sợ hãi điều gì?”
‘‘Eko byaggho pātova āgantvā diṭṭhadiṭṭhaṃyeva gahetvā gacchatī’’ti.
“A tiger comes every morning and takes whatever it sees.”
“Có một con hổ đến vào buổi sáng, bắt bất cứ con nào nó thấy rồi đi mất.”
‘‘Kiṃ pana so nibaddhaṃ gaṇhāti, udāhu antarantarā’’ti?
“Does it always take one, or only sometimes?”
“Nó có bắt thường xuyên không, hay chỉ thỉnh thoảng?”
‘‘Nibaddhaṃ gaṇhātī’’ti.
“It always takes one.”
“Nó bắt thường xuyên.”
‘‘Kati pana te byagghā’’ti?
“How many tigers are there?”
“Có bao nhiêu con hổ?”
‘‘Ekoyevā’’ti.
“Only one.”
“Chỉ có một con thôi.”
‘‘Ettakā tumhe ekassa yujjhituṃ na sakkothā’’ti?
“So many of you cannot fight one?”
“Nhiều con như các ngươi mà không thể chiến đấu với một con sao?”
‘‘Āma, na sakkomā’’ti.
“No, we cannot.”
“Vâng, chúng tôi không thể.”
‘‘Ahaṃ taṃ gaṇhissāmi, kevalaṃ tumhe mama vacanaṃ karotha, so byaggho kahaṃ vasatī’’ti?
“I will catch it, only you must obey my words. Where does that tiger live?”
“Ta sẽ bắt nó, chỉ cần các ngươi làm theo lời ta, con hổ đó sống ở đâu?”
‘‘Etasmiṃ pabbate’’ti.
“On this mountain.”
“Ở trên ngọn núi này.”
2467
So rattiññeva sūkare carāpetvā yuddhaṃ vicārento ‘‘yuddhaṃ nāma padumabyūhacakkabyūhasakaṭabyūhavasena tividhaṃ hotī’’ti vatvā padumabyūhavasena vicāresi.
That boar, having gathered the boars during the night and considering the battle, said, “Battle is of three kinds: lotus-array, wheel-array, and wagon-array,” and considered it as a lotus-array.
Ngay trong đêm đó, nó cho các con heo đi kiếm ăn, và khi mưu tính chiến trận, nó nói: “Chiến trận có ba loại: thế trận hoa sen, thế trận bánh xe, thế trận xe,” rồi nó mưu tính theo thế trận hoa sen.
So hi bhūmisīsaṃ jānāti.
For it knew the lay of the land.
Nó biết địa hình.
Tasmā ‘‘imasmiṃ ṭhāne yuddhaṃ vicāretuṃ vaṭṭatī’’ti sūkarapillake mātaro ca tesaṃ majjhaṭṭhāne ṭhapesi.
Therefore, thinking, “It is suitable to consider the battle in this place,” it placed the sow piglets and their mothers in the middle.
Vì vậy, nó nói: “Nên mưu tính chiến trận ở nơi này,” rồi nó đặt các con heo con và mẹ của chúng ở giữa.
So tā āvijjhitvā majjhimasūkariyo, tā āvijjhitvā potakasūkare, te āvijjhitvā jarasūkare, te āvijjhitvā dīghadāṭhasūkare, te āvijjhitvā yuddhasamatthe balavatarasūkare dasa vīsa tiṃsa jane tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne balagumbaṃ katvā ṭhapesi.
Having arranged them, it placed the middle-aged sows; having arranged them, the young boars; having arranged them, the old boars; having arranged them, the long-tusked boars; having arranged them, the strong boars capable of fighting, ten, twenty, thirty of them, forming a troop in each place.
Nó xoay chúng lại, đặt những con heo cái trung bình, xoay chúng lại, đặt những con heo con, xoay chúng lại, đặt những con heo già, xoay chúng lại, đặt những con heo có răng nanh dài, xoay chúng lại, đặt những con heo mạnh mẽ có thể chiến đấu, mười, hai mươi, ba mươi con ở mỗi vị trí, tạo thành các cụm quân.
Attano ṭhitaṭṭhānassa purato ekaṃ parimaṇḍalaṃ āvāṭaṃ khaṇāpesi, pacchato ekaṃ suppasaṇṭhānaṃ anupubbaninnaṃ pabbhārasadisaṃ.
In front of his standing place, he had a round pit dug, and behind it, one that was well-formed, gradually sloping, like a precipice.
Nó cho đào một cái hố tròn ở phía trước vị trí của mình, và ở phía sau là một con dốc thoải dần xuống như một con đường dốc.
Tassa saṭṭhisattatimatte yodhasūkare ādāya tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne ‘‘mā bhāyitthā’’ti kammaṃ vicārato aruṇaṃ uṭṭhahi.
Taking sixty or seventy warrior boars, and saying "Do not be afraid" in each of those places, while he was considering the work, the dawn arose.
Nó dẫn sáu mươi, bảy mươi con heo chiến binh đến từng vị trí, nói: “Đừng sợ hãi,” và khi đang mưu tính công việc thì bình minh ló dạng.
2468
Byaggho uṭṭhāya ‘‘kālo’’ti ñatvā gantvā tesaṃ sammukhā ṭhite pabbatatale ṭhatvā akkhīni ummīletvā sūkare olokesi.
The tiger got up, and knowing it was time, went and stood at the foot of the mountain in front of them, opened its eyes, and looked at the boars.
Con hổ thức dậy, biết là “đã đến lúc,” liền đi đến, đứng ở chân núi đối diện chúng, mở mắt nhìn các con heo.
Vaḍḍhakīsūkaro ‘‘paṭioloketha na’’nti sūkarānaṃ saññaṃ adāsi, te paṭiolokesuṃ.
The carpenter boar gave a sign to the boars, saying, "Look back at it!" and they looked back.
Heo Thợ Mộc ra hiệu cho các con heo: “Hãy nhìn lại nó,” và chúng nhìn lại.
Byaggho mukhaṃ ugghāṭetvā assosi, sūkarāpi tathā kariṃsu.
The tiger opened its mouth and roared; the boars also did likewise.
Con hổ há miệng rống, các con heo cũng làm như vậy.
Byaggho muttaṃ chaḍḍesi, sūkarāpi chaḍḍayiṃsu.
The tiger passed urine; the boars also passed urine.
Con hổ phóng uế, các con heo cũng phóng uế.
Iti yaṃ yaṃ so karoti, taṃ taṃ te paṭikariṃsu.
Thus, whatever it did, they reciprocated.
Cứ như vậy, con hổ làm gì, chúng cũng làm lại như thế.
So cintesi – ‘‘pubbe sūkarā mayā olokitakāle palāyantā palāyitumpi na sakkonti, ajja apalāyitvā mama paṭisattu hutvā mayā katameva paṭikaronti.
It thought: "Previously, when boars were seen by me, they would flee and not even be able to flee, but today, without fleeing, they have become my adversaries and are reciprocating whatever I do.
Nó nghĩ: “Trước đây, khi ta nhìn, các con heo sợ hãi đến nỗi không thể chạy thoát, nhưng hôm nay chúng không chạy trốn mà còn đối đầu với ta và làm lại những gì ta làm.
Etasmiṃ bhūmisīse ṭhito eko tesaṃ saṃvidhāyakopi atthi, ajja mayhaṃ gatassa jayo na paññāyatī’’ti.
There is also one who is their organizer, standing on this hilltop; today, victory is not apparent for me if I go."
Có một kẻ tổ chức đứng trên địa hình này, hôm nay ta đi thì không thấy có dấu hiệu chiến thắng.”
So nivattitvā attano vasanaṭṭhānameva agamāsi.
So, it turned back and went to its own dwelling place.
Nó quay lại và đi về nơi ở của mình.
Tena pana gahitamaṃsakhādako eko kūṭajaṭilo atthi, so taṃ tucchahatthameva āgacchantaṃ disvā tena saddhiṃ sallapanto paṭhamaṃ gāthamāha –
There was a deceitful ascetic who ate the meat caught by it, and seeing it returning empty-handed, he spoke with it and first uttered the stanza:
Có một đạo sĩ giả mạo chuyên ăn thịt do nó bắt được, thấy nó trở về tay không, liền nói chuyện với nó và đọc bài kệ đầu tiên:
2469
97.
97.
97.
2470
‘‘Varaṃ varaṃ tvaṃ nihanaṃ pure cari,
“Before, you used to roam, killing the best of the boars,
“Trước kia, ngươi thường săn bắt những con heo tốt nhất,
2471
Asmiṃ padese abhibhuyya sūkare;
overpowering them in this region.
Ở vùng đất này, áp đảo các con heo;
2472
Sodāni eko byapagamma jhāyasi,
But now, you depart alone and meditate.
Giờ đây, ngươi lại một mình rút lui và suy tư,
2473
Balaṃ nu te byaggha na cajja vijjatī’’ti.
O tiger, is your strength not present today?”
Này hổ, phải chăng hôm nay ngươi không còn sức mạnh?”
2474
Tattha varaṃ varaṃ tvaṃ nihanaṃ pure cari, asmiṃ padese abhibhuyya sūkareti ambho byaggha, tvaṃ pubbe imasmiṃ padese sabbasūkare abhibhavitvā imesu sūkaresu varaṃ varaṃ tvaṃ uttamuttamaṃ sūkaraṃ nihananto vicari.
Here, varaṃ varaṃ tvaṃ nihanaṃ pure cari, asmiṃ padese abhibhuyya sūkare means: O tiger, formerly, in this region, having overpowered all the boars, you roamed, killing the best, the most excellent, of these boars.
Trong đó, varaṃ varaṃ tvaṃ nihanaṃ pure cari, asmiṃ padese abhibhuyya sūkare có nghĩa là: Này hổ, trước kia, ngươi đã đi săn bắt những con heo tốt nhất, áp đảo tất cả các con heo ở vùng đất này.
Sodāni eko byapagamma jhāyasīti so tvaṃ idāni aññataraṃ sūkaraṃ aggahetvā ekakova apagantvā jhāyasi pajjhāyasi.
Sodāni eko byapagamma jhāyasīti means: That you, now, without catching any boar, have departed alone and are meditating, are pondering deeply.
Sodāni eko byapagamma jhāyasī có nghĩa là: Vậy mà bây giờ, ngươi không bắt được con heo nào, một mình rút lui và suy tư, trầm ngâm.
Balaṃ nu te byaggha na cajja vijjatīti kiṃ nu te, ambho byaggha, ajja kāyabalaṃ natthīti.
Balaṃ nu te byaggha na cajja vijjatīti means: O tiger, is your bodily strength not present today?
Balaṃ nu te byaggha na cajja vijjatī có nghĩa là: Này hổ, phải chăng hôm nay ngươi không còn sức mạnh thể chất?
2475
Taṃ sutvā byaggho dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the tiger uttered the second stanza:
Nghe vậy, con hổ đọc bài kệ thứ hai:
2476
98.
98.
98.
2477
‘‘Ime sudaṃ yanti disodisaṃ pure, bhayaṭṭitā leṇagavesino puthū;
“Indeed, these formerly went in every direction, many of them terrified, seeking shelter.
“Trước kia, chúng chạy tán loạn khắp nơi, đầy sợ hãi, tìm kiếm hang trú ẩn;
2478
Te dāni saṅgamma vasanti ekato, yatthaṭṭhitā duppasahajjame mayā’’ti.
But now they have gathered and dwell together, standing in a place where they are difficult for me to overcome today.”
Giờ đây, chúng đã tụ tập lại một chỗ, đứng ở đó, hôm nay ta khó lòng chế ngự được.”
2479
Tattha sudanti nipāto.
Here, sudaṃ is a particle.
Trong đó, suda là một giới từ.
Ayaṃ pana saṅkhepattho – ime sūkarā pubbe maṃ disvā bhayena aṭṭitā pīḷitā attano leṇagavesino puthū visuṃ visuṃ hutvā disodisaṃ yanti, taṃ taṃ disaṃ abhimukhā palāyanti, te dāni sabbepi samāgantvā ekato vasanti tiṭṭhanti, tañca bhūmisīsaṃ upagatā, yattha ṭhitā duppasahā dummaddayā ajja ime mayāti.
This is the brief meaning: These boars, formerly seeing me, were afflicted with fear, seeking their shelters, and puthū (many of them) went disodisaṃ (in various directions), fleeing towards those directions; but now all of them have gathered and dwell together, and they have reached that hilltop where they stand, difficult to overcome, difficult to crush by me today.
Ý nghĩa tóm tắt là: Trước kia, những con heo này khi thấy ta thì sợ hãi, bị đè nén, tìm kiếm hang trú ẩn của chúng, puthū (từng con một) yanti disodisaṃ (chạy trốn về các hướng), chúng chạy trốn về hướng đó. Giờ đây, tất cả chúng đã tụ tập lại một chỗ, đứng vững, và đã chiếm lĩnh địa hình đó, đứng ở đó, hôm nay ta khó lòng chế ngự được chúng.
2480
Athassa ussāhaṃ janento kūṭajaṭilo ‘‘mā bhāyi, gaccha tayi naditvā pakkhandante sabbepi bhītā bhijjitvā palāyissantī’’ti āha.
Then, encouraging it, the deceitful ascetic said, "Do not be afraid, go! When you roar and charge, all of them will be terrified, break ranks, and flee."
Rồi đạo sĩ giả mạo khuyến khích nó: “Đừng sợ, hãy đi đi, khi ngươi rống lên và lao vào, tất cả chúng sẽ sợ hãi và tan tác bỏ chạy.”
Byaggho tasmiṃ ussāhaṃ janente sūro hutvā puna gantvā pabbatatale aṭṭhāsi.
Being encouraged by him, the tiger became brave and went again, standing at the foot of the mountain.
Con hổ được khuyến khích thì trở nên dũng cảm, lại đi đến và đứng ở chân núi.
Vaḍḍhakīsūkaro dvinnaṃ āvāṭānaṃ antare aṭṭhāsi.
The carpenter boar stood between the two pits.
Heo Thợ Mộc đứng giữa hai cái hố.
Sūkarā ‘‘sāmi, mahācoro punāgato’’ti āhaṃsu.
The boars said, "Master, the great thief has returned!"
Các con heo nói: “Thưa chủ, tên trộm lớn đã trở lại.”
‘‘Mā bhāyittha, idāni taṃ gaṇhissāmī’’ti.
"Do not be afraid, now we will catch him!"
“Đừng sợ, bây giờ ta sẽ bắt nó.”
Byaggho naditvā vaḍḍhakīsūkarassa upari patati, sūkaro tassa attano upari patanakāle parivattitvā vegena ujukaṃ khataāvāṭe pati.
The tiger roared and pounced on the carpenter boar; as the boar was being pounced upon, it quickly turned over and fell straight into the dug pit.
Con hổ gầm lên và nhảy bổ xuống con heo thợ mộc, con heo xoay mình khi nó nhảy xuống và nhanh chóng rơi thẳng vào hố đã đào.
Byaggho vegaṃ sandhāretuṃ asakkonto uparibhāgena gantvā suppamukhassa tiriyaṃ khataāvāṭassa atisambādhe mukhaṭṭhāne patitvā puñjakato viya ahosi.
Unable to control its momentum, the tiger went over the top and fell into the very narrow opening of the dug pit, which was like a well-formed channel, becoming like a heap.
Con hổ không thể hãm tốc độ, bay qua phía trên và rơi vào chỗ chật hẹp ở miệng hố đã đào ngang, như thể nó bị dồn thành một đống.
Sūkaro āvāṭā uttaritvā asanivegena gantvā byagghaṃ antarasatthimhi dāṭhāya paharitvā yāva vakkapadesā phāletvā pañcamadhuramaṃsaṃ dāṭhāya paliveṭhetvā byagghassa matthake āvijjhitvā ‘‘gaṇhatha tumhākaṃ paccāmitta’’nti ukkhipitvā bahiāvāṭe chaḍḍesi.
The boar got out of the pit, went with the speed of a thunderbolt, struck the tiger in its inner thigh with its tusk, ripped it open up to the kidney region, wrapped the five sweet meats around its tusk, swung it over the tiger's head, and throwing it out of the pit, said, "Take your enemy!"
Con heo trèo ra khỏi hố, lao đi với tốc độ như sấm sét, dùng răng nanh đánh vào giữa hai đùi con hổ, xé toạc nó đến tận vùng thận, dùng răng nanh quấn lấy miếng thịt ngũ vị ngọt, rồi quật con hổ lên đầu và ném nó ra ngoài hố, nói: “Hãy bắt lấy kẻ thù của các ngươi!”
Paṭhamaṃ āgatā byagghamaṃsaṃ labhiṃsu, pacchā āgatā ‘‘byagghamaṃsaṃ kīdisaṃ hotī’’ti tesaṃ mukhaṃ upasiṅghantā vicariṃsu.
The firstcomers obtained tiger meat; the later comers, wondering, "What is tiger meat like?", wandered about sniffing their mouths.
Những con đến trước được ăn thịt hổ, những con đến sau thì đi ngửi miệng chúng, hỏi: “Thịt hổ như thế nào?”
2481
Sūkarā na tāva tussanti.
The boars were not yet satisfied.
Các con heo vẫn chưa hài lòng.
Vaḍḍhakīsūkaro tesaṃ iṅghitaṃ disvā ‘‘kiṃ nu kho tumhe na tussathā’’ti āha.
The carpenter-boar, seeing their agitation, said, "Why are you not satisfied?"
Con heo thợ mộc thấy ý muốn của chúng, bèn nói: “Chẳng lẽ các ngươi vẫn chưa hài lòng sao?”
‘‘Sāmi, kiṃ etena byagghena ghātitena, añño pana byagghaāṇāpanasamattho kūṭajaṭilo atthiyevā’’ti.
"Master, what is there in killing this tiger? There is indeed another deceitful ascetic (kūṭajaṭila) capable of bringing a tiger to its end."
“Thưa chủ, giết con hổ này thì có ích gì? Vẫn còn một đạo sĩ khổ hạnh gian xảo có thể ra lệnh cho hổ.”
‘‘Ko nāmeso’’ti?
"Who is he by name?"
“Tên hắn là gì?”
‘‘Eko dussīlatāpaso’’ti.
"A certain immoral ascetic."
“Một đạo sĩ khổ hạnh vô đạo đức.”
‘‘Byagghopi mayā ghātito, so me kiṃ pahoti, etha gaṇhissāma na’’nti sūkaraghaṭāya saddhiṃ pāyāsi.
"Even a tiger was killed by me, so what can he do to me? Come, we will catch him," and he set off with the herd of boars.
Con heo nói: “Hổ còn bị ta giết, hắn thì làm gì được ta? Hãy đến, chúng ta sẽ bắt hắn!” rồi cùng đàn heo khởi hành.
Kūṭatāpasopi byagghe cirāyante ‘‘kiṃ nu kho sūkarā byagghaṃ gaṇhiṃsū’’ti paṭipathaṃ gacchanto te sūkare āgacchante disvā attano parikkhāraṃ ādāya palāyanto tehi anubandhito parikkhāraṃ chaḍḍetvā vegena udumbararukkhaṃ abhiruhi.
The deceitful ascetic (kūṭatāpaso), as the tigers delayed, thinking, "Did the boars catch the tiger?", went to meet them, and seeing those boars approaching, he took his belongings and fled. Being pursued by them, he threw away his belongings and swiftly climbed an udumbara tree.
Vị đạo sĩ khổ hạnh gian xảo, thấy hổ mãi không về, nghĩ: “Chẳng lẽ heo đã bắt được hổ rồi sao?” và đi ngược đường. Khi thấy đàn heo đang đến, ông ta cầm đồ dùng của mình bỏ chạy, bị chúng đuổi theo, ông ta vứt bỏ đồ dùng và nhanh chóng trèo lên cây udumbara.
Sūkarā ‘‘idānimha, sāmi, naṭṭhā, tāpaso palāyitvā rukkhaṃ abhiruhī’’ti āhaṃsu.
The boars said, "Now, master, we are lost! The ascetic has fled and climbed a tree!"
Các con heo nói: “Thưa chủ, chúng ta tiêu rồi! Đạo sĩ đã trốn và trèo lên cây.”
‘‘Kiṃ rukkhaṃ nāmā’’ti?
"What kind of tree?"
“Cây gì vậy?”
‘‘Udumbararukkha’’nti.
"An udumbara tree."
“Cây udumbara.”
So ‘‘sūkariyo udakaṃ āharantu, sūkarapotakā pathaviṃ khaṇantu, dīghadāṭhā sūkarā mūlāni chindantu, sesā parivāretvā ārakkhantū’’ti saṃvidahitvā tesu tathā karontesu sayaṃ udumbarassa ujukaṃ thūlamūlaṃ pharasunā paharanto viya ekappahārameva katvā udumbararukkhaṃ pātesi.
He then arranged, "Let the sows bring water, let the piglets dig the earth, let the long-tusked boars cut the roots, and let the rest surround and guard!" As they did so, he himself struck the straight, thick root of the udumbara tree as if with an axe, with a single blow, and felled the udumbara tree.
Con heo ra lệnh: “Heo cái hãy mang nước đến, heo con hãy đào đất, heo nanh dài hãy chặt rễ, những con còn lại hãy bao vây canh gác!” Khi chúng làm theo, chính nó, như thể dùng rìu bổ vào gốc cây udumbara thẳng và to, chỉ một nhát đã đốn ngã cây udumbara.
Parivāretvā ṭhitasūkarā kūṭajaṭilaṃ bhūmiyaṃ pātetvā khaṇḍākhaṇḍikaṃ katvā yāva aṭṭhito khāditvā vaḍḍhakīsūkaraṃ udumbarakhandheyeva nisīdāpetvā kūṭajaṭilassa paribhogasaṅkhena udakaṃ āharitvā abhisiñcitvā rājānaṃ kariṃsu, ekañca taruṇasūkariṃ tassa aggamahesiṃ akaṃsu.
The boars who had surrounded him brought the deceitful ascetic down to the ground, tore him to pieces, and ate him down to the bones. They then seated the carpenter-boar on the trunk of the udumbara tree, brought water with the ascetic's conch shell for his use, sprinkled him, and made him king. They also made a young sow his chief queen.
Các con heo đang bao vây đã quật ngã vị đạo sĩ khổ hạnh gian xảo xuống đất, xé thành từng mảnh, ăn hết đến xương, rồi đặt con heo thợ mộc ngồi trên thân cây udumbara, mang nước bằng vỏ ốc dùng của vị đạo sĩ khổ hạnh gian xảo, làm lễ quán đảnh và phong nó làm vua, và phong một con heo cái non làm hoàng hậu.
Tato paṭṭhāya kira yāvajjatanā rājāno udumbarabhaddapīṭhe nisīdāpetvā tīhi saṅkhehi abhisiñcanti.
From that time onwards, it is said, kings are seated on an udumbara throne and sprinkled with three conch shells.
Từ đó về sau, các vị vua cho ngồi trên ngai vàng udumbara và làm lễ quán đảnh bằng ba vỏ ốc.
2482
Tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā taṃ acchariyaṃ disvā ekasmiṃ viṭapantare sūkarānaṃ abhimukhā hutvā tatiyaṃ gāthamāha –
The deity dwelling in that forest grove, seeing that wonder, stood facing the boars between two branches and uttered the third verse:
Vị thiên nữ ngự trong khu rừng đó, thấy điều kỳ diệu này, đứng giữa một cành cây, đối mặt với đàn heo và nói lên bài kệ thứ ba:
2483
99.
99.
99.
2484
‘‘Namatthu saṅghāna samāgatānaṃ, disvā sayaṃ sakhya vadāmi abbhutaṃ;
"Homage to the assembled Sangha! Having seen it myself, I declare this wonder, this friendship:
“Kính lễ hội chúng đã tề tựu, tự mình chứng kiến, tôi nói điều kỳ diệu này:
2485
Byagghaṃ migā yattha jiniṃsu dāṭhino, sāmaggiyā dāṭhabalesu muccare’’ti.
where the tusked beasts overcame the tiger, by unity they are freed from those with tusks."
Nơi mà những con thú có nanh đã chiến thắng con hổ, nhờ sự đoàn kết, chúng được giải thoát khỏi sức mạnh của nanh vuốt.”
2486
Tattha namatthu saṅghānanti ayaṃ mama namakkāro samāgatānaṃ sūkarasaṅghānaṃ atthu.
Here, namatthu saṅghāna means "may this homage of mine be to the assembled Sangha of boars."
Ở đây, namatthu saṅghāna (Kính lễ hội chúng) có nghĩa là sự cung kính này của tôi xin dâng lên hội chúng heo đã tề tựu.
Disvā sayaṃ sakhya vadāmi abbhutanti idaṃ pubbe abhūtapubbaṃ abbhutaṃ sakhyaṃ mittabhāvaṃ sayaṃ disvā vadāmi.
Disvā sayaṃ sakhya vadāmi abbhutaṃ means "having seen this unprecedented wonder, this friendship, myself, I declare it."
Disvā sayaṃ sakhya vadāmi abbhutaṃ (tự mình chứng kiến, tôi nói điều kỳ diệu này) có nghĩa là tôi tự mình chứng kiến tình bạn kỳ diệu, chưa từng có trước đây này, rồi nói ra.
Byagghaṃ migā yattha jiniṃsu dāṭhinoti yatra hi nāma dāṭhino sūkaramigā byagghaṃ jiniṃsu, ayameva vā pāṭho.
Byagghaṃ migā yattha jiniṃsu dāṭhino means "where indeed the tusked boar-beasts overcame the tiger" – this is one reading.
Byagghaṃ migā yattha jiniṃsu dāṭhino (Nơi mà những con thú có nanh đã chiến thắng con hổ) có nghĩa là nơi mà những con thú có nanh, tức là heo, đã chiến thắng con hổ, hoặc đây là một cách đọc khác.
Sāmaggiyā dāṭhabalesu muccareti yā sā dāṭhabalesu sūkaresu sāmaggī ekajjhāsayatā, tāya tesu sāmaggiyā te dāṭhabalā paccāmittaṃ gahetvā ajja maraṇabhayā muttāti attho.
Sāmaggiyā dāṭhabalesu muccare means "that unity, that single-mindedness among the tusked boars, by that unity, those tusked boars, having captured their enemy, are now freed from the fear of death" – this is the meaning.
Sāmaggiyā dāṭhabalesu muccare (nhờ sự đoàn kết, chúng được giải thoát khỏi sức mạnh của nanh vuốt) có nghĩa là nhờ sự đoàn kết, sự đồng lòng giữa những con heo có nanh vuốt, mà những con có nanh vuốt đó đã bắt được kẻ thù và hôm nay được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi cái chết.
2487
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā dhanuggahatisso vaḍḍhakīsūkaro ahosi, rukkhadevatā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, Dhanuggaha Tissa was the carpenter-boar, and the tree deity was I myself."
Đức Bổn Sư đã kể bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, Tissa cung thủ chính là con heo thợ mộc, còn thiên nữ cây rừng chính là ta vậy.”
2488
Vaḍḍhakīsūkarajātakavaṇṇanā tatiyā.
The Story of the Vaḍḍhakīsūkara Jātaka, the Third.
Câu chuyện về con heo thợ mộc Jātaka, thứ ba.
2489
* 4. Sirijātakavaṇṇanā
* 4. The Story of the Sirijātaka
* 4. Câu chuyện về Siri Jātaka
2490
Yaṃ ussukā saṅgharantīti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ siricorabrāhmaṇaṃ ārabbha kathesi.
Yaṃ ussukā saṅgharantī – this was told by the Teacher while dwelling at Jetavana, concerning a certain brahmin who stole good fortune (siri).
Yaṃ ussukā saṅgharantī (điều mà họ lo lắng tích lũy) – câu chuyện này Đức Bổn Sư đã kể khi ngụ tại Jetavana, liên quan đến một Bà-la-môn trộm Siri.
Imasmiṃ jātake paccuppannavatthu heṭṭhā khadiraṅgārajātake (jā. 1.1.40) vitthāritameva.
In this Jātaka, the present-day story has already been elaborated below in the Khadiraṅgāra Jātaka.
Trong Jātaka này, câu chuyện hiện tại đã được kể chi tiết ở phần dưới trong Khadiraṅgāra Jātaka.
Idhāpi pana sā anāthapiṇḍikassa ghare catutthe dvārakoṭṭhake vasanakā micchādiṭṭhidevatā daṇḍakammaṃ karontī catupaññāsahiraññakoṭiyo āharitvā koṭṭhe pūretvā seṭṭhinā saddhiṃ sahāyikā ahosi.
Here too, that deity of wrong view, dwelling in the fourth gatehouse of Anāthapiṇḍika's house, performed a punishment, brought fifty-four crores of gold, filled the storehouse, and became a friend to the householder.
Ở đây, vị thiên nữ tà kiến, từng ngụ ở cổng thứ tư trong nhà của Anāthapiṇḍika, sau khi bị trừng phạt, đã mang về năm mươi bốn triệu đồng vàng, lấp đầy kho bạc và trở thành bạn của trưởng giả.
Atha naṃ so ādāya satthu santikaṃ nesi.
Then he took her and brought her to the Teacher.
Sau đó, trưởng giả đưa cô đến gặp Đức Bổn Sư.
Satthā tassā dhammaṃ desesi, sā dhammaṃ sutvā sotāpannā ahosi.
The Teacher taught her the Dhamma, and having heard the Dhamma, she became a Sotāpanna.
Đức Bổn Sư thuyết pháp cho cô, và cô sau khi nghe pháp đã chứng quả Dự Lưu.
Tato paṭṭhāya seṭṭhino yaso yathāporāṇova jāto.
From that time onwards, the householder's fame became as it was before.
Từ đó trở đi, danh tiếng của trưởng giả trở lại như xưa.
Atheko sāvatthivāsī sirilakkhaṇaññū brāhmaṇo cintesi – ‘‘anāthapiṇḍiko duggato hutvā puna issaro jāto, yaṃnūnāhaṃ taṃ daṭṭhukāmo viya gatvā tassa gharato siriṃ thenetvā āgaccheyya’’nti.
Then a certain brahmin residing in Sāvatthī, who knew the signs of good fortune, thought: "Anāthapiṇḍika, having become poor, has become wealthy again. What if I were to go as if desiring to see him, and steal the good fortune from his house and return?"
Bấy giờ, một Bà-la-môn ở Sāvatthī, am hiểu tướng tốt, nghĩ: “Anāthapiṇḍika đã nghèo khó rồi lại trở nên giàu có. Hay là ta giả vờ muốn gặp ông ta, rồi trộm Siri từ nhà ông ta mang về?”
So tassa gharaṃ gantvā tena katasakkārasammāno sāraṇīyakathāya vattamānāya ‘‘kimatthaṃ āgatosī’’ti vutte ‘‘kattha nu kho sirī patiṭṭhitā’’ti olokesi.
Having gone to his house and been honored and respected by him, while a pleasant conversation was ongoing, when asked, "Why have you come?", he looked to see "where indeed the good fortune was established."
Ông ta đến nhà trưởng giả, được trưởng giả tiếp đãi trọng thị. Trong lúc nói chuyện xã giao, khi được hỏi “Ông đến vì việc gì?”, ông ta liền tìm xem “Siri ngự ở đâu?”
Seṭṭhino ca sabbaseto dhotasaṅkhapaṭibhāgo kukkuṭo suvaṇṇapañjare pakkhipitvā ṭhapito atthi, tassa cūḷāya sirī patiṭṭhāsi.
Now, the financier had a pure white rooster, resembling a clean conch shell, kept in a golden cage, and the good fortune was established on its crest.
Trưởng giả có một con gà trống trắng tinh như vỏ ốc được rửa sạch, được nhốt trong lồng vàng, và Siri ngự trên mào của nó.
Brāhmaṇo olokayamāno siriyā tattha patiṭṭhitabhāvaṃ ñatvā āha – ‘‘ahaṃ, mahāseṭṭhi, pañcasate māṇave mante vācemi, akālaraviṃ ekaṃ kukkuṭaṃ nissāya te ca mayañca kilamāma, ayañca kira kukkuṭo kālaravī, imassatthāya āgatomhi, dehi me etaṃ kukkuṭa’’nti.
The brahmin, observing and knowing that the good fortune was established there, said: "Great financier, I teach five hundred young men mantras. We and they are troubled by a rooster that crows at the wrong time. This rooster, they say, crows at the right time. I have come for this purpose. Give me this rooster."
Bà-la-môn quan sát, biết Siri ngự ở đó, bèn nói: “Thưa đại trưởng giả, tôi dạy năm trăm học trò tụng chú. Chúng tôi và tôi đều mệt mỏi vì một con gà trống gáy không đúng giờ. Nghe nói con gà trống này gáy đúng giờ. Tôi đến vì việc này, xin ông hãy cho tôi con gà trống này.”
‘‘Gaṇha, brāhmaṇa, demi te kukkuṭa’’nti.
"Take it, brahmin, I give you the rooster."
“Bà-la-môn, hãy lấy đi, tôi cho ông con gà trống.”
‘‘Demī’’ti ca vuttakkhaṇeyeva sirī tassa cūḷato apagantvā ussīsake ṭhapite maṇikkhandhe patiṭṭhāsi.
And at the very moment he said, "I give it," the good fortune departed from its crest and became established on a jeweled sword placed at the head of the bed.
Ngay khi lời “tôi cho” vừa thốt ra, Siri liền rời khỏi mào gà và ngự trên viên ngọc quý đặt ở đầu giường.
2491
Brāhmaṇo siriyā maṇimhi patiṭṭhitabhāvaṃ ñatvā maṇimpi yāci.
The brahmin, knowing that the good fortune was established on the jewel, asked for the jewel as well.
Bà-la-môn biết Siri đã ngự trên viên ngọc, bèn xin luôn viên ngọc.
‘‘Maṇimpi demī’’ti vuttakkhaṇeyeva sirī maṇito apagantvā ussīsake ṭhapitaārakkhayaṭṭhiyaṃ patiṭṭhāsi.
At the very moment he said, "I give the jewel as well," the good fortune departed from the jewel and became established on a protective staff placed at the head of the bed.
Ngay khi lời “tôi cho luôn viên ngọc” vừa thốt ra, Siri liền rời khỏi viên ngọc và ngự trên cây gậy bảo vệ đặt ở đầu giường.
Brāhmaṇo siriyā tattha patiṭṭhitabhāvaṃ ñatvā tampi yāci.
The brahmin, knowing that the good fortune was established there, asked for that as well.
Bà-la-môn biết Siri đã ngự ở đó, bèn xin luôn cây gậy.
‘‘Gahetvā gacchāhī’’ti vuttakkhaṇeyeva sirī yaṭṭhito apagantvā puññalakkhaṇadeviyā nāma seṭṭhino aggamahesiyā sīse patiṭṭhāsi.
At the very moment he said, "Take it and go," the good fortune departed from the staff and became established on the head of Puññalakkhaṇadevī, the chief consort of the financier.
Ngay khi lời “hãy cầm lấy mà đi” vừa thốt ra, Siri liền rời khỏi cây gậy và ngự trên đầu của Puññalakkhaṇadevī, hoàng hậu của trưởng giả.
Siricorabrāhmaṇo tattha patiṭṭhitabhāvaṃ ñatvā ‘‘avissajjiyabhaṇḍaṃ etaṃ, yācitumpi na sakkā’’ti cintetvā seṭṭhiṃ etadavoca – ‘‘mahāseṭṭhi, ahaṃ tumhākaṃ gehe ‘siriṃ thenetvā gamissāmī’ti āgacchiṃ, sirī pana te kukkuṭassa cūḷāyaṃ patiṭṭhitā ahosi, tasmiṃ mama dinne tato apagantvā maṇimhi patiṭṭhahi, maṇimhi dinne ārakkhayaṭṭhiyaṃ patiṭṭhahi, ārakkhayaṭṭhiyā dinnāya tato apagantvā puññalakkhaṇadeviyā sīse patiṭṭhahi, ‘idaṃ kho pana avissajjiyabhaṇḍa’nti imampi me na gahitaṃ, na sakkā tava siriṃ thenetuṃ, tava santakaṃ taveva hotū’’ti uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
The brahmin, the thief of good fortune, knowing that it was established there, thought, "This is an unsaleable item; it cannot even be asked for," and said to the financier: "Great financier, I came to your house intending to 'steal your good fortune.' But your good fortune was established on the crest of the rooster. When that was given to me, it departed from there and became established on the jewel. When the jewel was given, it became established on the protective staff. When the protective staff was given, it departed from there and became established on the head of Puññalakkhaṇadevī. 'This, however, is an unsaleable item,' so I did not take this either. It is not possible to steal your good fortune. Let what is yours remain yours." Having risen from his seat, he departed.
Bà-la-môn trộm Siri biết Siri đã ngự ở đó, nghĩ: “Đây là vật không thể trao, cũng không thể xin được,” bèn nói với trưởng giả: “Thưa đại trưởng giả, tôi đến nhà ông với ý định ‘sẽ trộm Siri mà đi’. Siri của ông ngự trên mào gà trống. Khi ông cho tôi con gà đó, nó rời khỏi đó và ngự trên viên ngọc. Khi ông cho viên ngọc, nó ngự trên cây gậy bảo vệ. Khi ông cho cây gậy bảo vệ, nó rời khỏi đó và ngự trên đầu của Puññalakkhaṇadevī. ‘Đây là vật không thể trao’, nên tôi cũng không lấy được vật này. Không thể trộm Siri của ông được. Vật của ông hãy thuộc về ông!” rồi đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi.
Anāthapiṇḍiko ‘‘imaṃ kāraṇaṃ satthu kathessāmī’’ti vihāraṃ gantvā satthāraṃ pūjetvā vanditvā ekamantaṃ nisinno sabbaṃ tathāgatassa ārocesi.
Anāthapiṇḍika, thinking, "I will relate this matter to the Teacher," went to the monastery, honored and paid homage to the Teacher, and sitting to one side, reported everything to the Tathāgata.
Anāthapiṇḍika nghĩ: “Ta sẽ kể chuyện này cho Đức Bổn Sư,” bèn đến tịnh xá, cúng dường và đảnh lễ Đức Bổn Sư, rồi ngồi sang một bên và kể lại tất cả mọi việc cho Đức Như Lai.
Satthā taṃ sutvā ‘‘na kho, gahapati, idāneva aññesaṃ sirī aññattha gacchati, pubbepi appapuññehi uppāditasirī pana puññavantānaṃyeva pādamūlaṃ gatā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, having heard it, said: "It is not only now, householder, that the good fortune of others goes elsewhere; even in the past, good fortune generated by those with little merit has gone to the feet of those with much merit." Having said this, when requested by him, the Teacher related a past event.
Đức Bổn Sư nghe xong, nói: “Này gia chủ, không phải chỉ bây giờ Siri của người khác mới đi nơi khác. Ngay cả trước đây, Siri do người ít phước tạo ra cũng đã đến chân những người có phước,” rồi theo lời thỉnh cầu của ông mà kể lại câu chuyện quá khứ.
2492
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sippaṃ uggaṇhitvā agāraṃ ajjhāvasanto mātāpitūnaṃ kālakiriyāya saṃviggo nikkhamitvā himavantapadese isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca uppādetvā dīghassa addhuno accayena loṇambilasevanatthāya janapadaṃ gantvā bārāṇasirañño uyyāne vasitvā punadivase bhikkhaṃ caramāno hatthācariyassa gharadvāraṃ agamāsi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in the Kāsī kingdom. Having come of age, he learned the arts in Takkasilā and lived the household life. Disturbed by the death of his parents, he renounced the world, took up the ascetic life in the Himālaya region, developed abhiññā and samāpattis, and after a long time, went to a populated area to partake of salt and sour food. He stayed in the king of Bārāṇasī’s pleasure grove, and on the following day, while going for alms, he arrived at the house door of the elephant trainer.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kāsī. Đến tuổi trưởng thành, Ngài học nghề ở Takkasilā, rồi sống đời gia chủ. Sau khi cha mẹ qua đời, Ngài cảm thấy chấn động, xuất gia làm ẩn sĩ ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, chứng đắc các thắng trí và thiền định. Sau một thời gian dài, Ngài đi đến một vùng quê để tìm muối và chất chua, trú ngụ trong vườn của vua Bārāṇasī. Hôm sau, khi đi khất thực, Ngài đến trước cửa nhà của một huấn luyện voi.
So tassa ācāravihāre pasanno bhikkhaṃ datvā uyyāne vasāpetvā niccaṃ paṭijaggi.
Pleased with his conduct and demeanor, the elephant trainer gave him alms, allowed him to stay in the pleasure grove, and constantly looked after him.
Người huấn luyện voi ấy, hoan hỷ với phong thái của Ngài, đã cúng dường thực phẩm, mời Ngài trú ngụ trong vườn và thường xuyên chăm sóc.
Tasmiṃ kāle eko kaṭṭhahārako araññato dārūni āharanto velāya nagaradvāraṃ pāpuṇituṃ nāsakkhi.
At that time, a certain woodcutter, bringing firewood from the forest, was unable to reach the city gate in time.
Vào thời điểm đó, một người đốn củi mang củi từ rừng về nhưng không kịp đến cổng thành vào đúng giờ.
Sāyaṃ ekasmiṃ devakule dārukalāpaṃ ussīsake katvā nipajji, devakule vissaṭṭhā bahū kukkuṭā tassa avidūre ekasmiṃ rukkhe sayiṃsu.
In the evening, he lay down in a certain shrine, making a bundle of firewood his pillow. Many roosters, released in the shrine, roosted on a tree not far from him.
Chiều tối, anh ta đặt bó củi làm gối và ngủ trong một ngôi đền. Nhiều con gà mái được thả rông trong đền ngủ trên một cái cây không xa anh ta.
Tesu uparisayitakukkuṭo paccūsakāle vaccaṃ pātento heṭṭhāsayitakukkuṭassa sarīre pātesi.
Among them, the rooster roosting above dropped its droppings in the early morning onto the body of the rooster roosting below.
Vào lúc bình minh, con gà mái ngủ ở trên ỉa xuống trúng mình con gà mái ngủ ở dưới.
‘‘Kena me sarīre vaccaṃ pātita’’nti ca vutte ‘‘mayā’’ti āha.
When asked, "By whom were droppings dropped on my body?", it replied, "By me."
Khi con gà ở dưới hỏi: “Ai đã ỉa lên người ta?”, con gà ở trên nói: “Ta.”
‘‘Kiṃkāraṇā’’ti ca vutte ‘‘anupadhāretvā’’ti vatvā punapi pātesi.
And when asked, "For what reason?", he said, "Without considering," and again knocked it down.
Khi được hỏi: “Vì lý do gì?”, nó nói: “Không cẩn thận,” rồi lại ỉa xuống nữa.
Tato ubhopi aññamaññaṃ kuddhā ‘‘kiṃ te balaṃ, kiṃ te bala’’nti kalahaṃ kariṃsu.
Then both, angry with each other, quarreled, saying, "What is your power? What is your power?"
Thế là cả hai con đều nổi giận với nhau và cãi vã: “Ngươi có sức mạnh gì, ngươi có sức mạnh gì?”
Atha heṭṭhāsayitakukkuṭo āha – ‘‘maṃ māretvā aṅgāre pakkamaṃsaṃ khādanto pātova kahāpaṇasahassaṃ labhatī’’ti.
Then the rooster sleeping below said, "Whoever kills me and eats my roasted flesh on coals will receive a thousand kahāpaṇas at dawn."
Rồi con gà mái ngủ ở dưới nói: “Kẻ nào giết ta và ăn thịt nướng trên than hồng sẽ có được một ngàn đồng bạc ngay vào buổi sáng.”
Uparisayitakukkuṭo āha – ‘‘ambho, mā tvaṃ ettakena gajji, mama thūlamaṃsaṃ khādanto rājā hoti, bahimaṃsaṃ khādanto puriso ce, senāpatiṭṭhānaṃ, itthī ce, aggamahesiṭṭhānaṃ labhati.
The rooster sleeping above said, "Friend, do not boast with so little. One who eats my thick flesh becomes a king. If a man eats my outer flesh, he obtains the position of a general; if a woman, she obtains the position of chief queen.
Con gà mái ngủ ở trên nói: “Này, ngươi đừng khoe khoang nhiều như vậy. Kẻ nào ăn thịt thô của ta sẽ trở thành vua; nếu là đàn ông ăn thịt ngoài của ta, sẽ được địa vị tổng tư lệnh; nếu là phụ nữ, sẽ được địa vị hoàng hậu.
Aṭṭhimaṃsaṃ pana me khādanto gihī ce, bhaṇḍāgārikaṭṭhānaṃ, pabbajito ce, rājakulūpakabhāvaṃ labhatī’’ti.
And one who eats my bone marrow, if a layman, obtains the position of a treasurer; if a renunciant, he obtains the status of an attendant to the royal family."
Còn kẻ nào ăn thịt xương của ta, nếu là gia chủ, sẽ được địa vị thủ quỹ; nếu là người xuất gia, sẽ được địa vị thân cận hoàng gia.”
2493
Kaṭṭhahārako tesaṃ vacanaṃ sutvā ‘‘rajje patte sahassena kiccaṃ natthī’’ti saṇikaṃ abhiruhitvā uparisayitakukkuṭaṃ gahetvā māretvā ucchaṅge katvā ‘‘rājā bhavissāmī’’ti gantvā vivaṭadvāreneva nagaraṃ pavisitvā kukkuṭaṃ nittacaṃ katvā udaraṃ sodhetvā ‘‘idaṃ kukkuṭamaṃsaṃ sādhukaṃ sampādehī’’ti pajāpatiyā adāsi.
The woodcutter, hearing their words, thought, "When I obtain a kingdom, there is no need for a thousand," and slowly climbed up, took the rooster sleeping above, killed it, placed it in his lap, and thinking, "I will be king," he went and entered the city through an open gate. He skinned the rooster, cleaned its belly, and gave it to his wife, saying, "Prepare this rooster meat well."
Người đốn củi nghe lời chúng nói, nghĩ: “Khi lên ngôi vua, một ngàn đồng bạc chẳng có ích gì,” bèn nhẹ nhàng trèo lên bắt con gà mái ngủ ở trên, giết rồi đặt vào vạt áo, nghĩ: “Mình sẽ làm vua,” rồi đi thẳng vào thành qua cổng mở, lột da gà, làm sạch bụng, và đưa cho vợ, nói: “Hãy chuẩn bị món thịt gà này thật ngon.”
Sā kukkuṭamaṃsañca bhattañca sampādetvā ‘‘bhuñja, sāmī’’ti tassa upanāmesi.
She prepared the rooster meat and rice and offered it to him, saying, "Eat, my lord."
Vợ anh ta chuẩn bị thịt gà và cơm, rồi dâng lên anh ta, nói: “Xin mời dùng, phu quân.”
‘‘Bhadde, etaṃ maṃsaṃ mahānubhāvaṃ, etaṃ khāditvā ahaṃ rājā bhavissāmi, tvaṃ aggamahesī bhavissasi, taṃ bhattañca maṃsañca ādāya gaṅgātīraṃ gantvā nhāyitvā bhuñjissāmā’’ti bhattabhājanaṃ tīre ṭhapetvā nhānatthāya otariṃsu.
"My dear, this meat is very powerful. By eating this, I will become king, and you will become chief queen. Let us take that rice and meat, go to the bank of the Gaṅgā, bathe, and then eat." So, placing the rice bowl on the bank, they descended to bathe.
Anh ta nói: “Này hiền thê, món thịt này có uy lực lớn. Ăn món này, ta sẽ trở thành vua, nàng sẽ là hoàng hậu. Hãy mang cơm và thịt đó ra bờ sông Gaṅgā, chúng ta sẽ tắm rồi ăn.” Họ đặt hộp cơm lên bờ rồi xuống tắm.
Tasmiṃ khaṇe vātena khubhitaṃ udakaṃ āgantvā bhattabhājanaṃ ādāya agamāsi.
At that moment, water agitated by the wind came and carried away the rice bowl.
Ngay lúc đó, nước sông bị gió làm động, cuốn trôi hộp cơm đi mất.
Taṃ nadīsotena vuyhamānaṃ heṭṭhānadiyaṃ hatthiṃ nhāpento eko hatthācariyo mahāmatto disvā ukkhipāpetvā vivarāpetvā ‘‘kimetthā’’ti pucchi.
An elephant trainer, a great minister, who was bathing an elephant downstream, saw it being carried away by the river current. He had it taken out, opened, and asked, "What is in this?"
Một vị đại thần huấn luyện voi đang tắm voi ở hạ lưu sông nhìn thấy hộp cơm trôi theo dòng nước, liền sai người vớt lên, mở ra và hỏi: “Trong đây có gì?”
‘‘Bhattañceva kukkuṭamaṃsañca sāmī’’ti.
"It is rice and rooster meat, my lord."
“Cơm và thịt gà, thưa ngài.”
So taṃ pidahāpetvā lañchāpetvā ‘‘yāva mayaṃ āgacchāma, tāvimaṃ bhattaṃ mā vivarā’’ti bhariyāya pesesi.
He had it covered and sealed, and sent it to his wife, saying, "Do not open this food until we arrive."
Vị ấy sai đậy lại, niêm phong, và gửi về cho vợ, dặn: “Đừng mở hộp cơm này cho đến khi chúng ta về.”
Sopi kho kaṭṭhahārako mukhato paviṭṭhena vālukodakena uddhumātaudaro palāyi.
The woodcutter, with his belly swollen from the sandy water that had entered his mouth, fled.
Còn người đốn củi kia thì bụng chướng lên vì uống nước cát vào miệng, bèn bỏ chạy.
2494
Atheko tassa hatthācariyassa kulūpako dibbacakkhukatāpaso ‘‘mayhaṃ upaṭṭhāko hatthiṭṭhānaṃ na vijahati, kadā nu kho sampattiṃ pāpuṇissatī’’ti dibbacakkhunā upadhārento taṃ purisaṃ disvā taṃ kāraṇaṃ ñatvā puretaraṃ gantvā hatthācariyassa nivesane nisīdi.
Then a certain divine-eyed ascetic, an attendant of that elephant trainer, observing with his divine eye, "My attendant does not leave the elephant's position; when will he attain prosperity?", saw that man, understood the reason, went ahead, and sat in the elephant trainer's house.
Lúc đó, một ẩn sĩ có thiên nhãn, là người thân cận của vị huấn luyện voi ấy, suy nghĩ bằng thiên nhãn: “Người hầu của ta không rời khỏi địa vị huấn luyện voi, khi nào thì anh ta sẽ đạt được tài sản?” Vị ấy nhìn thấy người đàn ông đó, biết chuyện, bèn đi trước đến nhà huấn luyện voi và ngồi xuống.
Hatthācariyo āgantvā taṃ vanditvā ekamantaṃ nisinno taṃ bhattabhājanaṃ āharāpetvā ‘‘tāpasaṃ maṃsodanena parivisathā’’ti āha.
The elephant trainer arrived, saluted him, and sat down to one side. He had the rice bowl brought and said, "Serve the ascetic with meat and rice."
Người huấn luyện voi về đến, đảnh lễ vị ấy, rồi ngồi sang một bên, sai mang hộp cơm ra và nói: “Xin mời đạo sĩ dùng cơm thịt.”
Tāpaso bhattaṃ gahetvā maṃse dīyamāne aggahetvā ‘‘imaṃ maṃsaṃ ahaṃ vicāremī’’ti vatvā ‘‘vicāretha, bhante’’ti vutte thūlamaṃsādīni ekekaṃ koṭṭhāsaṃ kāretvā thūlamaṃsaṃ hatthācariyassa dāpesi, bahimaṃsaṃ tassa bhariyāya, aṭṭhimaṃsaṃ attanā paribhuñji.
The ascetic took the rice, and when the meat was offered, he did not take it, saying, "I will examine this meat." When told, "Examine it, venerable sir," he made the thick flesh and other parts into separate portions. He gave the thick flesh to the elephant trainer, the outer flesh to his wife, and consumed the bone marrow himself.
Vị ẩn sĩ nhận cơm, nhưng khi được dâng thịt, Ngài không nhận mà nói: “Tôi sẽ phân chia món thịt này.” Khi được nói: “Xin Ngài phân chia, Bạch Đại Đức,” Ngài chia thịt thành từng phần: thịt thô, thịt ngoài, và thịt xương. Ngài đưa thịt thô cho người huấn luyện voi, thịt ngoài cho vợ anh ta, và tự mình dùng thịt xương.
So bhattakiccāvasāne gacchanto ‘‘tvaṃ ito tatiyadivase rājā bhavissasi, appamatto hohī’’ti vatvā pakkāmi.
As he was leaving after the meal, he said, "You will be king on the third day from now. Be heedful," and departed.
Sau khi dùng bữa xong, Ngài ra về và nói: “Ngươi sẽ trở thành vua vào ngày thứ ba kể từ bây giờ, hãy cẩn trọng!” rồi Ngài rời đi.
Tatiyadivase eko sāmantarājā āgantvā bārāṇasiṃ parivāresi.
On the third day, a neighboring king came and besieged Bārāṇasī.
Vào ngày thứ ba, một vị vua chư hầu đến vây hãm Bārāṇasī.
Bārāṇasirājā hatthācariyaṃ rājavesaṃ gāhāpetvā ‘‘hatthiṃ abhiruhitvā yujjhā’’ti āṇāpetvā sayaṃ aññātakavesena senāya vicārento ekena mahāvegena sarena viddho taṅkhaṇaññeva mari.
The King of Bārāṇasī had the elephant trainer put on royal attire and commanded him, "Mount the elephant and fight!" He himself, moving through the army in disguise, was struck by a very swift arrow and died instantly.
Vua Bārāṇasī sai người huấn luyện voi mặc y phục hoàng gia và ra lệnh: “Hãy cưỡi voi ra trận chiến!” Còn mình thì cải trang thành thường dân đi tuần tra quân đội, bị một mũi tên bay nhanh bắn trúng và chết ngay lập tức.
Tassa matabhāvaṃ ñatvā hatthācariyo bahū kahāpaṇe nīharāpetvā ‘‘dhanatthikā purato hutvā yujjhantū’’ti bheriṃ carāpesi.
Knowing of his death, the elephant trainer had many kahāpaṇas brought out and had a drum beaten, announcing, "Those who desire wealth, fight in the front!"
Biết vua đã chết, người huấn luyện voi sai mang nhiều đồng bạc ra và cho đánh trống loan báo: “Những ai muốn có tài sản hãy ra tiền tuyến chiến đấu!”
Balakāyo muhutteneva sāmantarājānaṃ jīvitakkhayaṃ pāpesi.
The army, in a moment, brought about the demise of the neighboring king.
Trong chốc lát, quân đội đã tiêu diệt vua chư hầu.
Amaccā rañño sarīrakiccaṃ katvā ‘‘kaṃ rājānaṃ karomā’’ti mantayamānā ‘‘amhākaṃ rājā jīvamāno attano vesaṃ hatthācariyassa adāsi, ayameva yuddhaṃ katvā rajjaṃ gaṇhi, etasseva rajjaṃ dassāmā’’ti taṃ rajjena abhisiñciṃsu, bhariyampissa aggamahesiṃ akaṃsu.
The ministers performed the king's funeral rites and deliberated, "Whom shall we make king?" They decided, "Our king, while alive, gave his attire to the elephant trainer. This very man fought and seized the kingdom. We shall give the kingdom to him." So they anointed him king and made his wife chief queen.
Các đại thần làm lễ tang cho vua, rồi bàn bạc: “Chúng ta sẽ lập ai làm vua?” Họ nói: “Khi vua của chúng ta còn sống, Ngài đã trao y phục của mình cho người huấn luyện voi. Chính người này đã chiến đấu và giành được vương quốc, chúng ta sẽ trao vương quốc cho anh ta.” Thế là họ làm lễ tấn phong anh ta lên ngôi vua, và vợ anh ta thành hoàng hậu.
Bodhisatto rājakulūpako ahosi.
The Bodhisatta became an attendant to the royal family.
Bồ Tát trở thành người thân cận của hoàng gia.
2495
Satthā atītaṃ āharitvā abhisambuddho hutvā imā dve gāthā abhāsi –
The Teacher, having recounted the past, and having become fully enlightened, spoke these two verses –
Đức Thế Tôn, sau khi kể lại chuyện quá khứ và trở thành bậc Chánh Đẳng Giác, đã nói hai bài kệ này:
2496
100.
100.
100.
2497
‘‘Yaṃ ussukā saṅgharanti, alakkhikā bahuṃ dhanaṃ;
"What the diligent, though unfortunate, accumulate much wealth;
Những gì kẻ siêng năng, không may mắn tích lũy nhiều tài sản;
2498
Sippavanto asippā ca, lakkhivā tāni bhuñjati.
Those with skills and those without, the fortunate ones enjoy it.
Dù có nghề hay không có nghề, người may mắn hưởng thụ chúng.
2499
101.
101.
101.
2500
‘‘Sabbattha katapuññassa, aticcaññeva pāṇino;
For one who has done good deeds everywhere, surpassing other beings;
Đối với chúng sinh đã tạo phước khắp mọi nơi, vượt trên những người khác,
2501
Uppajjanti bahū bhogā, appanāyatanesupī’’ti.
Many riches arise, even in places where they are not found."
Nhiều tài sản phát sinh, ngay cả ở những nơi không có nguồn gốc.
2502
Tattha yaṃ ussukāti yaṃ dhanasaṅgharaṇe ussukkamāpannā chandajātā kicchena bahuṃ dhanaṃ saṅgharanti.‘‘Ye ussukā’’tipi pāṭho, ye purisā dhanasaṃharaṇe ussukā hatthisippādivasena sippavanto asippā ca antamaso vetanena kammaṃ katvā bahuṃ dhanaṃ saṅgharantīti attho.
Therein, yaṃ ussukā means those who are diligent in accumulating wealth, who are desirous, who with difficulty accumulate much wealth. "Ye ussukā" is also a reading, meaning: "Those men who are diligent in accumulating wealth, whether skilled in elephant lore and so on, or unskilled, accumulate much wealth even by working for wages." This is the meaning.
Ở đây, yaṃ ussukā nghĩa là những gì mà những người siêng năng, ham muốn tích lũy nhiều tài sản một cách khó khăn. Cũng có bản đọc là “ye ussukā”, nghĩa là những người đàn ông siêng năng trong việc tích lũy tài sản, dù có nghề như huấn luyện voi hay không có nghề, thậm chí làm việc hưởng lương, tích lũy nhiều tài sản. Lakkhivā tāni bhuñjatī nghĩa là người có phước, khi hưởng quả phước của mình, hưởng thụ những tài sản được gọi là “nhiều tài sản” mà không cần làm bất cứ công việc gì.
Lakkhivā tāni bhuñjatīti tāni ‘‘bahuṃ dhana’’nti vuttāni dhanāni puññavā puriso attano puññaphalaṃ paribhuñjanto kiñci kammaṃ akatvāpi paribhuñjati.
Lakkhivā tāni bhuñjatī means that a meritorious person, enjoying the fruit of his own merit, enjoys those riches, referred to as "much wealth," even without performing any work.
Người có phước hưởng thụ những tài sản ấy, tức là những tài sản được gọi là “nhiều tài sản”, không cần làm bất cứ việc gì, như thể hưởng quả phước của chính mình.
2503
Aticcaññeva pāṇinoti aticca aññe eva pāṇino.
Aticcaññeva pāṇino means "surpassing other beings."
Aticcaññeva pāṇino nghĩa là vượt trên những chúng sinh khác.
Eva-kāro purimapadena yojetabbo, sabbattheva katapuññassa aññe akatapuññe satte atikkamitvāti attho.
The particle "eva" should be connected with the preceding word, meaning "surpassing other beings who have not performed merit, in all places."
Từ “eva” nên được nối với từ đứng trước, nghĩa là vượt qua những chúng sinh khác chưa tạo phước ở khắp mọi nơi.
Appanāyatanesupīti api anāyatanesupi aratanākaresu ratanāni asuvaṇṇāyatanādīsu suvaṇṇādīni ahatthāyatanādīsu hatthiādayoti saviññāṇakaaviññāṇakā bahū bhogā uppajjanti.
Appanāyatanesupī means that many possessions, both animate and inanimate, such as jewels in places where there are no mines, gold and so on in places where there are no gold mines, elephants and so on in places where there are no elephant habitats, arise even in such non-habitats.
Appanāyatanesupī nghĩa là ngay cả ở những nơi không phải là nguồn gốc, tức là ở những nơi không phải là mỏ đá quý, đá quý (ngọc trai, đá quý, v.v.) vẫn phát sinh; ở những nơi không phải là mỏ vàng, vàng vẫn phát sinh; ở những nơi không phải là nguồn voi, voi vẫn phát sinh, v.v. Nhiều tài sản hữu tri và vô tri vẫn phát sinh.
Tattha muttāmaṇiādīnaṃ anākare uppattiyaṃ duṭṭhagāmaṇiabhayamahārājassa vatthu kathetabbaṃ.
In this regard, the story of King Duṭṭhagāmaṇī Abhaya concerning the arising of pearls and gems in a non-mine should be recounted.
Trong trường hợp này, câu chuyện về vua Duṭṭhagāmaṇī Abhaya nên được kể về sự phát sinh của ngọc trai và đá quý ở những nơi không phải là nguồn gốc.
2504
Satthā pana imā gāthā vatvā ‘‘gahapati, imesaṃ sattānaṃ puññasadisaṃ aññaṃ āyatanaṃ nāma natthi, puññavantānañhi anākaresu ratanāni uppajjantiyevā’’ti vatvā imaṃ dhammaṃ desesi –
Having spoken these verses, the Teacher said, "Householder, there is no other source like merit for these beings. For indeed, for the meritorious, jewels arise even in places where there are no mines," and then he taught this Dhamma –
Đức Thế Tôn, sau khi nói những bài kệ này, đã thuyết pháp rằng: “Này gia chủ, không có nguồn gốc nào khác giống như phước báu của chúng sinh này. Đối với người có phước, đá quý phát sinh ngay cả ở những nơi không phải là nguồn gốc,” và Ngài đã thuyết bài pháp này:
2505
‘‘Esa devamanussānaṃ, sabbakāmadado nidhi;
"This is a treasure that grants all desires to devas and humans;
“Đây là kho tàng ban mọi điều mong muốn cho chư thiên và loài người;
2506
Yaṃ yadevābhipatthenti, sabbametena labbhati.
Whatever one desires, all is obtained through this.
Bất cứ điều gì họ mong muốn, tất cả đều đạt được nhờ điều này.
2507
‘‘Suvaṇṇatā susaratā, susaṇṭhānā surūpatā;
Golden complexion, sweet voice, good figure, beautiful form;
Màu vàng, giọng nói hay, hình dáng đẹp, dung mạo đoan trang;
2508
Ādhipaccaparivāro, sabbametena labbhati.
Dominion and retinue, all are obtained through this.
Quyền uy và quyến thuộc, tất cả đều đạt được nhờ điều này.
2509
‘‘Padesarajjaṃ issariyaṃ, cakkavattisukhaṃ piyaṃ;
Regional kingship, sovereignty, the beloved joy of a Cakkavatti;
Vương quốc địa phương, quyền lực tối cao, hạnh phúc của Chuyển Luân Vương đáng yêu;
2510
Devarajjampi dibbesu, sabbametena labbhati.
Even the kingship of devas in divine realms, all are obtained through this.
Ngay cả vương quốc chư thiên trong cõi trời, tất cả đều đạt được nhờ điều này.
2511
‘‘Mānussikā ca sampatti, devaloke ca yā rati;
Human prosperity, and whatever delight there is in the deva world;
Hạnh phúc của loài người, niềm vui trong cõi trời;
2512
Yā ca nibbānasampatti, sabbametena labbhati.
And the prosperity of Nibbāna, all are obtained through this.
Và hạnh phúc Niết Bàn, tất cả đều đạt được nhờ điều này.
2513
‘‘Mittasampadamāgamma, yonisova payuñjato;
Having attained good friendship, for one who applies oneself wisely;
Nhờ có bạn tốt, và thực hành đúng đắn;
2514
Vijjāvimuttivasībhāvo, sabbametena labbhati.
Mastery of knowledge and liberation, all are obtained through this.
Sự thành tựu về trí tuệ, giải thoát và quyền năng, tất cả đều đạt được nhờ điều này.
2515
‘‘Paṭisambhidā vimokkhā ca, yā ca sāvakapāramī;
The analytical knowledges, the liberations, and the perfection of a disciple;
Các phân tích pháp, các giải thoát, và sự viên mãn của bậc Thanh Văn;
2516
Paccekabodhi buddhabhūmi, sabbametena labbhati.
Paccekabodhi and Buddhahood, all are obtained through this.
Bồ Đề Duyên Giác, Phật Địa, tất cả đều đạt được nhờ điều này.
2517
‘‘Evaṃ mahatthikā esā, yadidaṃ puññasampadā;
So greatly beneficial is this, which is the accomplishment of merit;
Phước báu này có ý nghĩa lớn lao như vậy;
2518
Tasmā dhīrā pasaṃsanti, paṇḍitā katapuññata’’nti.(khu. pā. 8.10-16);
Therefore, the wise praise the performance of merit by the discerning."
Vì vậy, người trí ca ngợi, bậc hiền triết tán dương sự tạo phước.” (Khu. Pā. 8.10-16);
2519
Idāni yesu anāthapiṇḍikassa sirī patiṭṭhitā, tāni ratanāni dassetuṃ ‘‘kukkuṭo’’tiādimāha.
Now, to show the jewels upon which Anāthapiṇḍika's prosperity was established, he said kukkuṭo and so on.
Bây giờ, để chỉ ra những bảo vật mà tài sản của Anāthapiṇḍika được thiết lập, Ngài nói “kukkuṭo” và các từ tiếp theo.
2520
102.
102.
102.
2521
‘‘Kukkuṭo maṇayo daṇḍo, thiyo ca puññalakkhaṇā;
"A rooster, jewels, a staff, and women with auspicious marks;
“Gà, ngọc, gậy, và những phụ nữ có tướng phước báu;
2522
Uppajjanti apāpassa, katapuññassa jantuno’’ti.
Arise for a being who is not evil, who has performed merit."
Phát sinh cho chúng sinh không ác nghiệp, đã tạo phước.”
2523
Tattha daṇḍoti ārakkhayaṭṭhiṃ sandhāya vuttaṃ, thiyoti seṭṭhibhariyaṃ puññalakkhaṇadeviṃ.
Therein, daṇḍo is said with reference to a protective staff, thiyo refers to the merchant's wife, the queen with auspicious marks.
Trong đó, daṇḍo (gậy) được nói để chỉ gậy bảo vệ, thiyo (phụ nữ) là chỉ vợ của vị trưởng giả, nữ thần Puññalakkhaṇā.
Sesamettha uttānameva.
The rest here is clear.
Phần còn lại ở đây đều rõ ràng.
Gāthaṃ vatvā ca pana jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā ānando ahosi, kulūpakatāpaso pana ahameva sammāsambuddho ahosi’’nti.
Having spoken the verse, he then connected the Jātaka – "At that time, the king was Ānanda; but the hermit who was accustomed to the family was I myself, the Perfectly Self-Enlightened One."
Sau khi nói bài kệ, Ngài kết nối câu chuyện Jātaka: ‘‘Vua lúc đó chính là Ānanda, còn vị ẩn sĩ sống nhờ cúng dường của gia đình chính là Ta, Đức Chánh Đẳng Giác vậy.”
2524
Sirijātakavaṇṇanā catutthā.
The Description of the Sirijātaka is the fourth.
Câu chuyện Jātaka về Siri thứ tư.
2525
* 5. Maṇisūkarajātakavaṇṇanā
* 5. The Description of the Maṇisūkarajātaka
* 5. Câu chuyện Jātaka về Maṇisūkara
2526
Dariyā satta vassānīti idaṃ satthā jetavane viharanto sundarīmāraṇaṃ ārabbha kathesi.
Dariyā satta vassānī – The Teacher, while residing at Jetavana, spoke this with reference to the killing of Sundarī.
Bảy năm trong hang – câu chuyện này được Đức Đạo Sư kể tại Jetavana, liên quan đến việc sát hại Sundarī.
Tena kho pana samayena bhagavā sakkato hoti garukatoti vatthu udāne (udā. 38) āgatameva.
The story that at that time the Blessed One was honored and revered is found in the Udāna.
Vào thời điểm đó, Đức Thế Tôn được tôn kính và trọng vọng, câu chuyện này đã được kể trong Udāna (Udā. 38).
Ayaṃ panettha saṅkhepo – bhagavato kira bhikkhusaṅghassa ca pañcannaṃ mahānadīnaṃ mahoghasadise lābhasakkāre uppanne hatalābhasakkārā aññatitthiyā sūriyuggamanakāle khajjopanakā viya nippabhā hutvā ekato sannipatitvā mantayiṃsu – ‘‘mayaṃ samaṇassa gotamassa uppannakālato paṭṭhāya hatalābhasakkārā, na koci amhākaṃ atthibhāvampi jānāti, kena nu kho saddhiṃ ekato hutvā samaṇassa gotamassa avaṇṇaṃ uppādetvā lābhasakkāramassa antaradhāpeyyāmā’’ti.
Here is a summary of the matter: When offerings and honors arose for the Blessed One and the Saṅgha of bhikkhus, like a great flood of five great rivers, the other sectarians, whose offerings and honors had been destroyed, became powerless like fireflies at sunrise. They gathered together and deliberated: ‘Since the time the ascetic Gotama appeared, our offerings and honors have been destroyed. No one even knows of our existence. With whom, then, should we join to cause disrepute for the ascetic Gotama and make his offerings and honors disappear?’
Đây là tóm tắt: Khi Đức Thế Tôn và Tăng đoàn nhận được lợi lộc và sự tôn kính dồi dào như dòng nước lũ của năm con sông lớn, các ngoại đạo bị mất lợi lộc và sự tôn kính, trở nên lu mờ như đom đóm khi mặt trời mọc. Họ tụ họp lại và bàn bạc: “Từ khi Sa môn Gotama xuất hiện, chúng ta đã mất hết lợi lộc và sự tôn kính, không ai biết đến sự tồn tại của chúng ta nữa. Chúng ta nên hợp tác với ai để tạo ra tiếng xấu cho Sa môn Gotama và làm mất đi lợi lộc và sự tôn kính của Ngài?”
Atha nesaṃ etadahosi – ‘‘sundariyā saddhiṃ ekato hutvā sakkuṇissāmā’’ti.
Then it occurred to them: ‘We can do it by joining with Sundarī.’
Sau đó, họ nghĩ: “Chúng ta có thể hợp tác với Sundarī.”
2527
Te ekadivasaṃ sundariṃ titthiyārāmaṃ pavisitvā vanditvā ṭhitaṃ nālapiṃsu.
One day, they entered the hermitage of the sectarians and, when Sundarī came and stood after paying respects, they did not speak to her.
Một ngày nọ, họ không nói chuyện với Sundarī khi cô vào tu viện ngoại đạo, đảnh lễ và đứng đó.
Sā punappunaṃ sallapantīpi paṭivacanaṃ alabhitvā ‘‘api nu, ayyā, tumhe kenaci viheṭhitātthā’’ti pucchi.
Even though she spoke repeatedly, she received no reply and asked, ‘Sirs, have you been troubled by anyone?’
Dù cô hỏi đi hỏi lại, không nhận được câu trả lời, cô hỏi: “Thưa các ngài, có phải các ngài bị ai đó quấy rối không?”
‘‘Kiṃ, bhagini, samaṇaṃ gotamaṃ amhe viheṭhetvā hatalābhasakkāre katvā vicarantaṃ na passasī’’ti.
‘Sister, do you not see the ascetic Gotama, who troubles us and, having destroyed our offerings and honors, goes about?’
Họ nói: “Này cô em, cô không thấy Sa môn Gotama đã quấy rối chúng ta, làm mất hết lợi lộc và sự tôn kính của chúng ta sao?”
Sā evamāha – ‘‘mayā ettha kiṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti?
She said this: ‘What should I do in this matter?’
Cô nói: “Tôi có thể làm gì ở đây?”
Tvaṃ khosi, bhagini, abhirūpā sobhaggappattā, samaṇassa gotamassa ayasaṃ āropetvā mahājanaṃ tava kathaṃ gāhāpetvā hatalābhasakkāraṃ karohī’’ti?
‘Sister, you are beautiful and endowed with charm. Bring disrepute upon the ascetic Gotama, make the great populace accept your words, and destroy his offerings and honors!’
“Này cô em, cô là người xinh đẹp, có sắc đẹp. Hãy gán tiếng xấu cho Sa môn Gotama, làm cho mọi người tin lời cô và làm mất đi lợi lộc và sự tôn kính của Ngài.”
Sā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā vanditvā pakkantā.
She agreed, saying ‘Very well,’ paid respects, and departed.
Cô nói “Vâng” và chấp nhận, rồi đảnh lễ và rời đi.
Tato paṭṭhāya mālāgandhavilepanakappūrakaṭukaphalādīni gahetvā sāyaṃ mahājanassa satthu dhammadesanaṃ sutvā nagaraṃ pavisanakāle jetavanābhimukhī gacchati.
From then on, taking garlands, perfumes, unguents, camphor, pungent fruits, and other things, she would go towards Jetavana in the evening when the great populace, having listened to the Master’s Dhamma discourse, was entering the city.
Từ đó trở đi, cô mang theo vòng hoa, hương liệu, dầu thơm, long não, trái cây cay và các thứ khác. Vào buổi tối, khi mọi người nghe pháp của Đức Đạo Sư và trở về thành phố, cô đi về phía Jetavana.
‘‘Kahaṃ gacchasī’’ti ca puṭṭhā ‘‘samaṇassa gotamassa santikaṃ, ahañhi tena saddhiṃ ekagandhakuṭiyaṃ vasāmī’’ti vatvā aññatarasmiṃ titthiyārāme vasitvā pātova jetavanamaggaṃ otaritvā nagarābhimukhī gacchati.
When asked, ‘Where are you going?’ she would say, ‘To the ascetic Gotama. Indeed, I dwell with him in the same perfumed chamber,’ and then, having stayed in another sectarian hermitage, she would descend onto the Jetavana road early in the morning and go towards the city.
Khi được hỏi: “Cô đi đâu vậy?”, cô nói: “Đến chỗ Sa môn Gotama, vì tôi sống cùng một hương thất với Ngài.” Rồi cô sống trong một tu viện ngoại đạo và sáng sớm đi ra đường Jetavana, đi về phía thành phố.
‘‘Kiṃ, sundari, kahaṃ gatāsī’’ti ca puṭṭhā ‘‘samaṇena gotamena saddhiṃ ekagandhakuṭiyaṃ vasitvā taṃ kilesaratiyā ramāpetvā āgatāmhī’’ti vadati.
When asked, ‘Sundarī, where have you been?’ she would say, ‘I have come after dwelling with the ascetic Gotama in the same perfumed chamber and delighting him with sensual pleasure.’
Khi được hỏi: “Này Sundarī, cô đã đi đâu?”, cô nói: “Tôi đã sống cùng một hương thất với Sa môn Gotama và làm cho Ngài hoan lạc trong dục lạc, rồi tôi trở về.”
2528
Atha naṃ katipāhaccayena dhuttānaṃ kahāpaṇe datvā ‘‘gacchatha sundariṃ māretvā samaṇassa gotamassa gandhakuṭiyā samīpe mālākacavarantare nikkhipitvā ethā’’ti vadiṃsu, te tathā akaṃsu.
Then, after a few days, they gave money to some rogues and said, ‘Go, kill Sundarī, and leave her near the ascetic Gotama’s perfumed chamber, among the rubbish of flowers, and come back.’ They did so.
Sau vài ngày, họ đưa tiền cho những kẻ du côn và nói: “Hãy đi giết Sundarī, rồi giấu xác cô ta gần hương thất của Sa môn Gotama, giữa những bụi hoa và cây cối, rồi trở về đây.” Chúng đã làm như vậy.
Tato titthiyā ‘‘sundariṃ na passāmā’’ti kolāhalaṃ katvā rañño ārocetvā ‘‘kahaṃ vo āsaṅkā’’ti vuttā ‘‘imesu divasesu jetavane vasati, tatrassā pavattiṃ na jānāmā’’ti vatvā ‘‘tena hi gacchatha, naṃ vicinathā’’ti raññā anuññātā attano upaṭṭhāke gahetvā jetavanaṃ gantvā vicinantā mālākacavarantare disvā mañcakaṃ āropetvā nagaraṃ pavesetvā ‘‘samaṇassa gotamassa sāvakā ‘satthārā katapāpakammaṃ paṭicchādessāmā’ti sundariṃ māretvā mālākacavarantare nikkhipiṃsū’’ti rañño ārocesuṃ, rājā ‘‘tena hi gacchatha, nagaraṃ āhiṇḍathā’’ti āha.
Thereupon, the sectarians made an uproar, saying, ‘We do not see Sundarī!’ They reported it to the king. When asked, ‘Where is your suspicion?’ they replied, ‘These days she has been staying at Jetavana. We do not know what has become of her there.’ The king, having granted permission, saying, ‘Then go and search for her,’ took their own attendants and went to Jetavana. While searching, they found her among the rubbish of flowers, placed her on a stretcher, brought her into the city, and reported to the king, ‘The disciples of the ascetic Gotama, saying, “We will conceal the evil deed done by the Master,” killed Sundarī and left her among the rubbish of flowers.’ The king said, ‘Then go and parade her through the city.’
Sau đó, các ngoại đạo làm ồn ào: “Chúng tôi không thấy Sundarī đâu cả!” Họ báo cáo với vua. Khi được hỏi: “Các ngươi nghi ngờ ở đâu?”, họ nói: “Mấy ngày nay cô ta sống ở Jetavana, chúng tôi không biết tin tức gì về cô ta ở đó.” Vua cho phép: “Vậy thì hãy đi tìm cô ta.” Họ dẫn những người hầu của mình đến Jetavana, tìm kiếm và thấy xác cô ta giữa những bụi hoa và cây cối. Họ đặt xác cô ta lên một cái cáng và mang vào thành phố, rồi báo cáo với vua: “Các đệ tử của Sa môn Gotama đã giết Sundarī và giấu xác cô ta giữa những bụi hoa và cây cối để che giấu tội ác mà Đức Đạo Sư đã gây ra.” Vua nói: “Vậy thì hãy đi, hãy đi khắp thành phố.”
Te nagaravīthīsu ‘‘passatha samaṇānaṃ sakyaputtiyānaṃ kamma’’ntiādīni viravitvā puna rañño nivesanadvāraṃ agamaṃsu.
They went through the city streets, shouting, ‘See the deed of the Sakyan ascetics!’ and so on, and then returned to the king’s palace gate.
Họ đi khắp các con đường trong thành phố, la lớn: “Hãy xem hành động của các Sa môn dòng Sakya!” và các lời khác, rồi lại đến cổng cung điện của vua.
2529
Rājā sundariyā sarīraṃ āmakasusāne aṭṭakaṃ āropetvā rakkhāpesi.
The king had Sundarī’s body placed on a gibbet in the charnel ground and guarded.
Vua cho đặt xác Sundarī lên một giàn ở bãi tha ma hoang dã và cho người canh giữ.
Sāvatthivāsino ṭhapetvā ariyasāvake sesā yebhuyyena ‘‘passatha samaṇānaṃ sakyaputtiyānaṃ kamma’’ntiādīni vatvā antonagare ca bahinagare ca bhikkhū akkosantā paribhāsantā vicaranti.
Except for the noble disciples, most of the residents of Sāvatthī, saying, ‘See the deed of the Sakyan ascetics!’ and so on, went about reviling and insulting the bhikkhus both inside and outside the city.
Ngoại trừ các bậc Thánh đệ tử, phần lớn cư dân Sāvatthi đi lại cả trong thành lẫn ngoài thành, chửi rủa và phỉ báng các Tỳ-khưu, nói những lời như: “Hãy xem việc làm của các Sa-môn Thích tử!”
Bhikkhū taṃ pavattiṃ tathāgatassa ārocesuṃ.
The bhikkhus reported this matter to the Tathāgata.
Các Tỳ-khưu đã báo cáo sự việc đó với Đức Như Lai.
Satthā ‘‘tena hi tumhepi te manusse evaṃ paṭicodethā’’ti –
The Master said, ‘Then you too should reproach those people thus’ –
Đức Đạo Sư nói: “Vậy thì, các con cũng hãy đáp lại những người đó như thế này” –
2530
‘‘Abhūtavādī nirayaṃ upeti, yo vāpi katvā na karomi cāha;
‘One who speaks what is not true goes to hell, and one who, having done, says “I did not do.”
“Kẻ nói lời không thật sẽ đọa vào địa ngục; hoặc kẻ đã làm mà nói ‘tôi không làm’.
2531
Ubhopi te pecca samā bhavanti, nihīnakammā manujā paratthā’’ti.(udā. 38) –
Both of them, having passed away, become equal, base-actioned humans in the other world.’
Cả hai người đó, sau khi chết, đều trở thành bình đẳng, những người có nghiệp thấp kém ở đời sau.”
2532
Imaṃ gāthamāha.
He spoke this verse.
Ngài đã nói bài kệ này.
2533
Rājā ‘‘sundariyā aññehi māritabhāvaṃ jānāthā’’ti purise pesesi.
The king sent men, saying, ‘Find out if Sundarī was killed by others.’
Đức vua đã sai người đi tìm hiểu: “Hãy tìm hiểu xem Sundarī bị người khác giết như thế nào.”
Tepi kho dhuttā tehi kahāpaṇehi suraṃ pivantā aññamaññaṃ kalahaṃ karonti.
And those rogues, drinking liquor with that money, quarreled among themselves.
Những tên côn đồ đó, với những đồng tiền ấy, uống rượu và gây gổ lẫn nhau.
Tattheko evamāha – ‘‘tvaṃ sundariṃ ekappahāreneva māretvā mālākacavarantare nikkhipitvā tato laddhakahāpaṇehi suraṃ pivasi, hotu hotū’’ti.
There, one said this: "You killed Sundarī with a single blow, hid her among the flowers and rubbish, and then drank liquor with the money you got from that. Let it be, let it be!"
Trong số đó, một tên nói: “Ngươi đã giết Sundarī chỉ bằng một nhát đánh, rồi ném vào giữa đống rác hoa, và bây giờ uống rượu bằng những đồng tiền có được từ đó. Được thôi, được thôi!”
Rājapurisā te dhutte gahetvā rañño dassesuṃ.
The king's men seized those rogues and presented them to the king.
Các quan quân đã bắt những tên côn đồ đó và dẫn đến trước vua.
Atha te rājā ‘‘tumhehi māritā’’ti pucchi.
Then the king asked them, "Was she killed by you?"
Sau đó, đức vua hỏi: “Các ngươi đã giết cô ta phải không?”
‘‘Āma, devā’’ti.
"Yes, your Majesty," they replied.
“Vâng, thưa Bệ hạ.”
‘‘Kehi mārāpitā’’ti?
"By whom were you made to kill her?"
“Bị ai sai khiến để giết?”
‘‘Aññatitthiyehi, devā’’ti.
"By other sectarians, your Majesty," they said.
“Bởi các ngoại đạo, thưa Bệ hạ.”
Rājā titthiye pakkosāpetvā sundariṃ ukkhipāpetvā ‘‘gacchatha tumhe, evaṃ vadantā nagaraṃ āhiṇḍatha ‘ayaṃ sundarī samaṇassa gotamassa avaṇṇaṃ āropetukāmehi amhehi mārāpitā, neva samaṇassa gotamassa, na gotamasāvakānaṃ doso atthi, amhākaṃyeva doso’’’ti āṇāpesi.
The king summoned the sectarians, had Sundarī lifted up, and commanded, "Go, you, and walk through the city saying this: 'This Sundarī was killed by us, who wished to bring disrepute upon the ascetic Gotama. There is no fault in the ascetic Gotama, nor in the disciples of Gotama; the fault is ours alone.'"
Đức vua đã cho triệu tập các ngoại đạo, và sau khi cho nhấc Sundarī lên, Ngài ra lệnh: “Các ngươi hãy đi khắp thành phố mà nói rằng: ‘Chúng tôi đã giết Sundarī này vì muốn bôi nhọ Sa-môn Gotama. Không phải lỗi của Sa-môn Gotama, cũng không phải lỗi của các đệ tử Gotama. Lỗi là của chính chúng tôi.’”
Te tathā akaṃsu.
They did so.
Họ đã làm như vậy.
Bālamahājano tadā saddahi, titthiyāpi purisavadhadaṇḍena palibuddhā.
The foolish populace then believed them, and the sectarians were entangled by the penalty for murder.
Đám đông ngu si lúc đó đã tin, và các ngoại đạo cũng bị trói buộc bởi hình phạt giết người.
Tato paṭṭhāya buddhānaṃ mahantataro lābhasakkāro ahosi.
From that time onwards, the Buddhas received even greater gain and honor.
Từ đó trở đi, sự cúng dường và lợi lộc lớn hơn đã đến với chư Phật.
2534
Athekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, titthiyā ‘buddhānaṃ kāḷakabhāvaṃ uppādessāmā’ti sayaṃ kāḷakā jātā, buddhānaṃ pana mahantataro lābhasakkāro udapādī’’ti.
Then, one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, the sectarians, thinking 'We will bring disrepute to the Buddhas,' became disgraced themselves, while the Buddhas gained even greater gain and honor."
Rồi một ngày nọ, các Tỳ-khưu đã khởi xướng một cuộc đàm luận trong Pháp đường: “Thưa chư Hiền, các ngoại đạo nói rằng ‘chúng tôi sẽ làm cho chư Phật bị ô uế’, nhưng chính họ lại trở nên ô uế, còn chư Phật thì lại có được lợi lộc và sự tôn kính lớn hơn.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, sakkā buddhānaṃ saṃkilesaṃ uppādetuṃ, buddhānaṃ saṃkiliṭṭhabhāvakaraṇaṃ nāma jātimaṇino kiliṭṭhabhāvakaraṇasadisaṃ, pubbe jātimaṇiṃ ‘kiliṭṭhaṃ karissāmā’ti vāyamantāpi nāsakkhiṃsu kiliṭṭhaṃ kātu’’nti vatvā tehi yācito atītaṃ āhari.
The Teacher came and, asking "With what discussion are you gathered now, bhikkhus?" and being told "With this, venerable sir," said, "Bhikkhus, it is not possible to bring defilement upon the Buddhas. To cause defilement to the Buddhas is like causing defilement to a naturally pure gem. In the past, those who tried to defile a naturally pure gem were unable to defile it." Having said this, and being requested by them, he related a past event.
Đức Đạo Sư đến và hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các con đang ngồi đàm luận về chuyện gì vậy?” Khi được trả lời “Về chuyện này, thưa Ngài”, Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, không thể làm cho chư Phật bị ô uế. Việc làm cho chư Phật bị ô uế giống như việc làm cho một viên ngọc quý bị ô uế. Xưa kia, những kẻ cố gắng làm cho một viên ngọc quý bị ô uế cũng không thể làm được.” Nói xong, khi được các Tỳ-khưu thỉnh cầu, Ngài đã kể lại chuyện quá khứ.
2535
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ gāmake brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto kāmesu ādīnavaṃ disvā nikkhamitvā himavantapadese tisso pabbatarājiyo atikkamitvā tāpaso hutvā paṇṇasālāyaṃ vasi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in a certain village. When he came of age, he saw the danger in sensual pleasures, renounced the world, crossed three mountain ranges in the Himavanta region, became an ascetic, and lived in a leaf-hut.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở một ngôi làng. Khi trưởng thành, Ngài đã nhìn thấy sự nguy hiểm trong các dục lạc, bèn xuất gia, vượt qua ba dãy núi ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, trở thành một vị đạo sĩ và sống trong một túp lều lá.
Tassā avidūre maṇiguhā ahosi, tattha tiṃsamattā sūkarā vasanti, guhāya avidūre eko sīho carati, tassa maṇimhi chāyā paññāyati.
Not far from his hut was a gem cave, where about thirty boars lived. Not far from the cave, a lion roamed, and its shadow appeared in the gem.
Không xa túp lều của Ngài có một hang động đá quý, nơi có khoảng ba mươi con heo rừng sinh sống. Không xa hang động có một con sư tử đi lại, bóng của nó hiện rõ trên viên đá quý.
Sūkarā sīhacchāyaṃ disvā bhītā utrastā appamaṃsalohitā ahesuṃ.
The boars, seeing the lion's shadow, were frightened and terrified, becoming lean and bloodless.
Những con heo rừng nhìn thấy bóng sư tử, sợ hãi và kinh hoàng, trở nên gầy gò, ít thịt ít máu.
Te ‘‘imassa maṇino vippasannattā ayaṃ chāyā paññāyati, imaṃ maṇiṃ saṃkiliṭṭhaṃ vivaṇṇaṃ karomā’’ti cintetvā avidūre ekaṃ saraṃ gantvā kalale pavaṭṭetvā āgantvā taṃ maṇiṃ ghaṃsanti.
They thought, "This shadow appears because of the extreme clarity of this gem. Let us defile this gem and make it discolored." So, they went to a pond not far away, rolled in the mud, and returned to rub the gem.
Chúng nghĩ: “Bởi vì viên đá quý này quá trong suốt nên bóng này mới hiện rõ. Chúng ta hãy làm cho viên đá quý này bị ô uế, mất màu đi.” Thế là chúng đi đến một cái ao gần đó, lăn mình trong bùn, rồi quay lại chà xát vào viên đá quý.
So sūkaralomehi ghaṃsiyamāno vippasannataro ahosi.
As it was rubbed by the boars' bristles, it became even clearer.
Tuy bị lông heo rừng cọ xát, viên đá quý lại càng trở nên trong sáng hơn.
Sūkarā upāyaṃ apassantā ‘‘imassa maṇino vivaṇṇakaraṇūpāyaṃ tāpasaṃ pucchissāmā’’ti bodhisattaṃ upasaṅkamitvā vanditvā ekamantaṃ ṭhitā purimā dve gāthā udāhariṃsu –
The boars, seeing no other way, thought, "Let us ask the ascetic for a way to discolor this gem." They approached the Bodhisatta, paid homage, stood to one side, and recited the first two verses:
Những con heo rừng không tìm ra cách nào khác, bèn nghĩ: “Chúng ta hãy hỏi vị đạo sĩ về cách làm cho viên đá quý này mất màu.” Chúng đến gần Bồ-tát, đảnh lễ và đứng sang một bên, rồi đọc hai bài kệ đầu tiên –
2536
103.
103.
103.
2537
‘‘Dariyā satta vassāni, tiṃsamattā vasāmase;
"We have lived in this cave for seven years, about thirty of us;
“Chúng tôi đã sống trong hang động bảy năm, khoảng ba mươi con;
2538
Haññāma maṇino ābhaṃ, iti no mantaraṃ ahu.
We thought we would destroy the radiance of the gem.
Chúng tôi muốn hủy hoại ánh sáng của viên đá quý, đó là ý định của chúng tôi.
2539
104.
104.
104.
2540
‘‘Yāvatā maṇiṃ ghaṃsāma, bhiyyo vodāyate maṇi;
The more we rub the gem, the clearer it becomes;
Càng chà xát viên đá quý, nó lại càng trong sáng hơn;
2541
Idañcadāni pucchāma, kiṃ kiccaṃ idha maññasī’’ti.
Now we ask this: What do you think should be done here?"
Bây giờ chúng tôi hỏi Ngài, Ngài nghĩ việc này nên làm gì?”
2542
Tattha dariyāti maṇiguhāyaṃ.
There, dariyā means "in the gem cave."
Ở đây, dariyā nghĩa là trong hang đá quý.
Vasāmaseti vasāma.
Vasāmase means "we live."
Vasāmase nghĩa là chúng tôi sống.
Haññāmāti hanissāma, mayampi vivaṇṇaṃ karissāma.
Haññāmā means "we shall destroy," or "we too shall make it discolored."
Haññāmā nghĩa là chúng tôi sẽ hủy hoại, chúng tôi cũng sẽ làm cho nó mất màu.
Idañcadāni pucchāmāti idāni mayaṃ ‘‘kena kāraṇena ayaṃ maṇi kilissamāno vodāyate’’ti idaṃ taṃ pucchāma.
Idañcadāni pucchāmā means "Now we ask this: 'For what reason does this gem become clearer when it is defiled?'"
Idañcadāni pucchāmā nghĩa là bây giờ chúng tôi hỏi Ngài điều này: “Vì lý do gì mà viên đá quý này càng bị làm bẩn lại càng trong sáng hơn?”
‘‘Kiṃ kiccaṃ ‘idha maññasī’ti imasmiṃ atthe tvaṃ imaṃ kiccaṃ kinti maññasī’’ti.
"Kiṃ kiccaṃ 'idha maññasī'" means "What do you think is the right thing to do in this matter?"
‘‘Kiṃ kiccaṃ ‘idha maññasī’ nghĩa là “trong trường hợp này, Ngài nghĩ việc này nên làm gì?”
2543
Atha nesaṃ ācikkhanto bodhisatto tatiyaṃ gāthamāha –
Then, explaining to them, the Bodhisatta spoke the third verse:
Rồi, Bồ tát, khi dạy bảo chúng, đã nói bài kệ thứ ba –
2544
105.
105.
105.
2545
‘‘Ayaṃ maṇi veḷuriyo, akāco vimalo subho;
"This gem is beryl, flawless, pure, and beautiful;
“Viên ngọc báu này là ngọc bích, không tì vết, trong sạch, sáng ngời;
2546
Nāssa sakkā siriṃ hantuṃ, apakkamatha sūkarā’’ti.
Its splendor cannot be destroyed, so go away, boars!"
Không thể hủy hoại vẻ đẹp của nó, hỡi lũ heo, hãy tránh xa!”
2547
Tattha akācoti akakkaso.
There, akāco means "flawless" or "not rough."
Trong đó, akāco nghĩa là không thô ráp.
Subhoti sobhano.
Subho means "beautiful."
Subho nghĩa là đẹp đẽ.
Sirinti pabhaṃ.
Siriṃ means "splendor" or "radiance."
Siriṃ nghĩa là ánh sáng.
Apakkamathāti imassa maṇissa pabhā nāsetuṃ na sakkā, tumhe pana imaṃ maṇiguhaṃ pahāya aññattha gacchathāti.
Apakkamathā means "The splendor of this gem cannot be destroyed, so you should leave this gem cave and go elsewhere."
Apakkamathā nghĩa là không thể hủy hoại ánh sáng của viên ngọc này, còn các ngươi, hãy rời khỏi hang ngọc này mà đi nơi khác.
2548
Te tassa kathaṃ sutvā tathā akaṃsu.
Hearing his words, they did so.
Nghe lời Ngài nói, chúng đã làm như vậy.
Bodhisatto jhānaṃ uppādetvā brahmalokaparāyaṇo ahosi.
The Bodhisatta developed jhāna and became destined for the Brahma-world.
Bồ tát đã phát khởi thiền định và trở thành người hướng đến cõi Phạm thiên.
2549
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā tāpaso ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having delivered this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the ascetic was none other than myself."
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka – “Khi ấy, vị ẩn sĩ chính là Ta.”
2550
Maṇisūkarajātakavaṇṇanā pañcamā.
The Fifth Chapter, the Maṇisūkara Jātaka.
Chuyện Manisūkara Jātaka, thứ năm.
2551
* 6. Sālūkajātakavaṇṇanā
* 6. The Sālūka Jātaka.
* 6. Chuyện Sālūka Jātaka
2552
sālūkassa pihayīti idaṃ satthā jetavane viharanto thullakumārikāpalobhanaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, while dwelling at Jetavana, spoke this Dhamma, "Do not covet the hog," concerning the seduction of the plump maiden.
Mā sālūkassa pihayī – câu này, Đức Bổn Sư khi ngự tại Jetavana, đã thuyết giảng nhân việc một tỳ khưu bị quyến rũ bởi một thiếu nữ mập mạp (thullakumārikā).
Taṃ cūḷanāradakassapajātake (jā. 1.13.40 ādayo) āvibhavissati.
That will become clear in the Cūḷanāradakassapa Jātaka.
Chuyện này sẽ được trình bày trong Cūḷanāradakassapa Jātaka.
Taṃ pana bhikkhuṃ satthā pakkosāpetvā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti pucchi.
The Teacher then had that bhikkhu summoned and asked, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?"
Đức Bổn Sư đã gọi vị tỳ khưu đó đến và hỏi: “Này tỳ khưu, có thật là ngươi chán nản không?”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti.
"Yes, Venerable Sir," he replied.
“Bạch Đức Thế Tôn, đúng vậy.”
‘‘Ko taṃ ukkaṇṭhāpetī’’ti?
"Who causes you discontent?"
“Ai đã khiến ngươi chán nản?”
‘‘Thullakumārikā, bhante’’ti.
"The plump maiden, Venerable Sir," he replied.
“Bạch Đức Thế Tôn, thiếu nữ mập mạp đó.”
Satthā ‘‘esā te bhikkhu anatthakārikā, pubbepi tvaṃ etissā vivāhatthāya āgataparisāya uttaribhaṅgo ahosī’’ti vatvā bhikkhūhi yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, saying, "This bhikkhu, she is harmful to you; even in the past, you were the main dish for the assembly that came for her wedding," and being requested by the bhikkhus, recounted a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Này tỳ khưu, cô ta là người gây hại cho ngươi. Trước đây, ngươi cũng đã là vật hiến tế chính cho đoàn người đến cầu hôn cô ta,” rồi, được các tỳ khưu thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
2553
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto mahālohitagoṇo nāma ahosi, kaniṭṭhabhātā panassa cūḷalohito nāma.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was a great red ox named Mahālohita, and his younger brother was named Cūḷalohita.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ tát là một con bò đực lông đỏ lớn (Mahālohitagoṇa), còn em trai Ngài tên là Cūḷalohita.
Ubhopi goṇā gāmake ekasmiṃ kule kammaṃ karonti.
Both oxen worked in a certain family in a village.
Cả hai con bò đều làm việc cho một gia đình trong làng.
Tassa kulassa ekā vayappattā kumārikā atthi, taṃ aññakulaṃ vāresi.
That family had a maiden who had reached maturity, and another family sought her hand in marriage.
Gia đình đó có một cô con gái đã đến tuổi trưởng thành, được một gia đình khác cầu hôn.
Atha naṃ kulaṃ ‘‘vivāhakāle uttaribhaṅgo bhavissatī’’ti sālūkaṃ nāma sūkaraṃ yāgubhattena paṭijaggi, so heṭṭhāmañce sayati.
Then the family, thinking "he will be the main dish at the wedding," nourished a hog named Sālūka with gruel and rice, and it slept under the bed.
Sau đó, gia đình đã nuôi dưỡng một con heo tên là Sālūka bằng cháo gạo, với ý định “nó sẽ là vật hiến tế chính vào ngày cưới,” và nó ngủ dưới gầm giường.
Athekadivasaṃ cūḷalohito bhātaraṃ āha – ‘‘bhātika, mayaṃ imasmiṃ kule kammaṃ karoma, amhe nissāya imaṃ kulaṃ jīvati, atha ca panime manussā amhākaṃ tiṇapalālamattaṃ denti, imaṃ sūkaraṃ yāgubhattena posenti, heṭṭhāmañce sayāpenti, kiṃ nāmesa etesaṃ karissatī’’ti.
Then one day, Cūḷalohita said to his brother, "Brother, we work in this family, and this family lives because of us, yet these people give us only grass and straw. They feed this hog with gruel and rice and make it sleep under the bed. What good will it do for them?"
Một ngày nọ, Cūḷalohita nói với anh trai: “Anh ơi, chúng ta làm việc cho gia đình này, gia đình này sống nhờ chúng ta, thế mà những người này chỉ cho chúng ta cỏ khô, còn con heo này thì họ nuôi bằng cháo gạo, cho nó ngủ dưới gầm giường, nó sẽ làm gì cho họ chứ?”
Mahālohito ‘‘tāta, mā tvaṃ etassa yāgubhattaṃ patthaya, etissā kumārikāya vivāhadivase etaṃ uttaribhaṅgaṃ kātukāmā ete maṃsassa thūlabhāvakaraṇatthaṃ posenti, katipāhaccayena taṃ passissasi heṭṭhāmañcato nikkhāmetvā vadhitvā khaṇḍākhaṇḍikaṃ chinditvā āgantukabhattaṃ kariyamāna’’nti vatvā purimā dve gāthā samuṭṭhāpesi –
Mahālohita said, "My dear, do not long for its gruel and rice. They are fattening it to make it the main dish of meat on the day of this maiden's wedding. In a few days, you will see it taken out from under the bed, killed, cut into pieces, and made into a meal for guests," and having said this, he uttered the first two verses:
Mahālohita nói: “Này em, đừng thèm khát cháo gạo của nó. Họ nuôi con heo này để làm vật hiến tế chính vào ngày cưới của cô gái, để nó mập mạp. Vài ngày nữa, em sẽ thấy nó bị lôi ra khỏi gầm giường, bị giết, xẻ thành từng mảnh và làm thức ăn cho khách,” rồi Ngài đã nói hai bài kệ đầu tiên –
2554
106.
106.
106.
2555
‘‘Mā sālūkassa pihayi, āturannāni bhuñjati;
"Do not covet the hog, for it eats food meant for the sick (death-food);
“Đừng thèm khát heo Sālūka, nó ăn những món ăn của bệnh nhân;
2556
Appossukko bhusaṃ khāda, etaṃ dīghāyulakkhaṇaṃ.
Eat your chaff without worry, this is a sign of long life.
Hãy vô tư ăn cỏ khô, đó là dấu hiệu của tuổi thọ dài lâu.
2557
107.
107.
107.
2558
‘‘Idāni so idhāgantvā, atithī yuttasevako;
Now, when that guest, well-served, arrives here,
Chẳng mấy chốc, người khách đó sẽ đến đây, một người hầu cận chu đáo;
2559
Atha dakkhasi sālūkaṃ, sayantaṃ musaluttara’’nti.
Then you will see the hog lying, struck by a pestle."
Rồi ngươi sẽ thấy con heo Sālūka nằm đó, với cái mõm như chày.”
2560
Tatthāyaṃ saṅkhepattho – tāta, tvaṃ mā sālūkasūkarabhāvaṃ patthayi, ayañhi āturannāni maraṇabhojanāni bhuñjati, yāni bhuñjitvā nacirasseva maraṇaṃ pāpuṇissati, tvaṃ pana appossukko nirālayo hutvā attanā laddhaṃ imaṃ palālamissakaṃ bhusaṃ khāda, etaṃ dīghāyubhāvassa lakkhaṇaṃ sañjānananimittaṃ.
Herein, the condensed meaning is: "My dear, do not long for the state of being the Sālūka hog, for it eats āturannāni, food for death, which, having eaten, it will soon meet death. But you, appossukko, being free from attachment, eat this chaff mixed with straw that you have received. This is a lakkhaṇaṃ, a sign, of long life.
Trong đó, ý nghĩa tóm tắt là: “Này em, đừng mong muốn trở thành con heo Sālūka. Con heo này ăn āturannāni (thức ăn của bệnh nhân), tức là những món ăn dẫn đến cái chết, sau khi ăn chúng, nó sẽ sớm chết. Còn em, hãy appossukko (vô tư), không bám víu, ăn cỏ khô trộn rơm mà mình có được. Đó là lakkhaṇaṃ (dấu hiệu), tức là điềm báo của một cuộc sống lâu dài.
Idāni katipāhasseva so vevāhikapuriso mahatiyā parisāya yutto yuttasevako idha atithi hutvā āgato bhavissati, athetaṃ sālūkaṃ musalasadisena uttaroṭṭhena samannāgatattā musaluttaraṃ māritaṃ sayantaṃ dakkhasīti.
Now, in just a few days, that wedding guest, accompanied by a large retinue, will arrive here as a guest. Then you will see that Sālūka, musaluttaraṃ, killed and lying, endowed with an upper lip like a pestle."
Chẳng mấy ngày nữa, người cầu hôn đó, cùng với đoàn người đông đảo, sẽ đến đây như một vị khách, một người hầu cận chu đáo. Rồi em sẽ thấy con heo Sālūka nằm đó sau khi bị giết, musaluttaraṃ (với cái mõm như chày), vì nó có cái môi trên giống như cái chày.”
2561
Tato katipāhasseva vevāhikesu āgatesu sālūkaṃ māretvā uttaribhaṅgamakaṃsu.
Then, in just a few days, when the wedding guests arrived, they killed the Sālūka and made it the main dish.
Sau đó vài ngày, khi đoàn người cầu hôn đến, họ đã giết heo Sālūka và làm vật hiến tế chính.
Ubho goṇā taṃ tassa vipattiṃ disvā ‘‘amhākaṃ bhusameva vara’’nti cintayiṃsu.
Seeing its demise, both oxen thought, "Our chaff is indeed better."
Cả hai con bò, thấy sự bất hạnh của nó, đã nghĩ: “Cỏ khô của chúng ta tốt hơn.”
Satthā abhisambuddho hutvā tadatthajotikaṃ tatiyaṃ gāthamāha –
The Teacher, having attained full enlightenment, spoke the third verse, which illuminated that meaning:
Đức Bổn Sư, sau khi giác ngộ hoàn toàn, đã nói bài kệ thứ ba để làm sáng tỏ ý nghĩa đó –
2562
108.
108.
108.
2563
‘‘Vikantaṃ sūkaraṃ disvā, sayantaṃ musaluttaraṃ;
"Seeing the slaughtered hog, lying struck by a pestle,
“Thấy con heo bị giết, nằm đó với cái mõm như chày;
2564
Jaraggavā vicintesuṃ, varamhākaṃ bhusāmivā’’ti.
The old oxen reflected, 'Our chaff is indeed better!'"
Những con bò già đã suy nghĩ, cỏ khô của chúng ta tốt hơn.”
2565
Tattha bhusāmivāti bhusameva amhākaṃ varaṃ uttamanti attho.
Herein, bhusāmivā means "our chaff is better, excellent."
Trong đó, bhusāmivā có nghĩa là cỏ khô của chúng ta là tốt nhất, là tuyệt vời nhất.
2566
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne so bhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having delivered this Dhamma discourse, revealed the Truths and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, that bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp này, tuyên bố các chân lý và kết nối câu chuyện Jātaka. Sau khi các chân lý được tuyên bố, vị tỳ khưu đó đã an trú vào quả vị Dự Lưu.
‘‘Tadā kumārikā etarahi thullakumārikā ahosi, sālūko ukkaṇṭhitabhikkhu, cūḷalohito ānando, mahālohito pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the maiden was the plump maiden now; the Sālūka was the discontented bhikkhu; Cūḷalohita was Ānanda; and Mahālohita was none other than myself."
“Khi ấy, thiếu nữ là thiếu nữ mập mạp hiện tại, con heo Sālūka là vị tỳ khưu chán nản, Cūḷalohita là Ānanda, còn Mahālohita chính là Ta.”
2567
Sālūkajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth Chapter, the Sālūka Jātaka.
Chuyện Sālūka Jātaka, thứ sáu.
2568
* 7. Lābhagarahajātakavaṇṇanā
* 7. The Lābhagaraha Jātaka.
* 7. Chuyện Lābhagaraha Jātaka
2569
Nānummattoti idaṃ satthā jetavane viharanto sāriputtattherassa saddhivihārikaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher spoke this, beginning with " Nānummatto" (Not Mad), while dwelling in Jetavana, concerning a co-resident of the Elder Sāriputta.
Nānummatto – câu này, Đức Bổn Sư khi ngự tại Jetavana, đã thuyết giảng nhân việc một đệ tử của Trưởng lão Sāriputta.
Therassa kira saddhivihāriko theraṃ upasaṅkamitvā vanditvā ekamantaṃ nisinno ‘‘lābhuppattipaṭipadaṃ me, bhante, kathetha, kiṃ karonto cīvarādīnaṃ lābhī hotī’’ti pucchi.
It is said that the Elder’s co-resident approached the Elder, paid homage, and sat down to one side, asking, “Venerable sir, please tell me the way to acquire gains. What should one do to acquire robes and so forth?”
Được biết, một đệ tử của Trưởng lão đã đến gần Trưởng lão, đảnh lễ và ngồi xuống một bên, hỏi: “Bạch Đức Trưởng lão, xin hãy kể cho con nghe về con đường đạt được lợi lộc. Làm thế nào để có được y phục và các lợi lộc khác?”
Athassa thero ‘‘āvuso, catūhaṅgehi samannāgatassa lābhasakkāro uppajjati, attano abbhantare hirottappaṃ bhinditvā sāmaññaṃ pahāya anummatteneva ummattena viya bhavitabbaṃ, pisuṇavācā vattabbā, naṭasadisena bhavitabbaṃ, vikiṇṇavācena kutūhalena bhavitabba’’nti imaṃ lābhuppattipaṭipadaṃ kathesi.
Then the Elder told him this method for acquiring gains: “Friend, for one endowed with four factors, gains and honor arise. One should break one’s inner sense of shame and moral dread (hiri-ottappa), abandon one’s recluseship, and become like a madman, though not actually mad. One should speak slanderous words, be like an actor, and be a garrulous busybody.”
Rồi Trưởng lão đã kể cho vị ấy nghe về con đường đạt được lợi lộc này: “Này hiền giả, lợi lộc và sự tôn kính phát sinh cho người có đủ bốn yếu tố: phá bỏ lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi bên trong, từ bỏ đời sống sa-môn, hành xử như một người điên, nói lời đâm thọc, hành xử như một diễn viên, nói lời tán loạn và hiếu kỳ.”
So taṃ paṭipadaṃ garahitvā uṭṭhāya pakkanto.
He criticized that method, got up, and departed.
Vị ấy đã chỉ trích con đường đó, rồi đứng dậy bỏ đi.
Thero satthāraṃ upasaṅkamitvā vanditvā taṃ pavattiṃ ācikkhi.
The Elder approached the Teacher, paid homage, and reported the incident.
Trưởng lão đến gần Đức Bổn Sư, đảnh lễ và kể lại sự việc đó.
Satthā ‘‘neso, sāriputta, bhikkhu idāneva lābhaṃ garahati, pubbepesa garahiyevā’’ti vatvā therena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, “Sāriputta, this bhikkhu is not only now criticizing gains; he criticized them in the past as well,” and being requested by the Elder, he recounted a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Này Sāriputta, vị tỳ khưu này không chỉ bây giờ mới chỉ trích lợi lộc, mà trước đây cũng đã từng chỉ trích,” rồi, được Trưởng lão thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
2570
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto soḷasavassikakāleyeva tiṇṇaṃ vedānaṃ aṭṭhārasannañca sippānaṃ pariyosānaṃ patvā disāpāmokkho ācariyo hutvā pañca māṇavakasatāni sippaṃ vācesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family. When he reached the age of sixteen, he mastered the three Vedas and eighteen crafts, became a world-renowned teacher, and instructed five hundred brahmin students.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Đến tuổi mười sáu, Ngài đã hoàn tất việc học ba bộ Veda và mười tám môn nghệ thuật, trở thành một vị thầy nổi tiếng khắp phương (disāpāmokkho ācariyo), dạy nghệ thuật cho năm trăm học trò.
Tatreko māṇavo sīlācārasampanno ekadivasaṃ ācariyaṃ upasaṅkamitvā ‘‘kathaṃ imesaṃ sattānaṃ lābho uppajjatī’’ti lābhuppattipaṭipadaṃ pucchi.
One of those students, endowed with virtue and good conduct, one day approached his teacher and asked about the method for acquiring gains: “How do these beings acquire gains?”
Trong số đó, có một học trò có giới hạnh và phong cách tốt. Một ngày nọ, vị ấy đến gần thầy và hỏi về con đường đạt được lợi lộc: “Làm thế nào để các chúng sinh này đạt được lợi lộc?”
Ācariyo ‘‘tāta, imesaṃ sattānaṃ catūhi kāraṇehi lābho uppajjatī’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The teacher said, “My dear, these beings acquire gains through four causes,” and then spoke the first verse:
Vị thầy nói: “Này con, các chúng sinh này đạt được lợi lộc nhờ bốn lý do,” rồi Ngài đã nói bài kệ đầu tiên –
2571
109.
109.
109.
2572
‘‘Nānummatto nāpisuṇo, nānaṭo nākutūhalo;
“Not mad, not slanderous, not an actor, not a busybody;
“Không phải người điên, không phải người đâm thọc, không phải diễn viên, không phải người hiếu kỳ;
2573
Mūḷhesu labhate lābhaṃ, esā te anusāsanī’’ti.
Among the foolish, one obtains no gains; this is my instruction to you.”
Người ấy đạt được lợi lộc giữa những kẻ ngu si, đó là lời khuyên của ta cho con.”
2574
Tattha nānummattoti na anummatto.
Here, nānummatto means "not mad."
Trong đó, nānummatto nghĩa là không phải người điên.
Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā ummattako nāma itthipurisadārikadārake disvā tesaṃ vatthālaṅkārādīni vilumpati, tato tato macchamaṃsapūvādīni balakkārena gahetvā khādati, evameva yo gihibhūto ajjhattabahiddhasamuṭṭhānaṃ hirottappaṃ pahāya kusalākusalaṃ agaṇetvā nirayabhayaṃ abhāyanto lobhābhibhūto pariyādiṇṇacitto kāmesu pamatto sandhicchedādīni sāhasikakammāni karoti, pabbajitopi hirottappaṃ pahāya kusalākusalaṃ agaṇetvā nirayabhayaṃ abhāyanto satthārā paññattaṃ sikkhāpadaṃ maddanto lobhena abhibhūto pariyādiṇṇacitto cīvarādimattaṃ nissāya attano sāmaññaṃ vijahitvā pamatto vejjakammadūtakammādīni karoti, veḷudānādīni nissāya jīvikaṃ kappeti, ayaṃ anummattopi ummattasadisattā ummatto nāma, evarūpassa khippaṃ lābho uppajjati.
This is what is meant: just as a madman, seeing men, women, boys, and girls, plunders their clothes and ornaments, and forcibly takes and eats fish, meat, cakes, and so forth from here and there; even so, a householder who abandons inner shame and moral dread (hiri-ottappa), disregards wholesome and unwholesome actions, fears no hell, is overcome by greed, with a mind consumed, heedless in sensual pleasures, commits violent acts such as housebreaking. And a renunciant who abandons shame and moral dread, disregards wholesome and unwholesome actions, fears no hell, transgresses the precepts laid down by the Teacher, is overcome by greed, with a mind consumed, abandons his recluseship for the sake of mere robes and so forth, heedlessly performs medical work, messenger work, and so forth, and earns a living by giving bamboo, and so forth—such a person, though not actually mad, is called mad because he is like a madman. Such a person quickly acquires gains.
Điều này có nghĩa là: Cũng như một người điên, khi thấy phụ nữ, đàn ông, trẻ em trai, trẻ em gái, liền cướp đoạt y phục, trang sức của họ, rồi cướp giật cá, thịt, bánh ngọt và ăn, thì cũng vậy, người tại gia nào phá bỏ lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi phát sinh từ bên trong và bên ngoài, không kể đến thiện ác, không sợ hãi địa ngục, bị lòng tham chi phối, tâm trí bị mê hoặc, phóng dật trong các dục, thực hiện các hành vi bạo lực như phá tường trộm cắp, v.v. Và một vị xuất gia nào phá bỏ lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, không kể đến thiện ác, không sợ hãi địa ngục, vi phạm các giới luật do Đức Bổn Sư chế định, bị lòng tham chi phối, tâm trí bị mê hoặc, từ bỏ đời sống sa-môn chỉ vì y phục, v.v., phóng dật, thực hiện các việc như chữa bệnh, làm sứ giả, v.v., sống bằng cách tặng tre, v.v., người này, dù không điên, nhưng vì giống như người điên, nên được gọi là người điên. Người như vậy nhanh chóng đạt được lợi lộc.
Yo pana evaṃ anummatto lajjī kukkuccako, esa mūḷhesu apaṇḍitesu purisesu lābhaṃ na labhati, tasmā lābhatthikena ummattakena viya bhavitabbanti.
But one who is thus not mad, who is modest and conscientious, does not obtain gains among the foolish, the ignorant. Therefore, one who desires gains should be like a madman.
Còn người nào có lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, không điên như vậy, thì không đạt được lợi lộc giữa những người ngu si, những người không có trí tuệ. Vì vậy, người muốn có lợi lộc phải hành xử như một người điên.
2575
Nāpisuṇoti etthāpi yo pisuṇo hoti, ‘‘asukena idaṃ nāma kata’’nti rājakule pesuññaṃ upasaṃharati, so aññesaṃ yasaṃ acchinditvā attano gaṇhāti.
Regarding nāpisuṇo (not slanderous): one who is slanderous, who reports to the royal court, “So-and-so did such-and-such,” seizes the fame of others for himself.
Nāpisuṇo – ở đây cũng vậy, người nào đâm thọc, mang lời đâm thọc đến triều đình rằng “người kia đã làm điều này,” thì người đó cướp đoạt danh tiếng của người khác để lấy cho mình.
Rājānopi naṃ ‘‘ayaṃ amhesu sasasneho’’ti ucce ṭhāne ṭhapenti, amaccādayopissa ‘‘ayaṃ no rājakule paribhindeyyā’’ti bhayena dātabbaṃ maññanti, evaṃ etarahi pisuṇassa lābho uppajjati.
Kings, thinking, “This one is affectionate towards us,” place him in high positions, and ministers, fearing, “This one might cause division for us in the royal court,” think it proper to give him things. Thus, at present, a slanderous person acquires gains.
Các vị vua cũng đặt người đó vào vị trí cao vì nghĩ rằng “người này có lòng yêu mến chúng ta,” và các vị quan lại, v.v., cũng nghĩ rằng phải ban thưởng cho người đó vì sợ rằng “người này có thể gây chia rẽ chúng ta trong triều đình.” Như vậy, hiện tại, người đâm thọc đạt được lợi lộc.
Yo pana apisuṇo, so mūḷhesu lābhaṃ na labhatīti evamattho veditabbo.
But one who is not slanderous does not obtain gains among the foolish; this is the meaning to be understood.
Người không nói xấu thì không nhận được lợi lộc từ những kẻ ngu muội, ý nghĩa này nên được hiểu như vậy.
2576
Nānaṭoti lābhaṃ uppādentena naṭena viya bhavitabbaṃ.
Nānaṭo means that one who wishes to acquire gains should be like an actor.
Nānaṭo – Người muốn tạo ra lợi lộc phải giống như một diễn viên (naṭa).
Yathā naṭo hirottappaṃ pahāya naccagītavāditehi kīḷaṃ katvā dhanaṃ saṃharati, evameva lābhatthikena hirottappaṃ bhinditvā itthipurisadārikadārakānaṃ soṇḍasahāyena viya nānappakāraṃ keḷiṃ karontena vicaritabbaṃ.
Just as an actor abandons shame and moral dread, performs plays with dancing, singing, and instrumental music, and collects wealth, so too, one who desires gains should break shame and moral dread and behave like a companion to men, women, boys, and girls, engaging in various kinds of amusement.
Như một diễn viên, từ bỏ sự hổ thẹn và ghê tởm tội lỗi, biểu diễn ca múa nhạc cụ để thu thập tiền bạc, cũng vậy, người tìm kiếm lợi lộc phải phá bỏ sự hổ thẹn và ghê tởm tội lỗi, hành xử như một người bạn của những kẻ say sưa, gồm đàn ông, đàn bà, bé gái, bé trai, và thực hiện nhiều loại trò vui khác nhau.
Yo evaṃ anaṭo, so mūḷhesu lābhaṃ na labhati.
One who is thus not an actor does not obtain gains among the foolish.
Người nào không hành xử như diễn viên như vậy thì không nhận được lợi lộc từ những kẻ ngu muội.
2577
Nākutūhaloti kutūhalo nāma vippakiṇṇavāco.
Nākutūhalo means a busybody is one whose speech is scattered.
Nākutūhalo – Kutūhalo có nghĩa là người nói năng lộn xộn.
Rājāno hi amacce pucchanti – ‘‘asukaṭṭhāne kira ‘manusso mārito, gharaṃ viluttaṃ, paresaṃ dārā padhaṃsitā’ti suyyati, kesaṃ nu kho idaṃ kamma’’nti.
Indeed, kings ask their ministers: “It is heard that in such and such a place a person was killed, a house was plundered, and others’ wives were violated. Whose deed is this?”
Các vị vua thường hỏi các vị đại thần: “Nghe nói ở nơi kia có người bị giết, nhà bị cướp, vợ người khác bị hãm hiếp. Việc này là do ai gây ra?”
Tattha sesesu akathentesuyeva yo uṭṭhahitvā ‘‘asuko ca asuko ca nāmā’’ti vadati, ayaṃ kutūhalo nāma.
There, while the others are not speaking, he who stands up and says, “So-and-so and so-and-so by name,” this one is called a busybody.
Trong số đó, khi những người khác chưa nói gì, người nào đứng dậy và nói: “Đó là người này và người kia”, người đó gọi là kutūhalo.
Rājāno tassa vacanena te purise pariyesitvā nisedhetvā ‘‘imaṃ nissāya no nagaraṃ niccoraṃ jāta’’nti tassa mahantaṃ yasaṃ denti, sesāpi janā ‘‘ayaṃ no rājapurisehi puṭṭho suyuttaduyuttaṃ katheyyā’’ti bhayena tasseva dhanaṃ denti, evaṃ kutūhalassa lābho uppajjati.
The kings, by his word, search for those men, restrain them, and thinking, “Our city has become free of thieves because of him,” bestow great honor upon him. Other people, fearing that “if asked by royal officers, this one would speak what is proper and improper,” give wealth to him. Thus, a busybody gains profit.
Các vị vua, nhờ lời nói của người đó, tìm kiếm và ngăn chặn những người kia, rồi nói: “Nhờ người này mà thành phố của chúng ta không còn trộm cướp”, và ban cho người đó vinh dự lớn. Những người khác cũng vì sợ hãi rằng “nếu các quan hỏi, người này sẽ nói đúng sai”, nên cũng dâng tiền cho người đó. Như vậy, lợi lộc phát sinh cho người kutūhalo.
Yo pana akutūhalo, esa na mūḷhesu labhati lābhaṃ.
But he who is not a busybody does not gain profit among fools.
Còn người nào không phải là akutūhalo thì không nhận được lợi lộc từ những kẻ ngu muội.
Esā te anusāsanīti esā amhākaṃ santikā tuyhaṃ lābhānusiṭṭhīti.
Esā te anusāsanī means this is our instruction to you regarding profit.
Esā te anusāsanī – Đây là lời khuyên về lợi lộc từ chúng tôi dành cho ngươi.
2578
Antevāsiko ācariyassa kathaṃ sutvā lābhaṃ garahanto –
The disciple, having heard his teacher’s words, censuring profit, said—
Người học trò, nghe lời thầy, chê bai lợi lộc và nói hai câu kệ:
2579
110.
110.
110.
2580
‘‘Dhiratthu taṃ yasalābhaṃ, dhanalābhañca brāhmaṇa;
“Shame on that fame and profit, and wealth, O brahmin;
“Này Bà-la-môn, đáng ghê tởm thay danh lợi,
2581
Yā vutti vinipātena, adhammacaraṇena vā.
That livelihood which is by ruin or by unrighteous conduct.
Và lợi lộc tiền bạc, nếu sinh kế do sự suy đồi, hoặc do hành động bất thiện.”
2582
111.
111.
111.
2583
‘‘Api ce pattamādāya, anagāro paribbaje;
Even if one takes a bowl and wanders forth as a homeless one;
“Dù có cầm bình bát, sống đời không gia đình;
2584
Esāva jīvikā seyyo, yā cādhammena esanā’’ti– gāthādvayamāha;
That livelihood is better than seeking by unrighteous means”— he spoke these two verses;
Đó là sinh kế tốt hơn, hơn là tìm kiếm bằng phi pháp.”
2585
Tattha yā vuttīti yā jīvitavutti.
There, yā vutti means that livelihood.
Trong đó, yā vutti nghĩa là sinh kế.
Vinipātenāti attano vinipātena.
Vinipātena means by one’s own ruin.
Vinipātena nghĩa là do sự suy đồi của chính mình.
Adhammacaraṇenāti adhammakiriyāya visamakiriyāya vadhabandhanagarahādīhi attānaṃ vinipātetvā adhammaṃ caritvā yā vutti, tañca yasadhanalābhañca sabbaṃ dhiratthu nindāmi garahāmi, na me etenatthoti adhippāyo.
Adhammacaraṇena means by unrighteous action, by improper action, by ruining oneself through killing, binding, reproaching, and so on, and by acting unrighteously, that livelihood and that fame and wealth, all of it, dhiratthu I censure, I condemn, meaning, “I have no need of this.”
Adhammacaraṇenā nghĩa là do hành động bất thiện, hành động sai trái, do tự mình hủy hoại bằng cách giết chóc, trói buộc, khiển trách, v.v., và hành xử bất thiện, thì sinh kế đó, cùng với danh lợi và tiền bạc đó, tất cả đều dhiratthu (đáng ghê tởm), tôi chê bai, tôi không cần chúng. Đó là ý nghĩa.
Pattamādāyāti bhikkhābhājanaṃ gahetvā.
Pattamādāya means taking the alms-bowl.
Pattamādāyā nghĩa là cầm bình bát khất thực.
Anagāro paribbajeti ageho pabbajito hutvā careyya, na ca sappuriso kāyaduccaritādivasena adhammacariyaṃ careyya.
Anagāro paribbaje means one should wander forth as a homeless renunciant, and a good person should not engage in unrighteous conduct such as misconduct in body, etc.
Anagāro paribbaje nghĩa là trở thành người xuất gia không nhà và sống lang thang, nhưng người thiện trí không nên hành xử bất thiện như thân ác hạnh, v.v.
Kiṃkāraṇā?
For what reason?
Vì lý do gì?
Esāva jīvikā seyyo.
Esāva jīvikā seyyo.
Esāva jīvikā seyyo.
Yā cādhammena esanāti, yā esā adhammena jīvikapariyesanā, tato esā pattahatthassa parakulesu bhikkhācariyāva seyyo, sataguṇena sahassaguṇena sundarataroti dasseti.
Yā cādhammena esanā means that seeking of livelihood by unrighteous means; compared to that, this alms-round in others’ homes, with bowl in hand, is better, a hundred times, a thousand times more excellent, he shows.
Yā cādhammena esanā – Sinh kế tìm kiếm bằng phi pháp như thế này, thì việc khất thực trong nhà người khác với bình bát trong tay tốt hơn, đẹp đẽ hơn gấp trăm ngàn lần. Đó là ý nghĩa được chỉ ra.
2586
Evaṃ māṇavo pabbajjāya guṇaṃ vaṇṇetvā nikkhamitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā dhammena bhikkhaṃ pariyesanto abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā brahmalokaparāyaṇo ahosi.
Thus, the young man, having extolled the virtue of renunciation, went forth and embraced the ascetic life, seeking alms righteously. He developed higher knowledges and attainments and became destined for the Brahma world.
Như vậy, chàng thanh niên ca ngợi công đức của sự xuất gia, rồi từ bỏ thế tục, xuất gia làm đạo sĩ, tìm kiếm thức ăn bằng chánh pháp, thành tựu các thắng trí và thiền định, rồi tái sinh vào cõi Phạm thiên.
2587
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā māṇavo lābhagarahī bhikkhu ahosi, ācariyo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: “At that time, the young man who censured profit was the bhikkhu, and the teacher was I myself.”
Đức Bổn Sư, sau khi thuyết pháp này, đã kết nối câu chuyện Jātaka: “Lúc đó, chàng thanh niên chê bai lợi lộc chính là vị Tỳ-kheo này, còn vị thầy chính là Ta vậy.”
2588
Lābhagarahajātakavaṇṇanā sattamā.
The Seventh Chapter on the Jātaka of Censuring Profit.
Chuyện Tiền Thân Lābhagarahī (Chê Bai Lợi Lộc) là thứ bảy.
2589
* 8. Macchuddānajātakavaṇṇanā
* 8. The Eighth Chapter on the Macchuddāna Jātaka
* 8. Chuyện Tiền Thân Macchuddāna (Mớ Cá)
2590
Agghanti macchāti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kūṭavāṇijaṃ ārabbha kathesi.
Agghanti macchā (The fish are valuable)—the Teacher, while residing at Jetavana, told this in reference to a certain fraudulent merchant.
Agghanti macchā – Câu này được Đức Bổn Sư kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một kẻ buôn gian lận. Câu chuyện đã được kể ở phần dưới.
Vatthu heṭṭhā kathitameva.
The story has already been told below.
Câu chuyện đã được kể ở phần dưới.
2591
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kuṭumbikakule nibbattitvā viññutaṃ patto kuṭumbaṃ saṇṭhapesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a wealthy family and, having attained maturity, managed the family affairs.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình trưởng giả, khi trưởng thành, Ngài đã xây dựng gia đình. Em trai của Ngài cũng có mặt, sau đó cha của họ qua đời.
Kaniṭṭhabhātāpissa atthi, tesaṃ aparabhāge pitā kālakato.
He also had a younger brother. Later, their father passed away.
Em trai của Ngài cũng có mặt, sau đó cha của họ qua đời.
Te ekadivasaṃ ‘‘pitu santakaṃ vohāraṃ sādhessāmā’’ti ekaṃ gāmaṃ gantvā kahāpaṇasahassaṃ labhitvā āgacchantā nadītitthe nāvaṃ paṭimānentā puṭabhattaṃ bhuñjiṃsu.
One day, they went to a village to settle their father’s business, obtained a thousand kahāpaṇas, and returning, ate their packed lunch at a river ford while waiting for a boat.
Một ngày nọ, họ nói: “Chúng ta sẽ giải quyết công việc kinh doanh của cha”, rồi đi đến một ngôi làng, thu được một ngàn đồng kahāpaṇa và trở về. Khi đợi thuyền ở bến sông, họ ăn cơm nắm.
Bodhisatto atirekabhattaṃ gaṅgāya macchānaṃ datvā nadīdevatāya pattiṃ adāsi.
The Bodhisatta gave the extra food to the fish in the Gaṅgā and transferred merit to the river deity.
Bồ-tát đã cho cá trên sông Gaṅgā phần cơm thừa và hồi hướng phước báu cho vị thần sông.
Devatā pattiṃ anumoditvāyeva dibbena yasena vaḍḍhitvā attano yasavuḍḍhiṃ āvajjamānā taṃ kāraṇaṃ aññāsi.
The deity, having rejoiced in the merit, increased in divine glory, and reflecting on her increase in glory, she understood the reason.
Vị thần sông, sau khi hoan hỷ với sự hồi hướng phước báu, đã tăng trưởng oai lực thần thánh và khi quán xét sự tăng trưởng oai lực của mình, đã biết được nguyên nhân đó.
Bodhisattopi vālikāyaṃ uttarāsaṅgaṃ pattharitvā nipanno niddaṃ okkami, kaniṭṭhabhātā panassa thokaṃ corapakatiko.
The Bodhisatta also spread his outer robe on the sand and lay down to sleep. His younger brother, however, had a somewhat thievish nature.
Bồ-tát cũng trải tấm y tăng-già-lê trên cát và nằm ngủ. Còn em trai của Ngài thì có chút bản tính trộm cắp.
So te kahāpaṇe bodhisattassa adatvā sayameva gaṇhitukāmatāya kahāpaṇabhaṇḍikasadisaṃ ekaṃ sakkharabhaṇḍikaṃ katvā dvepi bhaṇḍikā ekatova ṭhapesi.
He, desiring to take the kahāpaṇas for himself without giving them to the Bodhisatta, made a packet of gravel resembling the packet of kahāpaṇas and placed both packets together.
Vì muốn giữ lấy một ngàn đồng kahāpaṇa cho riêng mình mà không đưa cho Bồ-tát, người em đã làm một gói đường phèn giống như gói kahāpaṇa, rồi đặt cả hai gói cùng một chỗ.
Tesaṃ nāvaṃ abhiruhitvā gaṅgāmajjhagatānaṃ kaniṭṭho nāvaṃ khobhetvā ‘‘sakkharabhaṇḍikaṃ udake khipissāmī’’ti sahassabhaṇḍikaṃ khipitvā ‘‘bhātika, sahassabhaṇḍikā udake patitā, kinti karomā’’ti āha.
Having boarded the boat, while they were in the middle of the Ganges, the younger brother shook the boat, and thinking, "I will throw the bag of pebbles into the water," he threw the bag worth a thousand into the water and said, "Brother, the bag worth a thousand has fallen into the water, what shall we do?"
Khi họ lên thuyền và đang ở giữa sông Gaṅgā, người em đã làm rung thuyền và nói: “Tôi sẽ ném gói đường phèn xuống nước”, rồi ném gói một ngàn đồng kahāpaṇa xuống nước và nói: “Anh ơi, gói một ngàn đồng đã rơi xuống nước rồi, chúng ta phải làm sao đây?”
‘‘Udake patitāya kiṃ karissāma, mā cintayī’’ti.
"What can we do about that which has fallen into the water? Do not worry."
“Đã rơi xuống nước rồi thì làm sao được, đừng lo lắng.”
Nadīdevatā cintesi – ‘‘ahaṃ iminā dinnapattiṃ anumoditvā dibbayasena vaḍḍhitvā etassa santakaṃ rakkhissāmī’’ti attano ānubhāvena taṃ bhaṇḍikaṃ ekaṃ mahāmacchaṃ gilāpetvā sayaṃ ārakkhaṃ gaṇhi.
The river deity thought, "Having rejoiced in the share of merit given by him, and having increased in divine power, I will protect his property." By her own power, she made a large fish swallow that bag and she herself took guard.
Vị thần sông nghĩ: “Ta đã hoan hỷ với sự hồi hướng phước báu do người này ban cho và đã tăng trưởng oai lực thần thánh, vậy ta sẽ bảo vệ tài sản của người này.” Với oai lực của mình, vị thần đã khiến một con cá lớn nuốt gói tiền đó và tự mình canh giữ.
Sopi coro gehaṃ gantvā ‘‘bhātā me vañcito’’ti bhaṇḍikaṃ mocento sakkharā passitvā hadayena sussantena mañcassa aṭaniṃ upagūhitvā nipajji.
That rogue, having gone home, and thinking, "My brother has been deceived," when he opened the bag and saw pebbles, with a parched heart, he embraced the leg of the bed and lay down.
Tên trộm đó về nhà, nghĩ: “Ta đã lừa được anh mình”, nhưng khi mở gói tiền ra, thấy toàn đường phèn, hắn ta nằm ôm chân giường với trái tim khô héo.
2592
Tadā kevaṭṭā macchagahaṇatthāya jālaṃ khipiṃsu.
At that time, the fishermen cast their net to catch fish.
Lúc đó, những người đánh cá đã thả lưới để bắt cá.
So maccho devatānubhāvena jālaṃ pāvisi.
That fish, by the deity's power, entered the net.
Con cá đó, nhờ oai lực của vị thần, đã lọt vào lưới.
Kevaṭṭā taṃ gahetvā vikkiṇituṃ nagaraṃ paviṭṭhā.
The fishermen took it and entered the city to sell it.
Những người đánh cá bắt được nó và mang vào thành phố để bán.
Manussā mahāmacchaṃ disvā mūlaṃ pucchanti.
People, seeing the large fish, asked for its price.
Mọi người thấy con cá lớn thì hỏi giá.
Kevaṭṭā ‘‘kahāpaṇasahassañca satta ca māsake datvā gaṇhathā’’ti vadanti.
The fishermen said, "Give a thousand kahāpaṇas and seven māsa-coins and take it."
Những người đánh cá nói: “Hãy mua nó với giá một ngàn đồng kahāpaṇa và bảy đồng māsaka.”
Manussā ‘‘sahassagghanakamacchopi no diṭṭho’’ti parihāsaṃ karonti.
People joked, "We have never seen a fish worth a thousand."
Mọi người cười nhạo: “Chúng tôi chưa từng thấy con cá nào trị giá một ngàn đồng.”
Kevaṭṭā macchaṃ gahetvā bodhisattassa gharadvāraṃ gantvā ‘‘imaṃ macchaṃ gaṇhathā’’ti āhaṃsu.
The fishermen took the fish and went to the Bodhisatta's house door and said, "Take this fish."
Những người đánh cá mang con cá đến cửa nhà Bồ-tát và nói: “Xin hãy mua con cá này.”
‘‘Kimassa mūla’’nti?
"What is its price?"
“Giá của nó là bao nhiêu?”
‘‘Satta māsake datvā gaṇhathā’’ti.
"Give seven māsa-coins and take it."
“Hãy mua nó với giá bảy đồng māsaka.”
‘‘Aññesaṃ dadamānā kathaṃ dethā’’ti?
"How do you give it when you give it to others?"
“Các người bán cho người khác thế nào mà lại bán cho chúng tôi như vậy?”
‘‘Aññesaṃ sahassena ca sattahi ca māsakehi dema, tumhe pana satta māsake datvā gaṇhathā’’ti.
"To others, we give it for a thousand and seven māsa-coins, but to you, since it is ours, take it for just seven māsa-coins."
“Chúng tôi bán cho người khác với giá một ngàn và bảy đồng māsaka, nhưng đối với các ông, vì nó là tài sản của các ông, nên chúng tôi chỉ lấy bảy đồng māsaka.”
So tesaṃ satta māsake datvā macchaṃ bhariyāya pesesi.
He gave them seven māsa-coins and sent the fish to his wife.
Ngài đã đưa cho họ bảy đồng māsaka và sai vợ mang cá về.
Sā macchassa kucchiṃ phālayamānā sahassabhaṇḍikaṃ disvā bodhisattassa ārocesi.
She, while cutting open the fish's belly, saw the bag worth a thousand and informed the Bodhisatta.
Khi mổ bụng cá, bà ta thấy gói một ngàn đồng và báo cho Bồ-tát biết.
Bodhisatto taṃ oloketvā attano lañchaṃ disvā sakasantakabhāvaṃ ñatvā ‘‘idāni ime kevaṭṭā imaṃ macchaṃ aññesaṃ dadamānā sahassena ceva sattahi ca māsakehi denti, amhe pana patvā sahassassa amhākaṃ santakattā satteva māsake gahetvā adaṃsu, idaṃ antaraṃ ajānantaṃ na sakkā kañci saddahāpetu’’nti cintetvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta looked at it, saw his mark, and knowing it was his own, he thought, "Now, these fishermen, when giving this fish to others, give it for a thousand and seven māsa-coins, but when it came to us, they took only seven māsa-coins because it was ours. It is not possible to make anyone believe this difference without knowing it." Having thought thus, he spoke the first verse:
Bồ-tát nhìn thấy nó, nhận ra dấu hiệu của mình và biết đó là tài sản của mình, rồi nghĩ: “Bây giờ, những người đánh cá này, khi bán con cá này cho người khác thì đòi một ngàn và bảy đồng māsaka, nhưng khi gặp chúng ta thì chỉ lấy bảy đồng māsaka vì nó là tài sản của chúng ta. Không thể làm cho ai tin được sự khác biệt này nếu họ không tự mình biết.” Nghĩ vậy, Ngài đã nói câu kệ đầu tiên:
2593
112.
112.
112.
2594
‘‘Agghanti macchā adhikaṃ sahassaṃ, na so atthi yo imaṃ saddaheyya;
"The fish are worth more than a thousand, but there is no one who would believe this;
“Những con cá này đáng giá hơn một ngàn, nhưng không ai tin điều này;
2595
Mayhañca assu idha satta māsā, ahampi taṃ macchuddānaṃ kiṇeyya’’nti.
And for me, here, it was seven māsa-coins, and I would buy that catch of fish."
Và tôi có bảy đồng māsaka ở đây, tôi cũng sẽ mua mớ cá đó.”
2596
Tattha adhikanti aññehi pucchitā kevaṭṭā ‘‘sattamāsādhikaṃ sahassaṃ agghantī’’ti vadanti.
Therein, adhikaṃ (more): When asked by others, the fishermen say, "They are worth a thousand and seven māsa-coins."
Trong đó, adhikaṃ nghĩa là khi những người đánh cá được hỏi bởi người khác, họ nói: “Giá trị hơn một ngàn và bảy đồng māsaka.”
Na so atthi yo imaṃ saddaheyyāti so puriso na atthi, yo imaṃ kāraṇaṃ paccakkhato ajānanto mama vacanena saddaheyya, ettakaṃ vā macchā agghantīti yo imaṃ saddaheyya, so natthi, tasmāyeva te aññehi na gahitātipi attho.
Na so atthi yo imaṃ saddaheyya (there is no one who would believe this): There is no such person who, not knowing this matter directly, would believe my words, or who would believe that fish are worth so much; therefore, they were not taken by others, this is also the meaning.
Na so atthi yo imaṃ saddaheyyā nghĩa là không có người nào mà không biết rõ sự việc này lại tin lời tôi nói, hoặc không có ai tin rằng những con cá này đáng giá như vậy, do đó chúng không được người khác mua. Đó cũng là ý nghĩa.
Mayhañca assūti mayhaṃ pana satta māsakā ahesuṃ.
Mayhañca assu (and for me): But for me, it was seven māsa-coins.
Mayhañca assū nghĩa là tôi có bảy đồng māsaka.
Macchuddānanti macchavaggaṃ.
Macchuddānaṃ (catch of fish): A group of fish.
Macchuddāna nghĩa là mớ cá.
Tena hi macchena saddhiṃ aññepi macchā ekato baddhā taṃ sakalampi macchuddānaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
Indeed, other fish were tied together with that fish, and this was said referring to that entire group of fish.
Với con cá đó, những con cá khác cũng được buộc chung, nên câu này nói về toàn bộ mớ cá đó.
Kiṇeyyanti kiṇiṃ, satteva māsake datvā ettakaṃ macchavaggaṃ gaṇhinti attho.
Kiṇeyya (would buy): I bought; meaning, I took such a group of fish by giving just seven māsa-coins.
Kiṇeyya nghĩa là tôi đã mua, ý là tôi đã mua toàn bộ mớ cá đó chỉ với bảy đồng māsaka.
2597
Evañca pana vatvā idaṃ cintesi – ‘‘kiṃ nu kho nissāya mayā ete kahāpaṇā laddhā’’ti?
Having said this, he then thought, "What indeed was the cause by which I obtained these kahāpaṇas?"
Nói như vậy, Ngài suy nghĩ: “Nhờ điều gì mà ta đã có được những đồng kahāpaṇa này?”
Tasmiṃ khaṇe nadīdevatā ākāse dissamānarūpena ṭhatvā ‘‘ahaṃ, gaṅgādevatā, tayā macchānaṃ atirekabhattaṃ datvā mayhaṃ patti dinnā, tenāhaṃ tava santakaṃ rakkhantī āgatā’’ti dīpayamānā gāthamāha –
At that moment, the river deity, appearing in the sky, said, "I am the Ganges deity; you gave an extra meal to the fish and shared merit with me. Therefore, I have come protecting your property," thus revealing, she spoke the verse:
Vào lúc đó, vị thần sông hiện hình trên không trung và nói: “Ta là thần sông Gaṅgā. Ngươi đã cho cá phần cơm thừa và hồi hướng phước báu cho ta, vì vậy ta đã đến để bảo vệ tài sản của ngươi”, rồi nói câu kệ:
2598
113.
113.
113.
2599
‘‘Macchānaṃ bhojanaṃ datvā, mama dakkhiṇamādisi;
"Having given food to the fish, you dedicated merit to me;
“Ngươi đã cúng dường thức ăn cho cá, và hồi hướng phước báu cho ta;
2600
Taṃ dakkhiṇaṃ sarantiyā, kataṃ apacitiṃ tayā’’ti.
Remembering that merit, this reverence has been performed by you."
Ta ghi nhớ sự hồi hướng đó, và đã làm điều trả ơn cho ngươi.”
2601
Tattha dakkhiṇanti imasmiṃ ṭhāne pattidānaṃ dakkhiṇā nāma.
Therein, dakkhiṇaṃ (merit): In this context, the sharing of merit is called dakkhiṇā.
Trong đó, dakkhiṇaṃ ở đây có nghĩa là sự hồi hướng phước báu.
Sarantiyā kataṃ apacitiṃ tayāti taṃ tayā mayhaṃ kataṃ apacitiṃ sarantiyā mayā idaṃ tava dhanaṃ rakkhitanti attho.
Sarantiyā kataṃ apacitiṃ tayā (remembering that reverence performed by you): Meaning, remembering that reverence performed by you for me, I have protected this wealth of yours.
"Sarantiyā kataṃ apacitiṃ tayā" nghĩa là, "ta đã bảo vệ tài sản này của ngươi, vì ta nhớ đến sự tôn kính mà ngươi đã dành cho ta."
2602
Idaṃ vatvā ca pana sā devatā tassa kaniṭṭhena katakūṭakammaṃ sabbaṃ kathetvā ‘‘eso idāni hadayena sussantena nipanno, duṭṭhacittassa vuḍḍhi nāma natthi, ahaṃ pana ‘tava santakaṃ mā nassī’ti dhanaṃ te āharitvā adāsiṃ, idaṃ kaniṭṭhacorassa adatvā sabbaṃ tvaññeva gaṇhā’’ti vatvā tatiyaṃ gāthamāha –
Having said this, that deity, after relating all the deceitful acts committed by his younger brother, said, "He is now lying there with a parched heart; there is no prosperity for one with an evil mind. But I, thinking 'May your property not be lost,' brought the wealth to you and gave it to you. Do not give any of this to the younger thief; you yourself take it all." Having said this, she spoke the third verse—
Sau khi nói điều này, vị thiên nữ kể lại tất cả hành vi lừa đảo do người em gây ra và nói: “Bây giờ hắn đang nằm đó với trái tim khô héo, kẻ có tâm ác không thể nào thịnh vượng được. Còn ta, vì muốn tài sản của ngươi không bị mất, nên đã mang đến và trao cho ngươi. Ngươi hãy giữ lấy tất cả, đừng trao cho tên trộm em trai này.” Nói xong, vị thiên nữ đọc bài kệ thứ ba –
2603
114.
114.
114.
2604
‘‘Paduṭṭhacittassa na phāti hoti, na cāpi taṃ devatā pūjayanti;
‘‘For one with a corrupted mind, there is no prosperity, nor do deities honor him;
“Kẻ có tâm ác không thịnh vượng, chư thiên cũng không tôn kính kẻ ấy;
2605
Yo bhātaraṃ pettikaṃ sāpateyyaṃ, avañcayī dukkaṭakammakārī’’ti.
Who cheated his brother of his ancestral inheritance, one who commits evil deeds.’’
Kẻ nào lừa dối anh em về tài sản thừa kế của cha, kẻ ấy là người làm ác.”
2606
Tattha na phāti hotīti evarūpassa puggalassa idhaloke vā paraloke vā vuḍḍhi nāma na hoti.
Therein, na phāti hotīti means that for such a person, there is no prosperity, neither in this world nor in the next.
Trong đó, na phāti hoti nghĩa là, người như vậy không có sự thịnh vượng ở đời này hay đời sau.
Na cāpi tanti taṃ puggalaṃ tassa santakaṃ rakkhamānā devatā na pūjayanti.
Na cāpi tanti means that the deities who protect his property do not honor that person.
Na cāpi taṃ nghĩa là, chư thiên bảo vệ tài sản của người ấy cũng không tôn kính người ấy.
2607
Iti devatā mittadubbhicorassa kahāpaṇe adātukāmā evamāha.
Thus, the deity, not wishing to give the kahāpaṇas to the treacherous thief, spoke in this manner.
Vì vậy, vị thiên nữ không muốn trao những đồng tiền vàng cho tên trộm phản bội bạn bè nên đã nói như vậy.
Bodhisatto pana ‘‘na sakkā evaṃ kātu’’nti tassapi pañca kahāpaṇasatāni pesesiyeva.
However, the Bodhisatta, thinking, "It is not possible to do so," sent five hundred kahāpaṇas to him as well.
Tuy nhiên, Bồ Tát nghĩ rằng “không thể làm như vậy được” và vẫn gửi cho hắn năm trăm đồng tiền vàng.
2608
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne vāṇijo sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, proclaimed the Truths, and identified the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the merchant was established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp này, công bố các Chân Lý, và kết nối bổn sanh. Sau khi các Chân Lý được công bố, người lái buôn đã chứng đắc quả Dự Lưu.
‘‘Tadā kaniṭṭhabhātā idāni kūṭavāṇijo, jeṭṭhabhātā pana ahameva ahosi’’nti.
‘‘At that time, the younger brother was the deceitful merchant of today; but the elder brother was I myself.’’
“Khi ấy, người em trai chính là người lái buôn gian xảo hiện nay, còn người anh trai chính là ta vậy.”
2609
Macchuddānajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The eighth, the Description of the Macchuddāna Jātaka.
Giải thích về Bổn Sanh Macchuddāna, thứ tám.
2610
* 9. Nānāchandajātakavaṇṇanā
* 9. The Description of the Nānāchanda Jātaka
* 9. Giải thích về Bổn Sanh Nānāchanda
2611
Nānāchandā, mahārājāti idaṃ satthā jetavane viharanto āyasmato ānandassa aṭṭhavaralābhaṃ ārabbha kathesi.
Nānāchandā, mahārājā—this the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning the Venerable Ānanda's acquisition of the eight boons.
“Nānāchandā, mahārājā” – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi ngài ngự tại Jetavana, liên quan đến tám điều ước mà Tôn giả Ānanda đã đạt được.
Vatthu ekādasakanipāte juṇhajātake (jā. 1.11.13 ādayo) āvibhavissati.
The story will become evident in the eleventh Nipāta, in the Juṇha Jātaka.
Câu chuyện này sẽ được trình bày chi tiết trong Bổn Sanh Juṇha (Jā. 1.11.13 và các câu tiếp theo) ở tập mười một.
2612
Atīte pana bodhisatto bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente tassa aggamahesiyā kucchimhi nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sabbasippāni uggahetvā pitu accayena rajjaṃ pāpuṇi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in the womb of his chief queen. Having come of age, he learned all crafts in Takkasilā, and upon his father's demise, he attained kingship.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sanh vào trong bụng của vị hoàng hậu tối thượng của ngài. Khi trưởng thành, ngài đã học tất cả các nghề thủ công ở Takkasilā và sau khi phụ vương băng hà, ngài đã lên ngôi vua.
Tassa ṭhānato apanīto pitu purohito atthi.
There was a former royal chaplain of his father who had been removed from his position.
Có một vị quan tế tự của phụ vương ngài đã bị cách chức.
So duggato hutvā ekasmiṃ jaragehe vasati.
He, being poor, lived in an old house.
Ông ấy sống trong một ngôi nhà cũ nát, rất nghèo khổ.
Athekadivasaṃ bodhisatto aññātakavesena rattibhāge nagaraṃ pariggaṇhanto vicarati.
Then one day, the Bodhisatta, in disguise, wandered through the city at night.
Một ngày nọ, Bồ Tát, trong trang phục thường dân, đi tuần thành vào ban đêm.
Tamenaṃ katakammacorā ekasmiṃ surāpāne suraṃ pivitvā aparampi ghaṭenādāya attano gehaṃ gacchantā antaravīthiyaṃ disvā ‘‘are kosi tva’’nti vatvā paharitvā uttarisāṭakaṃ gahetvā ghaṭaṃ ukkhipāpetvā tāsentā gacchiṃsu.
Thieves who had committed a crime, after drinking liquor at a liquor shop and carrying another pot of liquor, saw him in an alley while going to their house, and saying, "Hey, who are you?" they struck him, took his outer garment, made him lift the pot, and went away threatening him.
Những tên trộm đã phạm tội, sau khi uống rượu ở một quán rượu và mang thêm một bình rượu về nhà, đã nhìn thấy ngài trên một con đường vắng. Chúng nói: “Này, ngươi là ai?” rồi đánh ngài, lấy áo choàng ngoài, bắt ngài xách bình rượu, và đe dọa rồi bỏ đi.
Sopi kho brāhmaṇo tasmiṃ khaṇe nikkhamitvā antaravīthiyaṃ ṭhito nakkhattaṃ olokento rañño amittānaṃ hatthagatabhāvaṃ ñatvā brāhmaṇiṃ āmantesi.
That brahmin, too, at that moment, came out and stood in the alley, observing the stars. Realizing that the king was in the hands of his enemies, he called his brahmin wife.
Vị Bà la môn ấy, đúng lúc đó, bước ra đường vắng, nhìn các vì sao, biết rằng nhà vua đã rơi vào tay kẻ thù, liền gọi vợ mình.
Sā ‘‘kiṃ, ayyā’’ti vatvā vegena tassa santikaṃ āgatā.
She, saying, "What is it, master?" quickly came to him.
Bà ấy nói: “Gì vậy, thưa ngài?” và nhanh chóng đến bên ông.
Atha naṃ so āha – ‘‘bhoti amhākaṃ rājā amittānaṃ vasaṃ gato’’ti.
Then he said to her, "Lady, our king has fallen into the power of enemies."
Rồi ông nói với bà: “Này phu nhân, đức vua của chúng ta đã rơi vào tay kẻ thù.”
‘‘Ayya, kiṃ te rañño santike pavattiyā, brāhmaṇā jānissantī’’ti.
"Master, what concern is the king's affair to you? The brahmins will know."
“Thưa ngài, chuyện của đức vua thì liên quan gì đến ngài? Các Bà la môn sẽ biết thôi.”
2613
Rājā brāhmaṇassa saddaṃ sutvā thokaṃ gantvā dhutte āha – ‘‘duggatomhi, sāmi, uttarāsaṅgaṃ gahetvā vissajjetha ma’’nti.
The king, having heard the brahmin's voice, went a little further and said to the rogues, "Masters, I am poor; release me after taking my outer garment."
Đức vua nghe tiếng Bà la môn, đi một đoạn ngắn rồi nói với bọn côn đồ: “Thưa các ngài, tôi là người nghèo khổ, xin hãy trả lại chiếc áo choàng ngoài và thả tôi đi.”
Te punappunaṃ kathentaṃ kāruññena vissajjesuṃ.
They, out of compassion, released him as he repeatedly pleaded.
Chúng thấy ngài nói đi nói lại nhiều lần, vì lòng thương xót mà thả ngài đi.
So tesaṃ vasanagehaṃ sallakkhetvā nivatti.
He noted their dwelling place and returned.
Ngài ghi nhớ ngôi nhà của chúng và quay trở lại.
Atha porāṇakapurohito brāhmaṇopi ‘‘bhoti, amhākaṃ rājā amittahatthato mutto’’ti āha.
Then the former royal chaplain, the brahmin, also said, "Lady, our king has been freed from the hands of enemies."
Sau đó, vị Bà la môn tế tự cũ cũng nói: “Này phu nhân, đức vua của chúng ta đã thoát khỏi tay kẻ thù.”
Rājā tampi sutvā tampi gehaṃ sallakkhetvā pāsādaṃ abhiruhi.
The king, having heard this too, noted that house as well and ascended to the palace.
Đức vua cũng nghe thấy điều đó, cũng ghi nhớ ngôi nhà ấy và lên cung điện.
So vibhātāya rattiyā brāhmaṇe pakkosāpetvā ‘‘kiṃ ācariyā rattiṃ nakkhattaṃ olokayitthā’’ti pucchi.
When night dawned, he summoned the brahmins and asked, "Teachers, did you observe the stars last night?"
Khi đêm đã tàn, ngài cho gọi các Bà la môn đến và hỏi: “Thưa các đạo sư, đêm qua các ngài có xem sao không?”
‘‘Āma, devā’’ti.
"Yes, Your Majesty."
“Thưa bệ hạ, có ạ.”
‘‘Kiṃ sobhana’’nti?
"Is it auspicious?"
“Có tốt không?”
‘‘Sobhanaṃ, devā’’ti.
"Auspicious, Your Majesty."
“Thưa bệ hạ, tốt ạ.”
‘‘Koci gāho natthī’’ti.
"Is there any misfortune?"
“Có điều gì bất lợi không?”
‘‘Natthi, devā’’ti.
"No, Your Majesty."
“Thưa bệ hạ, không ạ.”
Rājā ‘‘asukagehato brāhmaṇaṃ pakkosathā’’ti porāṇakapurohitaṃ pakkosāpetvā ‘‘kiṃ, ācariya, rattiṃ te nakkhattaṃ diṭṭha’’nti pucchi.
The king said, "Summon the brahmin from that house," and having summoned the former royal chaplain, he asked, "Teacher, did you see the stars last night?"
Đức vua nói: “Hãy gọi vị Bà la môn từ ngôi nhà kia đến!” rồi cho gọi vị Bà la môn tế tự cũ đến và hỏi: “Thưa đạo sư, đêm qua ngài có xem sao không?”
‘‘Āma, devā’’ti.
"Yes, Your Majesty."
“Thưa bệ hạ, có ạ.”
‘‘Atthi koci gāho’’ti.
"Was there any misfortune?"
“Có điều gì bất lợi không?”
‘‘Āma, mahārāja, ajja rattiṃ tumhe amittavasaṃ gantvā muhutteneva muttā’’ti.
"Yes, Your Majesty, tonight you fell into the power of enemies and were freed in a moment."
“Thưa Đại vương, đêm nay bệ hạ đã rơi vào tay kẻ thù và đã thoát ra trong chốc lát.”
Rājā ‘‘nakkhattajānanakena nāma evarūpena bhavitabba’’nti sesabrāhmaṇe nikkaḍḍhāpetvā ‘‘brāhmaṇa, pasannosmi te, varaṃ tvaṃ gaṇhā’’ti āha.
The king, thinking, "One who knows the stars should be like this," dismissed the other brahmins and said, "Brahmin, I am pleased with you; you may choose a boon."
Đức vua nói: “Người biết sao phải là người như vậy!” rồi đuổi các Bà la môn khác đi và nói: “Này Bà la môn, ta rất hài lòng với ngươi, ngươi hãy nhận lấy một điều ước.”
‘‘Mahārāja, puttadārena saddhiṃ mantetvā gaṇhissāmī’’ti.
“Great King, I will consult with my wife and children and then accept it.”
“Thưa Đại vương, thần sẽ bàn bạc với vợ con rồi sẽ nhận.”
‘‘Gaccha mantetvā ehī’’ti.
“Go, consult, and then come back,” he said.
“Hãy đi bàn bạc rồi trở lại đây.”
2614
So gantvā brāhmaṇiñca puttañca suṇisañca dāsiñca pakkositvā ‘‘rājā me varaṃ dadāti, kiṃ gaṇhāmā’’ti pucchi.
So he went, called his brahmin wife, son, daughter-in-law, and female slave, and asked, “The king grants me a boon; what should we accept?”
Ông ta đi đến, gọi vợ, con trai, con dâu và người hầu gái đến, rồi hỏi: “Đức vua ban cho ta một điều ước, chúng ta nên nhận gì?”
Brāhmaṇī ‘‘mayhaṃ dhenusataṃ ānehī’’ti āha, putto chattamāṇavo nāma ‘‘mayhaṃ kumudavaṇṇehi catūhi sindhavehi yuttaṃ ājaññaratha’’nti, suṇisā ‘‘mayhaṃ maṇikuṇḍalaṃ ādiṃ katvā sabbālaṅkāra’’nti, puṇṇā nāma dāsī ‘‘mayhaṃ udukkhalamusalañceva suppañcā’’ti.
The brahmin wife said, “Bring me a hundred cows.” The son, named Chattamāṇava, said, “A noble chariot yoked with four Kumuda-colored Sindhu horses for me.” The daughter-in-law said, “All ornaments, beginning with a jeweled earring, for me.” The female slave named Puṇṇā said, “A mortar, a pestle, and a winnowing basket for me.”
Bà Bà la môn nói: “Hãy mang về cho tôi một trăm con bò cái.” Con trai tên là Chattamāṇava nói: “Hãy mang về cho tôi một cỗ xe chiến mã được kéo bởi bốn con ngựa Sindhava màu hoa súng.” Con dâu nói: “Hãy mang về cho tôi tất cả các món trang sức, bắt đầu từ đôi bông tai ngọc.” Người hầu gái tên Puṇṇā nói: “Hãy mang về cho tôi cái cối, cái chày và cái sàng.”
Brāhmaṇo pana gāmavaraṃ gahetukāmo rañño santikaṃ gantvā ‘‘kiṃ, brāhmaṇa, pucchito te puttadāro’’ti puṭṭho ‘‘āma, deva, pucchito, anekacchando’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthādvayamāha –
The brahmin, wishing to obtain a chief village, went to the king. When asked, “Brahmin, have your wife and children been consulted?” he replied, “Yes, Your Majesty, they have been consulted, and they have many different desires,” and then recited the first two verses:
Còn vị Bà la môn thì muốn nhận một làng tốt nhất, nên đến gặp đức vua và khi được hỏi: “Này Bà la môn, ngươi đã hỏi ý kiến vợ con chưa?” Ông đáp: “Thưa bệ hạ, đã hỏi rồi, mỗi người một ý muốn khác nhau,” rồi đọc hai bài kệ đầu tiên –
2615
115.
115.
115.
2616
‘‘Nānāchandā mahārāja, ekāgāre vasāmase;
“Great King, we dwell in one house, but our desires are varied;
“Đại vương, chúng tôi sống trong một nhà, nhưng mỗi người một ý muốn khác nhau;
2617
Ahaṃ gāmavaraṃ icche, brāhmaṇī ca gavaṃ sataṃ.
I desire a chief village, and the brahmin wife a hundred cows.
Tôi muốn một làng tốt nhất, Bà la môn nữ thì muốn một trăm con bò.
2618
116.
116.
116.
2619
‘‘Putto ca ājaññarathaṃ, kaññā ca maṇikuṇḍalaṃ;
The son desires a noble chariot, and the maiden a jeweled earring;
Con trai muốn một cỗ xe chiến mã, con dâu muốn đôi bông tai ngọc;
2620
Yā cesā puṇṇikā jammī, udukkhalaṃbhikaṅkhatī’’ti.
And this lowly Puṇṇikā craves a mortar.”
Và người hầu gái hèn hạ tên Puṇṇikā kia, thì lại ước ao cái cối và chày.”
2621
Tattha iccheti icchāmi.
Here, icche means ‘I desire’.
Trong đó, icche nghĩa là “tôi muốn.”
Gavaṃ satanti dhenūnaṃ gunnaṃ sataṃ.
Gavaṃ sataṃ means ‘a hundred cows, a hundred female cattle’.
Gavaṃ sataṃ nghĩa là một trăm con bò cái.
Kaññāti suṇisā.
Kaññā means ‘daughter-in-law’.
Kaññā nghĩa là con dâu.
Yā cesāti yā esā amhākaṃ ghare puṇṇikā nāma dāsī, sā jammī lāmikā suppamusalehi saddhiṃ udukkhalaṃ abhikaṅkhati icchatīti.
Yā cesā means ‘this female slave named Puṇṇikā in our house, that lowly one, craves and desires a mortar together with a winnowing basket and a pestle’.
Yā cesā nghĩa là, người hầu gái tên Puṇṇikā trong nhà chúng tôi, cô ta là người hèn hạ, ước ao cái cối cùng với cái sàng và cái chày.
2622
Rājā ‘‘sabbesaṃ icchiticchitaṃ dethā’’ti āṇāpento –
The king, ordering, “Give everyone what they desire,”
Đức vua ra lệnh: “Hãy ban cho mỗi người điều họ mong muốn!” và đọc bài kệ –
2623
117.
117.
117.
2624
‘‘Brāhmaṇassa gāmavaraṃ, brāhmaṇiyā gavaṃ sataṃ;
recited the verse: “To the brahmin a chief village, to the brahmin wife a hundred cows;
“Hãy ban cho Bà la môn một làng tốt nhất, cho Bà la môn nữ một trăm con bò;
2625
Puttassa ājaññarathaṃ, kaññāya maṇikuṇḍalaṃ;
To the son a noble chariot, to the maiden a jeweled earring;
Cho con trai một cỗ xe chiến mã, cho con dâu đôi bông tai ngọc;
2626
Yañcetaṃ puṇṇikaṃ jammiṃ, paṭipādethudukkhala’’nti– gāthamāha;
And to that lowly Puṇṇikā, provide a mortar.”
Và cho người hầu gái hèn hạ tên Puṇṇikā kia, cái cối và chày.”
2627
Tattha yañcetanti yañca etaṃ puṇṇikanti vadati, taṃ jammiṃ udukkhalaṃ paṭipādetha sampaṭicchāpethāti.
Here, yañcetaṃ means ‘what is spoken of as this Puṇṇikā, provide or grant her that lowly mortar’.
Trong đó, yañcetaṃ nghĩa là, cái mà nó nói là Puṇṇikā, hãy ban cho người hèn hạ ấy cái cối và chày.
2628
Iti rājā brāhmaṇena patthitañca aññañca mahantaṃ yasaṃ datvā ‘‘ito paṭṭhāya amhākaṃ kattabbakiccesu ussukkaṃ āpajjā’’ti vatvā brāhmaṇaṃ attano santike akāsi.
Thus, the king, having granted the brahmin what he wished for and other great honors, said, “From now on, be diligent in our duties,” and kept the brahmin near him.
Như vậy, đức vua đã ban cho vị Bà la môn những gì ông ta mong muốn và nhiều vinh quang lớn khác, rồi nói: “Từ nay trở đi, hãy nỗ lực thực hiện các công việc cần làm cho chúng ta!” và giữ vị Bà la môn ở bên cạnh mình.
2629
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā brāhmaṇo ānando ahosi, rājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: “At that time, the brahmin was Ānanda; the king, however, was I myself.”
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp này và kết nối bổn sanh – “Khi ấy, vị Bà la môn chính là Ānanda, còn đức vua chính là ta vậy.”
2630
Nānāchandajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth, the Nānāchandajātakavaṇṇanā.
Giải thích về Bổn Sanh Nānāchanda, thứ chín.
2631
* 10. Sīlavīmaṃsakajātakavaṇṇanā
* 10. The Sīlavīmaṃsakajātakavaṇṇanā
* 10. Giải thích về Bổn Sanh Sīlavīmaṃsaka
2632
Sīlaṃ kireva kalyāṇanti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ sīlavīmaṃsakabrāhmaṇaṃ ārabbha kathesi.
Sīlaṃ kireva kalyāṇaṃ” – The Teacher, while residing at Jetavana, related this in connection with a brahmin who investigated sīla.
“Sīlaṃ kireva kalyāṇaṃ” – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi ngài ngự tại Jetavana, liên quan đến một vị Bà la môn muốn thử nghiệm giới hạnh của mình.
Vatthu pana paccuppannampi atītampi heṭṭhā ekakanipāte sīlavīmaṃsakajātake (jā. 1.1.86) vitthāritameva.
The story, both present and past, is already elaborated below in the Sīlavīmaṃsakajātaka in the Ekakanipāta.
Câu chuyện hiện tại và quá khứ đã được trình bày chi tiết trong Bổn Sanh Sīlavīmaṃsaka (Jā. 1.1.86) ở tập một.
Idha pana bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente tassa purohito sīlasampanno ‘‘attano sīlaṃ vīmaṃsissāmī’’ti heraññikaphalakato dve divase ekekaṃ kahāpaṇaṃ gaṇhi.
Here, however, when Brahmadatta was ruling in Bārāṇasī, his purohita, endowed with sīla, took one kahāpaṇa each day for two days from the money-changer’s counter, thinking, “I will investigate my own sīla.”
Ở đây, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, vị tế tự của ngài, một người có giới hạnh, muốn “thử nghiệm giới hạnh của mình” nên đã lấy một đồng tiền vàng mỗi ngày trong hai ngày từ bảng kế toán của người giữ kho bạc.
Atha naṃ tatiyadivase ‘‘coro’’ti gahetvā rañño santikaṃ nayiṃsu.
Then, on the third day, they seized him as a “thief” and brought him before the king.
Đến ngày thứ ba, người ta bắt ông ta là “tên trộm” và dẫn đến gặp nhà vua.
So antarāmagge ahituṇḍike sappaṃ kīḷāpente addasa.
On the way, he saw snake charmers making snakes play.
Trên đường đi, ông ta thấy những người bắt rắn đang biểu diễn với rắn.
Atha naṃ rājā disvā ‘‘kasmā evarūpaṃ akāsī’’ti pucchi.
Then the king, seeing him, asked, “Why did you do such a thing?”
Rồi nhà vua nhìn thấy ông ta và hỏi: “Tại sao ngươi lại làm như vậy?”
Brāhmaṇo ‘‘attano sīlaṃ vīmaṃsitukāmatāyā’’ti vatvā imā gāthā avoca –
The brahmin, saying, “Out of a desire to investigate my own sīla,” uttered these verses:
Vị Bà la môn nói: “Vì muốn thử nghiệm giới hạnh của mình,” rồi đọc những bài kệ này –
2633
118.
118.
118.
2634
‘‘Sīlaṃ kireva kalyāṇaṃ, sīlaṃ loke anuttaraṃ;
“Indeed, sīla is good; sīla is unsurpassed in the world;
“Giới hạnh thật sự là tốt đẹp, giới hạnh là vô thượng ở đời;
2635
Passa ghoraviso nāgo, sīlavāti na haññati.
Behold, a snake with dreadful poison is not harmed, being endowed with sīla.
Hãy xem con rắn độc dữ tợn, nhờ có giới hạnh mà không bị hại.
2636
119.
119.
119.
2637
‘‘Sohaṃ sīlaṃ samādissaṃ, loke anumataṃ sivaṃ;
I will undertake sīla, which is approved and auspicious in the world;
Ta sẽ giữ gìn giới hạnh, điều được mọi người chấp nhận là an lành ở đời;
2638
Ariyavuttisamācāro, yena vuccati sīlavā.
Having the conduct of the noble, by which one is called sīlavā.
Với hành vi của bậc Thánh, nhờ đó mà được gọi là người có giới hạnh.
2639
120.
120.
120.
2640
‘‘Ñātīnañca piyo hoti, mittesu ca virocati;
One who is sīlavā is dear to relatives and shines among friends;
Người có giới hạnh được bà con yêu mến, được bạn bè tôn kính;
2641
Kāyassa bhedā sugatiṃ, upapajjati sīlavā’’ti.
At the breaking up of the body, he is reborn in a happy destination.”
Sau khi thân hoại mạng chung, sẽ tái sanh vào cảnh giới an lành.”
2642
Tattha sīlanti ācāro.
Here, sīlaṃ means ‘conduct’.
Trong đó, sīlaṃ nghĩa là hành vi đạo đức.
Kirāti anussavatthe nipāto.
Kirā is a particle indicating hearsay.
Kirā là một từ phụ dùng để chỉ sự nghe nói.
Kalyāṇanti sobhanaṃ, ‘‘sīlaṃ kireva kalyāṇa’’nti evaṃ paṇḍitā vadantīti attho.
Kalyāṇaṃ means ‘beautiful’; the meaning is, ‘Thus do the wise say, “Indeed, sīla is good.”’
Kalyāṇaṃ nghĩa là tốt đẹp, nghĩa là các bậc hiền trí nói rằng “giới hạnh thật sự là tốt đẹp.”
Passāti attānameva vadati.
Passā refers to himself.
Passā tự nói về chính mình.
Na haññatīti parampi na viheṭheti, parehipi na viheṭhīyati.
Na haññati means ‘he does not harm others, nor is he harmed by others’.
Na haññati nghĩa là không làm hại người khác, và cũng không bị người khác làm hại.
Samādissanti samādiyissāmi.
Samādissaṃ means ‘I will undertake’.
Samādissaṃ nghĩa là “tôi sẽ giữ gìn.”
Anumataṃ sivanti ‘‘khemaṃ nibbhaya’’nti evaṃ paṇḍitehi sampaṭicchitaṃ.
Anumataṃ sivaṃ means ‘accepted by the wise as safe and fearless’.
Anumataṃ sivanti (an toàn, tốt lành) có nghĩa là “an toàn, không sợ hãi”, như vậy được các bậc hiền trí chấp nhận.
Yena vuccatīti yena sīlena sīlavā puriso ariyānaṃ buddhādīnaṃ paṭipattiṃ samācaranto ‘‘ariyavuttisamācāro’’ti vuccati, tamahaṃ samādiyissāmīti attho.
By which it is said: The meaning is, "By which virtue a virtuous person, practicing the conduct of the noble ones, the Buddhas and others, is called 'one whose conduct is noble', that I shall undertake."
Yena vuccatīti (do đó được gọi) có nghĩa là: do giới nào mà một người giữ giới thực hành các hạnh của bậc Thánh như chư Phật, được gọi là “người thực hành hạnh của bậc Thánh”, thì tôi sẽ thọ trì giới đó.
Virocatīti pabbatamatthake aggikkhandho viya virocati.
Shines forth: It shines forth like a mass of fire on a mountaintop.
Virocatīti (tỏa sáng) có nghĩa là tỏa sáng như ngọn lửa trên đỉnh núi.
2643
Evaṃ bodhisatto tīhi gāthāhi sīlassa vaṇṇaṃ pakāsento rañño dhammaṃ desetvā ‘‘mahārāja, mama gehe pitu santakaṃ mātu santakaṃ attanā uppāditaṃ tayā dinnañca bahu dhanaṃ atthi, pariyanto nāma na paññāyati, ahaṃ pana sīlaṃ vīmaṃsanto heraññikaphalakato kahāpaṇe gaṇhiṃ.
Thus, the Bodhisatta, proclaiming the excellence of virtue with three stanzas, taught the Dhamma to the king and said, "Great King, in my house there is much wealth, inherited from my father, from my mother, acquired by myself, and given by you; its limit is not known.
Như vậy, Bồ-tát, với ba bài kệ, đã tuyên bố phẩm chất của giới, sau khi thuyết pháp cho nhà vua, đã nói: “Đại vương, trong nhà của tôi có rất nhiều tài sản của cha, của mẹ, do chính tôi tạo ra và do ngài ban tặng, không thể đếm xuể. Nhưng tôi, khi khảo sát giới, đã lấy những đồng kahāpaṇa từ tấm bảng của người thợ vàng.
Idāni mayā imasmiṃ loke jātigottakulapadesānaṃ lāmakabhāvo, sīlasseva ca jeṭṭhakabhāvo ñāto, ahaṃ pabbajissāmi, pabbajjaṃ me anujānāhī’’ti anujānāpetvā raññā punappunaṃ yāciyamānopi nikkhamma himavantaṃ pavisitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā brahmalokaparāyaṇo ahosi.
But I, examining virtue, took kahāpaṇas from the money-changer's board. Now I have come to know the inferiority of birth, lineage, and locality in this world, and the superiority of virtue itself. I shall go forth, please permit me to go forth." Having obtained the king's permission, though repeatedly entreated by the king, he departed, entered the Himalaya, undertook the ascetic's going forth, developed supernormal powers and attainments, and became destined for the Brahma world.
Bây giờ tôi đã biết được sự thấp kém của chủng tộc, dòng dõi, gia đình, địa vị trong thế gian này, và sự tối thượng của giới. Tôi sẽ xuất gia, xin ngài cho phép tôi xuất gia.” Sau khi được nhà vua cho phép, mặc dù nhà vua đã nhiều lần cầu xin, ngài vẫn rời đi, vào dãy Hy Mã Lạp Sơn, xuất gia làm đạo sĩ, thành tựu các thần thông và thiền định, rồi sanh về cõi Phạm thiên.
2644
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā sīlavīmaṃsako purohito brāhmaṇo ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the Brahmin chief priest who examined virtue was I myself."
Đức Phật đã kể bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Thầy tế tự Bà-la-môn khảo sát giới lúc bấy giờ chính là Ta.”
2645
Sīlavīmaṃsakajātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth, the Story of the Examiner of Virtue Jātaka.
Câu chuyện Jātaka về sự khảo sát giới, thứ mười, đã kết thúc.
2646
Abbhantaravaggo catuttho.
The Fourth, the Abbhantara Vagga.
Chương thứ tư, Abbhantara (Nội tại), đã kết thúc.
2647
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Tóm tắt chương đó:
2648
Duma kaṃsavaruttamabyagghamigā, maṇayo maṇi sālukamavhayano;
Duma, Kaṃsa, Varuttama, Byaggha, Migā, Maṇayo, Maṇi, Sāluka, Avhayano;
Cây, con heo, con hổ, con nai, ngọc quý, ngọc quý, con cá rô phi;
2649
Anusāsaniyopi ca macchavaro, maṇikuṇḍalakena kirena dasāti.
Anusāsaniya, and Macchavara, Maṇikuṇḍala, and Kira are ten.
Lời khuyên, con cá tốt nhất, và mười chiếc khuyên tai ngọc quý.
2650

5. Kumbhavaggo

5. Kumbha Vagga

5. Chương Kumbha (Cái bình)