Table of Contents

Jātaka-aṭṭhakathā-2

Edit
983

7. Bīraṇathambhavaggo

7. Bīraṇathambhavagga

7. Phẩm Bīraṇathambha

984
* 1. Somadattajātakavaṇṇanā
* 1. Somadatta Jātaka
* 1. Chuyện Somadatta Jātaka
985
Akāsi yogganti idaṃ satthā jetavane viharanto lāḷudāyittheraṃ ārabbha kathesi.
Akāsi yoggaṃ—the Teacher related this while residing at Jetavana, concerning Thera Lāḷudāyī.
Akāsi yogganti – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến Trưởng lão Lāḷudāyī.
So hi dvinnaṃ tiṇṇaṃ janānaṃ antare ekavacanampi sampādetvā kathesuṃ na sakkoti, sārajjabahulo ‘‘aññaṃ kathessāmī’’ti aññameva kathesi.
Indeed, he could not manage to speak even a single word among two or three people; being very shy, he would say 'I will say something else' and say something entirely different.
Vị ấy không thể nói trọn một câu giữa hai hoặc ba người, do quá bẽn lẽn, khi định nói một điều thì lại nói một điều khác.
Tassa taṃ pavattiṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathentā nisīdiṃsu.
The bhikkhus were sitting in the Dhamma hall, discussing this matter of his.
Các Tỳ-khưu ngồi trong Pháp đường kể về sự việc đó của vị ấy.
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, lāḷudāyī idāneva sārajjabahulo, pubbepi sārajjabahuloyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what topic are you gathered for now?" When told, "This one, venerable sir," he said, "Bhikkhus, Lāḷudāyī is not only shy now, he was shy in the past too," and then recounted a past event.
Đức Bổn Sư đến, hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn chuyện gì vậy?” Khi được thưa: “Chuyện này, bạch Ngài,” Ngài liền nói: “Này các Tỳ-khưu, Lāḷudāyī không phải chỉ bây giờ mới bẽn lẽn, mà trong quá khứ vị ấy cũng đã từng bẽn lẽn,” rồi Ngài kể chuyện quá khứ.
986
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe aññatarasmiṃ brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sippaṃ uggaṇhitvā puna gehaṃ āgantvā mātāpitūnaṃ duggatabhāvaṃ ñatvā ‘‘parihīnakulato seṭṭhikulaṃ patiṭṭhapessāmī’’ti mātāpitaro āpucchitvā bārāṇasiṃ gantvā rājānaṃ upaṭṭhāsi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a certain brahmin family in the Kāsī kingdom. Having reached maturity, he learned a craft in Takkasilā, then returned home. Knowing his parents' impoverished state, and thinking, "I will establish my family, which has declined, in a wealthy position," he asked his parents' permission and went to Bārāṇasī, where he served the king.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kāsī, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài học nghề ở Takkasilā, rồi trở về nhà, nhận thấy cha mẹ mình nghèo khó, Ngài nghĩ: “Ta sẽ giúp gia đình từ chỗ sa sút trở thành gia đình trưởng giả,” rồi xin phép cha mẹ đến Bārāṇasī và phục vụ nhà vua.
So raññā piyo ahosi manāpo.
He was dear and pleasing to the king.
Ngài được nhà vua yêu mến và hài lòng.
Athassa pituno ‘‘dvīhiyeva goṇehi kasiṃ katvā jīvikaṃ kappentassa eko goṇo mato.
Then, one of his father's two oxen, with which he earned his livelihood by farming, died.
Sau đó, một trong hai con bò của cha Ngài, người sống bằng nghề cày ruộng với hai con bò, đã chết.
So bodhisattaṃ upasaṅkamitvā ‘‘tāta, eko goṇo mato, kasikammaṃ na pavattati, rājānaṃ ekaṃ goṇaṃ yācāhī’’ti āha.
He approached the Bodhisatta and said, "My son, one ox has died, and farming cannot proceed. Ask the king for an ox."
Cha Ngài đến gặp Bồ-tát và nói: “Con ơi, một con bò đã chết, công việc cày cấy không tiến triển được, con hãy xin nhà vua một con bò.”
‘‘Tāta, nacirasseva me rājā diṭṭho, idāneva goṇaṃ yācituṃ na yuttaṃ, tumhe yācathā’’ti.
"Father, I have only recently seen the king; it is not appropriate to ask for an ox right now. You should ask."
“Cha ơi, con mới gặp nhà vua không lâu, bây giờ mà xin bò thì không thích hợp, cha hãy xin đi.”
‘‘Tāta, tvaṃ mayhaṃ sārajjabahulabhāvaṃ na jānāsi, ahañhi dvinnaṃ tiṇṇaṃ sammukhe kathaṃ sampādetuṃ na sakkomi.
"My son, you do not know my shyness; I cannot manage to speak in the presence of two or three people.
“Con ơi, con không biết tính bẽn lẽn của cha, cha không thể nói chuyện trôi chảy trước hai ba người được.
Sace ahaṃ rañño santikaṃ goṇaṃ yācituṃ gamissāmi, imampi datvā āgamissāmī’’ti.
If I go to the king to ask for an ox, I will come back having given away even this one."
Nếu cha đến chỗ nhà vua để xin bò, cha sẽ còn dâng cả con bò đang có mà về mất.”
‘‘Tāta, yaṃ hoti, taṃ hotu, na sakkā mayā rājānaṃ yācituṃ, apica kho panāhaṃ tumhe yoggaṃ kāressāmī’’ti.
"Father, whatever happens, let it happen; I cannot ask the king. However, I will train you."
“Cha ơi, chuyện gì đến thì đến, con không thể xin nhà vua được, nhưng con sẽ huấn luyện cha.”
‘‘Tena hi sādhu maṃ yoggaṃ kārehī’’ti.
"Then, good, train me."
“Vậy thì tốt, con hãy huấn luyện cha đi.”
987
Bodhisatto pitaraṃ ādāya bīraṇatthambhakasusānaṃ gantvā tattha tattha tiṇakalāpe bandhitvā ‘‘ayaṃ rājā, ayaṃ uparājā, ayaṃ senāpatī’’ti nāmāni katvā paṭipāṭiyā pitu dassetvā ‘‘tāta, tvaṃ rañño santikaṃ gantvā ‘jayatu, mahārājā’ti evaṃ imaṃ gāthaṃ vatvā goṇaṃ yāceyyāsī’’ti gāthaṃ uggaṇhāpesi –
The Bodhisatta took his father to the Bīraṇathambhaka cemetery. There, he tied bundles of grass here and there, named them 'this is the king, this is the viceroy, this is the commander,' and showed them to his father in order, saying, "Father, you should go to the king, say 'Victory to Your Majesty,' and then recite this verse to ask for an ox." He taught him the verse:
Bồ-tát dẫn cha đến nghĩa địa Bīraṇathambha, buộc các bó cỏ ở đó, đặt tên “Đây là vua, đây là phó vương, đây là tổng tư lệnh,” rồi lần lượt chỉ cho cha xem và nói: “Cha ơi, cha hãy đến chỗ nhà vua, nói ‘Vạn tuế, Đại vương!’ rồi đọc bài kệ này mà xin bò,” Ngài đã dạy cha học bài kệ:
988
‘‘Dve me goṇā mahārāja, yehi khettaṃ kasāmase;
"Two oxen, great king, by which we plough the field;
“Đại vương, con có hai con bò, dùng chúng để cày ruộng;
989
Tesu eko mato deva, dutiyaṃ dehi khattiyā’’ti.
Of these, one is dead, O god; give me a second, O warrior."
Một con trong số đó đã chết, Thiên nhân, xin hãy ban cho con con thứ hai, Khattiya.”
990
Brāhmaṇo ekena saṃvaccharena imaṃ gāthaṃ paguṇaṃ katvā bodhisattaṃ āha – ‘‘tāta, somadatta, gāthā me paguṇā jātā, idāni ahaṃ yassa kassaci santike vattuṃ sakkomi, maṃ rañño santikaṃ nehī’’ti.
The brahmin, having mastered this verse in one year, said to the Bodhisatta: "My dear Somadatta, the verse is now mastered by me; now I can recite it before anyone. Take me to the king."
Sau một năm, vị Bà-la-môn đã thuộc lòng bài kệ này và nói với Bồ-tát: “Con ơi, Somadatta, bài kệ cha đã thuộc lòng rồi, bây giờ cha có thể nói với bất cứ ai, con hãy đưa cha đến chỗ nhà vua.”
So ‘‘sādhu, tātā’’ti tathārūpaṃ paṇṇākāraṃ gāhāpetvā pitaraṃ rañño santikaṃ nesi.
He, saying "Very well, dear father," had such a gift prepared and took his father to the king.
Bồ-tát nói: “Vâng, cha,” rồi bảo cha mang theo lễ vật thích hợp và đưa cha đến chỗ nhà vua.
Brāhmaṇo ‘‘jayatu, mahārājā’’ti vatvā paṇṇākāraṃ adāsi.
The brahmin, saying "May Your Majesty be victorious," offered the gift.
Vị Bà-la-môn nói: “Vạn tuế, Đại vương!” rồi dâng lễ vật.
Rājā ‘‘ayaṃ te somadatta brāhmaṇo kiṃ hotī’’ti āha.
The king said, "Somadatta, what is this brahmin to you?"
Nhà vua hỏi: “Này Somadatta, vị Bà-la-môn này là gì của ngươi?”
‘‘Pitā me, mahārājā’’ti.
"He is my father, Your Majesty."
“Là cha của con, Đại vương.”
‘‘Kenaṭṭhenāgato’’ti?
"For what purpose has he come?"
“Đến vì mục đích gì?”
Tasmiṃ khaṇe brāhmaṇo goṇayācanatthāya gāthaṃ vadanto –
At that moment, the brahmin, reciting the verse to beg for oxen –
Ngay lúc đó, vị Bà-la-môn đọc bài kệ xin bò –
991
‘‘Dve me goṇā mahārāja, yehi khettaṃ kasāmase;
"Two oxen I had, great king, with which we used to plough the field;
“Đại vương, con có hai con bò, dùng chúng để cày ruộng;
992
Tesu eko mato deva, dutiyaṃ gaṇha khattiyā’’ti– āha;
One of them is dead, O god; take the second, O khattiya," he said.
Một con trong số đó đã chết, Thiên nhân, xin hãy nhận con thứ hai, Khattiya.”
993
Rājā brāhmaṇena virajjhitvā kathitabhāvaṃ ñatvā sitaṃ katvā ‘‘somadatta, tumhākaṃ gehe bahū maññe goṇā’’ti āha.
The king, knowing that the brahmin had spoken incorrectly, smiled and said, "Somadatta, you must have many oxen at your house."
Nhà vua biết vị Bà-la-môn đã nói sai, liền mỉm cười và nói: “Somadatta, ta nghĩ nhà ngươi có nhiều bò lắm.”
‘‘Tumhehi dinnā bhavissanti, mahārājā’’ti.
"They will be given by you, Your Majesty."
“Sẽ là do ngài ban cho, Đại vương.”
Rājā bodhisattassa tussitvā brāhmaṇassa soḷasa goṇe alaṅkārabhaṇḍake nivāsanagāmañcassa brahmadeyyaṃ datvā mahantena yasena brāhmaṇaṃ uyyojesi.
The king, pleased with the Bodhisatta, gave the brahmin sixteen oxen, ornaments, a dwelling village, and a brahmadeyya, and sent him off with great honor.
Nhà vua hài lòng với Bồ-tát, ban cho vị Bà-la-môn mười sáu con bò, đồ trang sức và một ngôi làng để ở làm đất ban tặng, rồi tiễn vị Bà-la-môn với sự vinh dự lớn.
Brāhmaṇo sabbasetasindhavayuttaṃ rathaṃ abhiruyha mahantena parivārena gāmaṃ agamāsi.
The brahmin, having mounted a chariot drawn by pure white Sindhu horses, went to the village with a large retinue.
Vị Bà-la-môn lên cỗ xe được kéo bởi những con ngựa Sindhu trắng muốt, cùng đoàn tùy tùng lớn trở về làng.
Bodhisatto pitarā saddhiṃ rathe nisīditvā gacchanto ‘‘tāta, ahaṃ tumhe sakalasaṃvaccharaṃ yoggaṃ kāresiṃ, sanniṭṭhānakāle pana tumhākaṃ goṇaṃ rañño adatthā’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta, riding in the chariot with his father, said, "Father, I trained you for a whole year, but at the time of completion, you gave your ox to the king," and then spoke the first verse –
Bồ-tát ngồi trên xe cùng cha, vừa đi vừa nói: “Cha ơi, con đã huấn luyện cha suốt cả năm, nhưng đến lúc quyết định thì cha lại dâng con bò của mình cho nhà vua,” rồi Ngài đọc bài kệ đầu tiên –
994
121.
121.
121.
995
‘‘Akāsi yoggaṃ dhuvamappamatto, saṃvaccharaṃ bīraṇathambhakasmiṃ;
"You diligently practiced for a year on a pillar of bīraṇa grass;
“Không lơ đễnh, ngươi đã huấn luyện đều đặn, suốt một năm trên bãi cỏ Bīraṇathambha;
996
Byākāsi saññaṃ parisaṃ vigayha, na niyyamo tāyati appapañña’’nti.
You changed the meaning, having entered the assembly; discipline does not protect the unwise."
Ngươi đã thay đổi lời hứa khi vào giữa hội chúng, sự kiên định không bảo vệ kẻ kém trí tuệ.”
997
Tattha akāsi yoggaṃ dhuvamappamatto, saṃvaccharaṃ bīraṇathambhakasminti, tāta, tvaṃ niccaṃ appamatto bīraṇatthambhamaye susāne yoggaṃ akāsi.
There, akāsi yoggaṃ dhuvamappamatto, saṃvaccharaṃ bīraṇathambhakasmiṃ means, "My dear, you constantly and diligently practiced on a pillar of bīraṇa grass in the charnel ground."
Trong đó, akāsi yoggaṃ dhuvamappamatto, saṃvaccharaṃ bīraṇathambhakasminti, cha ơi, cha đã luôn không lơ đễnh huấn luyện trên nghĩa địa làm từ cỏ bīraṇa.
Byākāsi saññaṃ parisaṃ vigayhāti atha ca pana parisaṃ vigāhitvā taṃ saññaṃ viakāsi vikāraṃ āpādesi, parivattesīti attho.
Byākāsi saññaṃ parisaṃ vigayhā means, "And yet, having entered the assembly, you distorted that meaning, you changed it."
Byākāsi saññaṃ parisaṃ vigayhāti nghĩa là, nhưng khi vào giữa hội chúng, cha đã thay đổi lời hứa đó, có nghĩa là đã làm cho nó biến dạng, đã thay đổi nó.
Na niyyamo tāyati appapaññanti appahaññaṃ nāma puggalaṃ niyyamo yoggāciṇṇaṃ caraṇaṃ na tāyati na rakkhatīti.
Na niyyamo tāyati appapañña means, "Discipline, the practice of training, does not protect an unwise person."
Na niyyamo tāyati appapaññanti, sự kiên định, tức là hành vi đã được huấn luyện, không bảo vệ, không che chở cho người kém trí tuệ.
998
Athassa vacanaṃ sutvā brāhmaṇo dutiyaṃ gāthamāha –
Then, hearing his words, the brahmin spoke the second verse –
Nghe lời Ngài nói, vị Bà-la-môn đọc bài kệ thứ hai –
999
122.
122.
122.
1000
‘‘Dvayaṃ yācanako tāta, somadatta nigacchati;
"A beggar, dear Somadatta, meets with two things;
“Này con Somadatta, người cầu xin gặp hai điều;
1001
Alābhaṃ dhanalābhaṃ vā, evaṃdhammā hi yācanā’’ti.
Either loss or gain of wealth, for such is the nature of begging."
Hoặc không được lợi lộc, hoặc được lợi lộc, vì việc cầu xin vốn là như vậy.”
1002
Tattha evaṃdhammā hi yācanāti yācanā hi evaṃsabhāvāti.
There, evaṃdhammā hi yācanā means, "For begging is of such a nature."
Trong đó, evaṃdhammā hi yācanāti có nghĩa là việc cầu xin vốn có bản chất như vậy.
1003
Satthā ‘‘na, bhikkhave, lāḷudāyī idāneva sārajjabahulo, pubbepi sārajjabahuloyevā’’ti vatvā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā ānando, somadattassa pitā lāḷudāyī ahosi, somadatto pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher said, "Monks, Lāḷudāyī is not arrogant only now; he was arrogant in the past too," and having brought this discourse on Dhamma, he connected the Jātaka: "At that time, the king was Ānanda, Somadatta's father was Lāḷudāyī, and Somadatta was I myself."
Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-khưu, Lāḷudāyī không phải chỉ bây giờ mới bẽn lẽn, mà trong quá khứ vị ấy cũng đã từng bẽn lẽn,” rồi Ngài kể bài Pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi đó, nhà vua là Ānanda, cha của Somadatta là Lāḷudāyī, còn Somadatta chính là Ta vậy.”
1004
Somadattajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The first, the Somadatta Jātaka.
Chuyện Somadatta Jātaka thứ nhất.
1005
* 2. Ucchiṭṭhabhattajātakavaṇṇanā
* 2. The Ucchiṭṭhabhatta Jātaka
* 2. Chuyện Ucchiṭṭhabhatta Jātaka
1006
Añño uparimo vaṇṇoti idaṃ satthā jetavane viharanto purāṇadutiyikāpalobhanaṃ ārabbha kathesi.
Añño uparimo vaṇṇo (Another story above) – The Teacher, while dwelling at Jetavana, related this concerning the enticement by a former wife.
Añño uparimo vaṇṇoti – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến việc một Tỳ-khưu bị vợ cũ quyến rũ.
So hi bhikkhu satthārā ‘‘saccaṃ kira, tvaṃ bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti puṭṭho ‘‘sacca’’nti vatvā ‘‘ko taṃ ukkaṇṭhāpesī’’ti vutte ‘‘purāṇadutiyikā’’ti āha.
Indeed, when that bhikkhu was asked by the Teacher, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?" he said, "It is true," and when asked, "Who made you discontented?" he replied, "My former wife."
Vị Tỳ-khưu ấy, khi được Đức Bổn Sư hỏi: “Này Tỳ-khưu, có thật là ông chán nản không?”, đã đáp: “Thật vậy”. Khi được hỏi: “Ai đã khiến ông chán nản?”, vị ấy nói: “Người vợ cũ của con”.
Atha naṃ satthā ‘‘bhikkhu ayaṃ te itthī anatthakārikā, pubbepi attano jārassa ucchiṭṭhakaṃ bhojesī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "Bhikkhu, this woman is harmful to you; in the past too, she fed her lover leftovers," and then related a past story.
Rồi Đức Bổn Sư nói với vị ấy: “Này Tỳ-khưu, người phụ nữ này là kẻ gây hại cho ông, ngay cả trong quá khứ cô ta cũng đã cho kẻ tình nhân của mình ăn đồ thừa”. Sau đó, Ngài kể chuyện quá khứ.
1007
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ ṭhāne bhikkhaṃ caritvā jīvikakappake kapaṇe naṭakakule nibbattitvā vayappatto duggato durūpako hutvā bhikkhaṃ caritvā jīvikaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta, having lived by begging in one place, was reborn into a poor, wretched family of actors, and having grown up, he lived by begging, being poor and ill-favored.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh vào một gia đình diễn viên nghèo khó, sống bằng nghề khất thực ở một nơi. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong cảnh nghèo khổ, dung mạo xấu xí, và kiếm sống bằng cách khất thực.
Tadā kāsiraṭṭhe ekasmiṃ gāmake ekassa brāhmaṇassa brāhmaṇī dussīlā pāpadhammā aticāraṃ carati.
At that time, in a certain village in the Kāsi kingdom, a brahmin's wife was immoral, wicked, and committed adultery.
Lúc bấy giờ, tại một ngôi làng ở xứ Kāsī, có một nữ Bà-la-môn, vợ của một Bà-la-môn, là người có giới hạnh xấu xa, hành động bất thiện, và ngoại tình.
Athekadivasaṃ brāhmaṇe kenacideva karaṇīyena bahi gate tassā jāro taṃ khaṇaṃ oloketvā taṃ gehaṃ pāvisi.
Then one day, when the brahmin had gone out for some business, her lover, watching for that moment, entered the house.
Rồi một ngày nọ, khi người Bà-la-môn đi ra ngoài vì có việc, kẻ tình nhân của cô ta đã lợi dụng cơ hội đó để vào nhà.
Sā tena saddhiṃ aticaritvā ‘‘muhuttaṃ accha, bhuñjitvāva gamissasī’’ti bhattaṃ sampādetvā sūpabyañjanasampannaṃ uṇhabhattaṃ vaḍḍhetvā ‘‘tvaṃ bhuñjā’’ti tassa datvā sayaṃ brāhmaṇassa āgamanaṃ olokayamānā dvāre aṭṭhāsi.
She, having transgressed with him, prepared a meal, saying, "Stay a moment; you will go only after eating." She served him hot rice, complete with curries and sauces, saying, "You eat," and then she herself stood at the door, watching for the brahmin's arrival.
Cô ta đã ngoại tình với hắn, rồi nói: “Hãy ở lại một lát, anh sẽ đi sau khi ăn xong”, cô ta chuẩn bị bữa ăn, múc một phần cơm nóng đầy đủ canh và món ăn, đưa cho hắn và nói: “Anh hãy ăn đi”. Rồi cô ta tự mình đứng ở cửa, trông chừng sự trở về của người Bà-la-môn.
Bodhisatto brāhmaṇiyā jārassa bhuñjanaṭṭhāne piṇḍaṃ paccāsīsanto aṭṭhāsi.
The Bodhisatta stood, expecting alms at the place where the brahmin's paramour was eating.
Bồ-tát đứng chờ nhận thức ăn khất thực tại nơi kẻ tình nhân của nữ Bà-la-môn đang ăn.
1008
Tasmiṃ khaṇe brāhmaṇo gehābhimukho āgacchati.
At that moment, the brahmin came, facing the house.
Vào khoảnh khắc đó, vị Bà-la-môn hướng về nhà mà đến.
Brāhmaṇī taṃ āgacchantaṃ disvā vegena pavisitvā ‘‘uṭṭhehi, brāhmaṇo āgacchatī’’ti jāraṃ koṭṭhe otāretvā brāhmaṇassa pavisitvā nisinnakāle phalakaṃ upanetvā hatthadhovanaṃ datvā itarena bhuttāvasiṭṭhassa sītabhattassa upari uṇhabhattaṃ vaḍḍhetvā brāhmaṇassa adāsi.
The brahmin woman, having seen him coming, quickly entered and, saying, "Get up, the brahmin is coming!" made the paramour descend into the storeroom. When the brahmin had entered and was seated, she brought him a plank, gave him water for washing his hands, and then served hot rice on top of the cold rice that was the leftover from the other's meal, giving it to the brahmin.
Bà-la-môn ni thấy ông ấy đang đến, liền vội vàng đi vào, rồi nói: “Dậy đi, Bà-la-môn đang đến!” và đưa người tình xuống kho thóc. Khi Bà-la-môn đã vào và ngồi xuống, bà mang cái mâm đến, đưa nước rửa tay, rồi múc cơm nóng lên trên phần cơm nguội còn thừa của người kia đã ăn, và dâng cho Bà-la-môn.
So bhatte hatthaṃ otāretvā upari uṇhaṃ heṭṭhā ca bhattaṃ sītalaṃ disvā cintesi – ‘‘iminā aññassa bhuttādhikena ucchiṭṭhabhattena bhavitabba’’nti.
He put his hand into the rice and, seeing that it was hot on top and cold underneath, thought, "This must be leftover rice from someone else's meal."
Ông ấy đưa tay vào cơm, thấy phần trên thì nóng, phần dưới thì nguội, liền suy nghĩ: “Đây chắc là cơm thừa của người khác đã ăn rồi.”
So brāhmaṇiṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Questioning the brahmin woman, he first spoke this verse:
Vị ấy hỏi Bà-la-môn ni, trước tiên nói lên bài kệ:
1009
123.
123.
123.
1010
‘‘Añño uparimo vaṇṇo, añño vaṇṇo ca heṭṭhimo;
"The upper appearance is one, and the lower appearance is another;
“Màu sắc phía trên khác, màu sắc phía dưới cũng khác;
1011
Brāhmaṇī tveva pucchāmi, kiṃ heṭṭhā kiñca upparī’’ti.
O brahmin woman, I ask you, what is below and what is above?"
Này Bà-la-môn ni, tôi hỏi, cái gì ở dưới, cái gì ở trên?”
1012
Tattha vaṇṇoti ākāro.
Here, vaṇṇo means 'appearance'.
Ở đây, vaṇṇo có nghĩa là hình dạng.
Ayañhi uparimassa uṇhabhāvaṃ heṭṭhimassa ca sītabhāvaṃ pucchanto evamāha.
Indeed, asking about the hotness of the upper part and the coldness of the lower part, he spoke thus.
Vị ấy hỏi về việc phần trên nóng và phần dưới nguội, nên đã nói như vậy.
Kiṃ heṭṭhā kiñca upparīti vuḍḍhitabhattena nāma upari sītalena, heṭṭhā uṇhena bhavitabbaṃ, idañca pana na tādisaṃ, tena taṃ pucchāmi – ‘‘kena kāraṇena upari bhattaṃ uṇhaṃ, heṭṭhimaṃ sītala’’nti.
Kiṃ heṭṭhā kiñca upparīti: When rice is served, the upper part should be cold and the lower part hot, but this is not so. Therefore, I ask you, "For what reason is the rice hot on top and cold underneath?"
Cái gì ở dưới, cái gì ở trên? có nghĩa là, cơm mới múc thì phần trên phải nguội, phần dưới phải nóng, nhưng cái này lại không như vậy. Vì thế, tôi hỏi bà: “Vì lý do gì mà cơm ở trên thì nóng, cơm ở dưới lại nguội?”
1013
Brāhmaṇī attanā katakammassa uttānabhāvabhayena brāhmaṇe punappunaṃ kathentepi tuṇhīyeva ahosi.
The brahmin woman, fearing the disclosure of her deed, remained silent even though the brahmin questioned her repeatedly.
Bà-la-môn ni, vì sợ hành động của mình bị lộ rõ, nên dù Bà-la-môn hỏi đi hỏi lại, bà vẫn im lặng.
Tasmiṃ khaṇe naṭaputtassa etadahosi – ‘‘koṭṭhe nisīdāpitapāpapurisena jārena bhavitabbaṃ, iminā gehassāmikena, brāhmaṇī pana attanā katakammassa pākaṭabhāvabhayena kiñci na katheti, handāhaṃ imissā katakammaṃ pakāsetvā jārassa koṭṭhake nisīdāpitabhāvaṃ brāhmaṇassa kathemī’’ti.
At that moment, it occurred to the acrobat's son: "The wicked man made to sit in the storeroom must be her paramour, and this is the master of the house. The brahmin woman says nothing, fearing the disclosure of her deed. Let me reveal her deed and tell the brahmin that the paramour has been made to sit in the storeroom."
Lúc đó, người diễn viên nghĩ: “Kẻ xấu xa bị giấu trong kho thóc chắc là người tình. Ông này là chủ nhà. Còn Bà-la-môn ni thì vì sợ hành động của mình bị phơi bày nên không nói gì. Thôi được, ta sẽ tiết lộ hành động của bà ta và kể cho Bà-la-môn biết việc người tình đang bị giấu trong kho thóc.”
So brāhmaṇassa gehā nikkhantakālato paṭṭhāya itarassa gehapavesanaṃ aticaraṇaṃ aggabhattabhuñjanaṃ brāhmaṇiyā dvāre ṭhatvā maggaṃ olokanaṃ itarassa koṭṭhe otāritabhāvanti sabbaṃ taṃ pavattiṃ ācikkhitvā dutiyaṃ gāthamāha –
So, recounting the entire incident—from the time the brahmin left the house, the other's entry into the house, their transgression, his eating the first portion of rice, the brahmin woman standing at the door watching the road, and the other being made to descend into the storeroom—he spoke the second verse:
Vị ấy kể lại tất cả sự việc: từ lúc Bà-la-môn ra khỏi nhà, người kia vào nhà, việc ngoại tình, việc ăn cơm đầu tiên, việc Bà-la-môn ni đứng ở cửa nhìn đường, và việc người kia bị giấu trong kho thóc, rồi nói lên bài kệ thứ hai:
1014
124.
124.
124.
1015
‘‘Ahaṃ naṭosmi bhaddante, bhikkhakosmi idhāgato;
"I am an acrobat, good sir, a beggar who has come here;
“Thưa ngài, tôi là diễn viên, tôi đến đây để xin ăn;
1016
Ayañhi koṭṭhamotiṇṇo, ayaṃ so yaṃ gavesasī’’ti.
This one has descended into the storeroom; this is he whom you seek."
Người này đã chui xuống kho thóc, đây chính là người mà ngài đang tìm kiếm.”
1017
Tattha ahaṃ naṭosmi, bhaddanteti, sāmi, ahaṃ naṭajātiko.
Here, ahaṃ naṭosmi, bhaddanteti means, "Sir, I am of the acrobat caste."
Ở đây, ahaṃ naṭosmi, bhaddante có nghĩa là, thưa chủ, tôi là người thuộc dòng dõi diễn viên.
Bhikkhakosmi idhāgatoti svāhaṃ imaṃ ṭhānaṃ bhikkhako bhikkhaṃ pariyesamāno āgatosmi.
Bhikkhakosmi idhāgatoti means, "I have come to this place as a beggar, seeking alms."
Bhikkhakosmi idhāgato có nghĩa là, tôi đến nơi này để xin ăn, tìm kiếm thức ăn.
Ayañhi koṭṭhamotiṇṇoti ayaṃ pana etissā jāro imaṃ bhattaṃ bhuñjanto tava bhayena koṭṭhaṃ otiṇṇo.
Ayañhi koṭṭhamotiṇṇoti means, "This paramour of hers, having eaten this rice, has descended into the storeroom out of fear of you."
Ayañhi koṭṭhamotiṇṇo có nghĩa là, người tình của bà ta, sau khi ăn cơm này, vì sợ ngài nên đã chui xuống kho thóc.
Ayaṃ so yaṃ gavesasīti yaṃ tvaṃ kassa nu kho iminā ucchiṭṭhakena bhavitabbanti gavesasi, ayaṃ so.
Ayaṃ so yaṃ gavesasīti means, "This is he whom you seek, wondering whose leftover this might be."
Ayaṃ so yaṃ gavesasī có nghĩa là, người mà ngài đang tìm kiếm, tự hỏi “cơm thừa này là của ai?”, thì đây chính là người đó.
Cūḷāya naṃ gahetvā koṭṭhā nīharitvā yathā na punevarūpaṃ pāpaṃ karoti, tathā assa satiṃ janehīti vatvā pakkāmi.
Having said, "Take him by the topknot, pull him out of the storeroom, and make him mindful so that he does not commit such evil again," he departed.
Nói xong, rằng: “Hãy nắm tóc anh ta lôi ra khỏi kho thóc và dạy dỗ anh ta để anh ta không bao giờ làm điều ác như vậy nữa,” rồi vị ấy bỏ đi.
Brāhmaṇo ubhopi te yathā naṃ na punevarūpaṃ pāpaṃ karonti, tajjanapothanehi tathā sikkhāpetvā yathākammaṃ gato.
The brahmin, having disciplined both of them with rebukes and beatings so that they would not commit such evil again, went his way.
Vị Bà-la-môn dạy dỗ cả hai người bằng cách đe dọa và đánh đập để họ không bao giờ làm điều ác như vậy nữa, rồi tiếp tục cuộc sống của mình.
1018
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhito bhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, revealed the Truths, and identified the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Phật đã kể lại bài pháp này, thuyết giảng Tứ Diệu Đế và kết nối câu chuyện Jātaka. Sau khi kết thúc Tứ Diệu Đế, vị tỳ khưu chán nản đã an trú vào quả vị Nhập Lưu.
‘‘Tadā brāhmaṇī purāṇadutiyikā ahosi, brāhmaṇo ukkaṇṭhito bhikkhu, naṭaputto pana ahameva ahosi’’nti.
"The brahmin woman was the former companion, the brahmin was the discontented bhikkhu, and I myself was the acrobat's son."
“Khi đó, Bà-la-môn ni là người vợ cũ, Bà-la-môn là vị tỳ khưu chán nản, còn người diễn viên chính là Ta.”
1019
Ucchiṭṭhabhattajātakavaṇṇanā dutiyā.
The second commentary on the Ucchiṭṭhabhatta Jātaka is concluded.
Câu chuyện Ucchiṭṭhabhattajātaka thứ hai đã kết thúc.
1020
* 3. Bharujātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Bharu Jātaka
* 3. Câu chuyện Bharujātaka
1021
Isīnamantaraṃ katvāti idaṃ satthā jetavane viharanto kosalarājānaṃ ārabbha kathesi.
Isīnamantaraṃ katvāti: This the Teacher related while residing at Jetavana, concerning King Pasenadi of Kosala.
Isīnamantaraṃ katvā (làm cho các đạo sĩ tranh chấp): Câu chuyện này được Đức Phật kể khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến vua Kosala.
Bhagavato hi bhikkhusaṅghassa ca lābhasakkāro mahā ahosi.
Indeed, great gain and honor accrued to the Blessed One and the assembly of bhikkhus.
Thật vậy, Đức Thế Tôn và Tăng đoàn đã nhận được rất nhiều lợi lộc và sự tôn kính.
Yathāha –
As it is said:
Như đã nói:
1022
‘‘Tena kho pana samayena bhagavā sakkato hoti garukato mānito pūjito apacito lābhī cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhārānaṃ.
Now at that time the Blessed One was honored, respected, esteemed, revered, and venerated, and was a recipient of robes, almsfood, lodgings, and requisites for the sick, including medicine.
“Vào lúc đó, Đức Thế Tôn được tôn trọng, được kính trọng, được ngưỡng mộ, được cúng dường, được phục vụ, được lợi lộc về y phục, vật thực khất thực, chỗ ở, thuốc men và các vật dụng cần thiết cho người bệnh.
Bhikkhusaṅghopi kho sakkato hoti…pe… parikkhārānaṃ.
And the Saṅgha of bhikkhus was also honored... and requisites.
Tăng đoàn cũng được tôn trọng…pe… các vật dụng cần thiết.”
Aññatitthiyā pana paribbājakā asakkatā honti…pe… parikkhārāna’’nti (udā. 14).
But the wanderers of other sects were not honored... and requisites."
Còn các du sĩ ngoại đạo thì không được tôn trọng…pe… các vật dụng cần thiết.”
1023
Te evaṃ parihīnalābhasakkārā ahorattaṃ guḷhasannipātaṃ katvā mantayanti ‘‘samaṇassa gotamassa uppannakālato paṭṭhāya mayaṃ hatalābhasakkārā jātā, samaṇo gotamo lābhaggayasaggappatto jāto, kena nu kho kāraṇenassa esā sampattī’’ti.
Having thus fallen short in gains and honors, they held a secret meeting day and night and deliberated, "From the time the ascetic Gotama arose, we have suffered a loss of gains and honors; the ascetic Gotama has attained the highest and best of gains. By what cause, then, is this prosperity his?"
Vì lợi lộc và sự tôn kính bị suy giảm như vậy, họ họp kín ngày đêm và bàn bạc: “Từ khi Sa-môn Gotama xuất hiện, chúng ta đã mất đi lợi lộc và sự tôn kính, Sa-môn Gotama đã đạt đến đỉnh cao của lợi lộc. Vì lý do gì mà Ngài có được sự thịnh vượng này?”
Tatreke evamāhaṃsu – ‘‘samaṇo gotamo sakalajambudīpassa uttamaṭṭhāne bhūmisīse vasati.
Thereupon some said, "The ascetic Gotama dwells in the highest place, on the summit of the earth, in the entire Jambudīpa.
Một số người trong số họ nói: “Sa-môn Gotama sống ở nơi tối thượng, trên đỉnh đất của toàn bộ Jambudīpa (Ấn Độ).”
Tenassa lābhasakkāro uppajjatī’’ti, sesā ‘‘atthetaṃ kāraṇaṃ, mayampi jetavanapiṭṭhe titthiyārāmaṃ kāremu, evaṃ lābhino bhavissāmā’’ti āhaṃsu.
That is why gains and honors arise for him." The others said, "This is the reason for it. Let us also build a hermitage for sectarians behind the Jetavana. Thus we will become recipients of gains."
“Vì thế mà Ngài có được lợi lộc và sự tôn kính.” Những người khác nói: “Đây là lý do. Chúng ta cũng hãy xây dựng một tịnh xá ngoại đạo ở phía sau Jetavana, như vậy chúng ta sẽ có lợi lộc.”
Te sabbepi ‘‘evameta’’nti sanniṭṭhānaṃ katvā ‘‘sacepi mayaṃ rañño anārocetvā ārāmaṃ kāressāma, bhikkhū vāressanti, lañjaṃ labhitvā abhijjanako nāma natthi, tasmā rañño lañjaṃ datvā ārāmaṭṭhānaṃ gaṇhissāmā’’ti sammantetvā upaṭṭhāke yācitvā rañño satasahassaṃ datvā ‘‘mahārāja, mayaṃ jetavanapiṭṭhiyaṃ titthiyārāmaṃ karissāma, sace bhikkhū ‘kātuṃ na dassāmā’ti tumhākaṃ ārocenti, nesaṃ paṭivacanaṃ na dātabba’’nti āhaṃsu.
All of them, having concluded "This is the way," then deliberated, "Even if we build a hermitage without informing the king, the bhikkhus will prevent us. There is no one who will not be swayed by a bribe. Therefore, we will give a bribe to the king and obtain the site for the hermitage." Having consulted their supporters, they gave a hundred thousand to the king and said, "Great King, we will build a sectarian hermitage behind the Jetavana. If the bhikkhus report to you, saying, 'We will not allow it to be built,' you should not give them a reply."
Tất cả họ đều đồng ý rằng “đúng là như vậy.” Sau đó, họ bàn bạc: “Nếu chúng ta xây dựng tịnh xá mà không báo cho vua, các tỳ khưu sẽ ngăn cản. Không có ai không bị mua chuộc bởi hối lộ. Vì vậy, chúng ta sẽ hối lộ vua và lấy đất để xây tịnh xá.” Họ đã xin những người hộ trì, đưa cho vua một trăm ngàn (đơn vị tiền tệ) và nói: “Đại vương, chúng thần sẽ xây dựng một tịnh xá ngoại đạo ở phía sau Jetavana. Nếu các tỳ khưu đến báo với ngài rằng ‘chúng thần sẽ không cho xây dựng’, thì ngài đừng trả lời họ.”
Rājā lañjalobhena ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
The king, out of greed for the bribe, consented, saying, "So be it."
Vua, vì tham lam hối lộ, đã đồng ý “tốt thôi.”
1024
Titthiyā rājānaṃ saṅgaṇhitvā vaḍḍhakiṃ pakkosāpetvā kammaṃ paṭṭhapesuṃ, mahāsaddo ahosi.
The sectarians, having won over the king, summoned a carpenter and started the work, and there was a great noise.
Các du sĩ ngoại đạo đã mua chuộc vua, cho gọi thợ mộc đến và bắt đầu công việc. Có một tiếng ồn lớn.
Satthā ‘‘ke panete, ānanda, uccāsaddamahāsaddā’’ti pucchi.
The Teacher asked, "Who are these, Ānanda, making such a loud and great noise?"
Đức Phật hỏi: “Này Ānanda, tiếng ồn lớn này là của ai?”
‘‘Aññatitthiyā, bhante, jetavanapiṭṭhiyaṃ titthiyārāmaṃ kārenti, tattheso saddo’’ti.
"Bhante, other sectarians are building a sectarian hermitage behind the Jetavana; that is the noise," he replied.
“Bạch Đức Thế Tôn, đó là tiếng ồn của các du sĩ ngoại đạo đang xây dựng một tịnh xá ngoại đạo ở phía sau Jetavana.”
‘‘Ānanda, netaṃ ṭhānaṃ titthiyārāmassa anucchavikaṃ, titthiyā uccāsaddakāmā, na sakkā tehi saddhiṃ vasitu’’nti vatvā bhikkhusaṅghaṃ sannipātetvā ‘‘gacchatha, bhikkhave, rañño ācikkhitvā titthiyārāmakaraṇaṃ nivārethā’’ti āha.
The Teacher said, "Ānanda, that place is not suitable for a sectarian hermitage. Sectarians are fond of loud noises; it is not possible to dwell with them." Having gathered the Saṅgha of bhikkhus, he said, "Go, bhikkhus, inform the king and stop the building of the sectarian hermitage."
“Này Ānanda, nơi đó không thích hợp cho tịnh xá ngoại đạo. Các du sĩ ngoại đạo thích ồn ào, không thể sống chung với họ được.” Nói xong, Ngài tập hợp Tăng đoàn và nói: “Này các tỳ khưu, hãy đi báo cho vua và ngăn cản việc xây dựng tịnh xá ngoại đạo.”
Bhikkhusaṅgho gantvā rañño nivesanadvāre aṭṭhāsi.
The Saṅgha of bhikkhus went and stood at the entrance to the king's palace.
Tăng đoàn đã đi và đứng trước cổng cung điện của vua.
Rājā saṅghassa āgatabhāvaṃ sutvāpi ‘‘titthiyārāmaṃ nissāya āgatā bhavissantī’’ti lañjassa gahitattā ‘‘rājā gehe natthī’’ti vadāpesi.
Even though the king heard of the Saṅgha's arrival, thinking, "They must have come concerning the sectarian hermitage," and because he had taken the bribe, he had them told, "The king is not at home."
Vua, dù nghe tin Tăng đoàn đã đến, nhưng vì đã nhận hối lộ và nghĩ rằng “họ chắc đến vì chuyện tịnh xá ngoại đạo,” nên đã cho người nói rằng “vua không có ở nhà.”
Bhikkhū gantvā satthu ārocesuṃ.
The bhikkhus went and reported to the Teacher.
Các tỳ khưu trở về và báo lại cho Đức Phật.
Satthā ‘‘lañjaṃ nissāya evaṃ karotī’’ti dve aggasāvake pesesi.
The Teacher, thinking, "He is acting thus because of the bribe," sent the two chief disciples.
Đức Phật nghĩ: “Ông ta làm vậy vì hối lộ,” nên đã cử hai vị Đại đệ tử đi.
Rājā tesampi āgatabhāvaṃ sutvā tatheva vadāpesi.
The king, hearing of their arrival too, had them told the same thing.
Vua, nghe tin hai vị ấy cũng đến, đã cho người nói y như vậy.
Tepi āgantvā satthu ārācesuṃ.
They also came and reported to the Teacher.
Hai vị ấy cũng trở về và báo lại cho Đức Phật.
Satthā ‘‘na idāni, sāriputta, rājā gehe nisīdituṃ labhissati, bahi nikkhamissatī’’ti punadivase pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ rañño nivesanadvāraṃ agamāsi.
The Teacher said, "Now, Sāriputta, the king will not be able to stay at home; he will go out." The next day, in the forenoon, having dressed and taken his bowl and robe, he went to the entrance of the king's palace with five hundred bhikkhus.
Đức Phật nói: “Này Sāriputta, bây giờ vua sẽ không thể ở trong cung được, ông ta sẽ phải ra ngoài.” Sáng hôm sau, Ngài đắp y, mang bát và cùng với năm trăm tỳ khưu đến trước cổng cung điện của vua.
Rājā sutvā pāsādā otaritvā pattaṃ gahetvā satthāraṃ pavesetvā buddhappamukhassa saṅghassa yāgukhajjakaṃ datvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
The king, hearing of it, descended from the palace, took the bowl, invited the Teacher in, gave gruel and solid food to the Saṅgha headed by the Buddha, worshipped the Teacher, and sat down to one side.
Vua nghe tin, liền bước xuống từ cung điện, nhận bát và mời Đức Phật vào. Sau khi dâng cháo và thức ăn nhẹ cho Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu, vua đảnh lễ Đức Phật và ngồi sang một bên.
Satthā rañño ekaṃ pariyāyadhammadesanaṃ ārabhanto ‘‘mahārāja, porāṇakarājāno lañjaṃ gahetvā sīlavante aññamaññaṃ kalahaṃ kāretvā attano raṭṭhassa assāmino hutvā mahāvināsaṃ pāpuṇiṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, beginning a discourse on a certain aspect of Dhamma to the king, said, "Great King, ancient kings, having taken bribes and caused virtuous people to quarrel with each other, became dispossessed of their own kingdom and met with great destruction." Having said this, he recounted a past event when requested by the king.
Đức Phật bắt đầu một bài pháp thoại cho vua, nói: “Đại vương, các vị vua thời xưa, vì nhận hối lộ, đã khiến những người có giới đức tranh chấp lẫn nhau, và cuối cùng đã mất vương quốc của mình, chịu đại họa.” Sau đó, theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1025
Atīte bharuraṭṭhe bharurājā nāma rajjaṃ kāresi.
In the past, in the Bharu kingdom, a king named Bharu reigned.
Trong quá khứ, tại vương quốc Bharu, có một vị vua tên là Bharu trị vì.
Tadā bodhisatto pañcābhiñño aṭṭhasamāpattilābhī gaṇasatthā tāpaso hutvā himavantapadese ciraṃ vasitvā loṇambilasevanatthāya pañcasatatāpasaparivuto himavantā otaritvā anupubbena bharunagaraṃ patvā tattha piṇḍāya caritvā nagarā nikkhamitvā uttaradvāre sākhāviṭapasampannassa vaṭarukkhassa mūle nisīditvā bhattakiccaṃ katvā tattheva rukkhamūle vāsaṃ kappesi.
At that time, the Bodhisatta, a leader of a group of ascetics, endowed with five supernormal powers and eight attainments, having lived for a long time in the Himālaya region, descended from the Himālaya with five hundred ascetics to partake of salt and sour food. Gradually, he reached the city of Bharu, begged for alms there, left the city, and sat at the foot of a banyan tree rich in branches and twigs at the northern gate. Having finished his meal, he took up residence at the foot of that very tree.
Khi đó, Bồ-tát là một vị đạo sĩ có năm thần thông và tám thiền định, là giáo chủ của một đoàn thể. Sau khi sống lâu ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, Ngài cùng với năm trăm đạo sĩ tùy tùng đi xuống từ Hy Mã Lạp Sơn để tìm muối và vị chua. Dần dần, Ngài đến thành Bharu, khất thực trong thành, rồi ra khỏi thành và ngồi dưới gốc cây đa có nhiều cành lá sum suê ở cổng phía bắc. Sau khi dùng bữa, Ngài trú ngụ ngay dưới gốc cây đó.
Evaṃ tasmiṃ isigaṇe tattha vasante aḍḍhamāsaccayena añño gaṇasatthā pañcasataparivāro āgantvā nagare bhikkhāya caritvā nagarā nikkhamitvā dakkhiṇadvāre tādisasseva vaṭarukkhassa mūle nisīditvā bhattakiccaṃ katvā tattha rukkhamūle vāsaṃ kappesi.
Thus, while that group of ascetics was dwelling there, after half a month, another teacher of a group, accompanied by five hundred disciples, came, wandered for alms in the city, left the city, sat at the foot of a similar banyan tree at the southern gate, performed their meal, and established their residence at the foot of that tree.
Cứ như vậy, khi đoàn đạo sĩ đó đang trú ngụ ở đó, sau nửa tháng, một giáo chủ khác cùng với năm trăm tùy tùng đến, khất thực trong thành, rồi ra khỏi thành và ngồi dưới gốc cây đa tương tự ở cổng phía nam. Sau khi dùng bữa, vị ấy cũng trú ngụ dưới gốc cây đó.
Iti te dvepi isigaṇā tattha yathābhirantaṃ viharitvā himavantameva agamaṃsu.
Thus, both groups of ascetics, having dwelled there as long as they pleased, went to the Himalayas.
Như vậy, cả hai đoàn đạo sĩ đã trú ngụ ở đó tùy thích, rồi trở về Hy Mã Lạp Sơn.
1026
Tesaṃ gatakāle dakkhiṇadvāre vaṭarukkho sukkho.
When they had gone, the banyan tree at the southern gate withered.
Sau khi họ đi, cây đa ở cổng phía nam bị khô héo.
Punavāre tesu āgacchantesu dakkhiṇadvāre vaṭarukkhavāsino paṭhamataraṃ āgantvā attano vaṭarukkhassa sukkhabhāvaṃ ñatvā bhikkhāya caritvā nagarā nikkhamitvā uttaradvāre vaṭarukkhamūlaṃ gantvā bhattakiccaṃ katvā tattha vāsaṃ kappesuṃ.
The next time, when they were returning, those who had resided at the banyan tree at the southern gate came first, and knowing that their banyan tree had withered, they wandered for alms, left the city, went to the foot of the banyan tree at the northern gate, performed their meal, and established their residence there.
Lần nữa, khi các vị ấy đến, những vị cư ngụ ở cây đa phía cổng phía nam đã đến trước, biết được cây đa của mình đã khô, sau khi đi khất thực, họ rời khỏi thành phố, đến gốc cây đa ở cổng phía bắc, dùng bữa và an cư tại đó.
Itare pana isayo pacchā āgantvā nagare bhikkhāya caritvā attano rukkhamūlameva gantvā bhattakiccaṃ katvā vāsaṃ kappesuṃ.
But the other ascetics came later, wandered for alms in the city, went to the foot of their own tree, performed their meal, and established their residence.
Còn các vị ẩn sĩ khác thì đến sau, sau khi đi khất thực trong thành phố, họ trở về gốc cây của mình, dùng bữa và an cư.
Te ‘‘na so tumhākaṃ rukkho, amhākaṃ rukkho’’ti rukkhaṃ nissāya aññamaññaṃ kalahaṃ kariṃsu, kalaho mahā ahosi.
They quarreled with each other concerning the tree, saying, "That is not your tree, it is our tree!" The quarrel became great.
Họ đã cãi vã lẫn nhau về cái cây, nói rằng: “Đó không phải là cây của các ông, đó là cây của chúng tôi,” và cuộc cãi vã trở nên lớn.
Eke ‘‘amhākaṃ paṭhamaṃ vasitaṭṭhānaṃ tumhe na labhissathā’’ti vadanti.
Some said, "You will not get our first dwelling place."
Một số nói: “Các ông sẽ không có được nơi chúng tôi đã ở trước.”
Eke ‘‘mayaṃ imasmiṃ vāre paṭhamataraṃ idhāgatā, tumhe na labhissathā’’ti vadanti.
Others said, "We came here first this time; you will not get it."
Một số nói: “Lần này chúng tôi đã đến đây trước, các ông sẽ không có được.”
Iti te ‘‘mayaṃ sāmino, mayaṃ sāmino’’ti kalahaṃ karontā rukkhamūlassatthāya rājakulaṃ agamaṃsu.
Thus, quarreling, "We are the owners, we are the owners," they went to the royal court for the sake of the tree's root.
Cứ thế, họ cãi vã: “Chúng tôi là chủ, chúng tôi là chủ,” và đi đến triều đình vì gốc cây.
Rājā paṭhamaṃ vutthaisigaṇaññeva sāmikaṃ akāsi.
The king made only the first group of ascetics the owners.
Vua đã phong cho nhóm ẩn sĩ đến trước làm chủ.
Itare ‘‘na dāni mayaṃ imehi parājitāti attānaṃ vadāpessāmā’’ti dibbacakkhunā oloketvā ekaṃ cakkavattiparibhogaṃ rathapañjaraṃ disvā āharitvā rañño lañjaṃ datvā ‘‘mahārāja, amhepi sāmike karohī’’ti āhaṃsu.
The others, saying, "Now we will not let ourselves be called defeated by these," looked with divine sight, saw a chariot frame that had been used by a Cakkavatti, brought it, gave it as a bribe to the king, and said, "Great king, make us owners too."
Các vị khác, nói rằng: “Chúng ta sẽ không để mình bị họ đánh bại,” bèn nhìn bằng thiên nhãn, thấy một khung xe của một vị Chuyển Luân Vương, bèn mang đến, hối lộ cho vua và nói: “Đại vương, xin hãy phong chúng tôi làm chủ nữa.”
1027
Rājā lañjaṃ gahetvā ‘‘dvepi gaṇā vasantū’’ti dvepi sāmike akāsi.
The king took the bribe and made both groups owners, saying, "Let both groups dwell."
Vua nhận hối lộ và phong cả hai nhóm làm chủ, nói: “Cả hai nhóm hãy cư ngụ.”
Itare isayo tassa rathapañjarassa rathacakkāni nīharitvā lañjaṃ datvā ‘‘mahārāja, amheyeva sāmike karohī’’ti āhaṃsu.
The other ascetics removed the chariot wheels from that chariot frame, gave them as a bribe, and said, "Great king, make only us the owners."
Các vị ẩn sĩ kia bèn lấy bánh xe của khung xe đó ra, hối lộ và nói: “Đại vương, xin hãy phong chỉ chúng tôi làm chủ.”
Rājā tathā akāsi.
The king did so.
Vua đã làm như vậy.
Isigaṇā ‘‘amhehi vatthukāme ca kilesakāme ca pahāya pabbajitehi rukkhamūlassa kāraṇā kalahaṃ karontehi lañjaṃ dadantehi ayuttaṃ kata’’nti vippaṭisārino hutvā vegena palāyitvā himavantameva agamaṃsu.
The groups of ascetics, regretting, "It was improper for us, who have renounced sensual desires and defilement desires and gone forth, to quarrel and give bribes for the sake of a tree's root," quickly fled and went to the Himalayas.
Các nhóm ẩn sĩ cảm thấy hối hận: “Chúng ta, những người đã từ bỏ dục lạc vật chất và dục lạc phiền não để xuất gia, lại cãi vã và hối lộ vì một gốc cây, điều này thật không đúng đắn,” bèn nhanh chóng bỏ chạy và đi đến dãy Hy Mã Lạp Sơn.
Sakalabharuraṭṭhavāsino devatā ekato hutvā ‘‘sīlavante kalahaṃ karontena raññā ayuttaṃ kata’’nti bharurañño kujjhitvā tiyojanasatikaṃ bharuraṭṭhaṃ samuddaṃ ubbattetvā araṭṭhamakaṃsu.
All the deities dwelling in the Bharu kingdom gathered together and, angered at the king of Bharu, saying, "The king has acted improperly by causing quarrel among virtuous ones," they caused the Bharu kingdom, which was three hundred yojanas in extent, to be submerged in the ocean, making it a non-kingdom.
Các vị thiên nhân cư ngụ khắp xứ Bharu tập hợp lại và nói: “Vua đã hành động sai trái khi gây ra cuộc cãi vã giữa các vị có giới hạnh,” bèn nổi giận với vua Bharu, làm cho xứ Bharu rộng một trăm dojana bị biển nhấn chìm, biến thành không có người ở.
Iti ekaṃ bharurājānaṃ nissāya sakalaraṭṭhavāsinopi vināsaṃ pattāti.
Thus, because of one Bharu king, all the inhabitants of the kingdom also met with destruction.
Vì vậy, do một vị vua Bharu, tất cả cư dân trong xứ cũng đã bị hủy diệt.
1028
Satthā imaṃ atītaṃ āharitvā abhisambuddho hutvā imā gāthā avoca –
The Teacher, having recounted this past event, being fully enlightened, spoke these verses:
Bậc Đạo Sư, sau khi kể lại câu chuyện quá khứ này, đã giác ngộ và nói những vần kệ sau:
1029
125.
125.
125.
1030
‘‘Isīnamantaraṃ katvā, bharurājāti me sutaṃ;
“I have heard that King Bharu, having caused discord among ascetics,
“Do gây chia rẽ giữa các vị ẩn sĩ,
1031
Ucchinno saha raṭṭhehi, sa rājā vibhavaṅgato.
was destroyed together with his kingdom, that king met with ruin.
Vua Bharu, ta nghe nói, đã bị diệt vong cùng với vương quốc của mình, và đã mất đi sự thịnh vượng.”
1032
126.
126.
126.
1033
‘‘Tasmā hi chandāgamanaṃ, nappasaṃsanti paṇḍitā;
“Therefore, the wise do not praise going by way of desire;
“Vì vậy, những người trí không tán dương sự thiên vị;
1034
Aduṭṭhacitto bhāseyya, giraṃ saccupasaṃhita’’nti.
One should speak words imbued with truth, with an undefiled mind.”
Với tâm không sân hận, hãy nói lời chân thật.”
1035
Tattha antaraṃ katvāti chandāgativasena vivaraṃ katvā.
Therein, antaraṃ katvā means having caused a rift by going by way of desire.
Ở đây, antaraṃ katvā có nghĩa là tạo ra sự chia rẽ do sự thiên vị (chandāgati).
Bharurājāti bharuraṭṭhe rājā.
Bharurājā means the king in the Bharu kingdom.
Bharurājā là vị vua của xứ Bharu.
Iti me sutanti iti mayā pubbe etaṃ sutaṃ.
Iti me sutaṃ means thus I have heard this before.
Iti me sutaṃ có nghĩa là “ta đã nghe điều này trước đây.”
Tasmā hi chandāgamananti yasmā hi chandāgamanaṃ gantvā bharurājā saha raṭṭhena ucchinno, tasmā chandāgamanaṃ paṇḍitā nappasaṃsanti.
Tasmā hi chandāgamanaṃ means because King Bharu, having gone by way of desire, was destroyed together with his kingdom, therefore the wise do not praise going by way of desire.
Tasmā hi chandāgamanaṃ có nghĩa là “vì vua Bharu đã bị diệt vong cùng với vương quốc do hành động thiên vị, nên những người trí không tán dương sự thiên vị.”
Aduṭṭhacittoti kilesehi adūsitacitto hutvā.
Aduṭṭhacitto means having a mind undefiled by defilements.
Aduṭṭhacitto có nghĩa là với tâm không bị ô nhiễm bởi các phiền não.
Bhāseyya giraṃ saccupasaṃhitanti sabhāvanissitaṃ atthanissitaṃ kāraṇanissitameva giraṃ bhāseyya.
Bhāseyya giraṃ saccupasaṃhita means one should speak words that are indeed based on truth, based on meaning, based on reason.
Bhāseyya giraṃ saccupasaṃhita có nghĩa là chỉ nên nói lời dựa trên sự thật, dựa trên ý nghĩa, dựa trên lý do.
Ye hi tattha bharurañño lañjaṃ gaṇhantassa ayuttaṃ etanti paṭikkosantā saccupasaṃhitaṃ giraṃ bhāsiṃsu, tesaṃ ṭhitaṭṭhānaṃ nāḷikeradīpe ajjāpi dīpakasahassaṃ paññāyatīti.
Indeed, the place where those who, in protest of King Bharu taking bribes, spoke words imbued with truth, is still known today as a thousand islands in the Nāḷikera Island.
Những người đã nói lời chân thật, phản đối rằng việc vua Bharu nhận hối lộ là sai trái, nơi họ ở, hòn đảo dừa, ngày nay vẫn còn được biết đến với hàng ngàn hòn đảo.
1036
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā ‘‘mahārāja, chandavasikena nāma na bhavitabbaṃ, dve pabbajitagaṇe kalahaṃ kāretuṃ na vaṭṭatī’’ti vatvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘ahaṃ tena samayena jeṭṭhakaisi ahosi’’nti, rājā tathāgatassa bhattakiccaṃ katvā gatakāle manusse pesetvā titthiyārāmaṃ viddhaṃsāpesi, titthiyā appatiṭṭhā ahesuṃ.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, and saying, ‘‘Great king, one should not be subject to desire; it is not proper to cause strife between two groups of ascetics,’’ connected the Jātaka, saying, ‘‘I was the elder Kaisi at that time.’’ The king, having offered a meal to the Tathāgata, when the Tathāgata had departed, sent men and caused the hermitage of the sectarians to be destroyed. The sectarians became without support.
Bậc Đạo Sư, sau khi kể lại bài pháp này, nói: “Đại vương, không nên bị chi phối bởi dục vọng, không nên để hai nhóm xuất gia cãi vã,” rồi kết hợp câu chuyện Jātaka: “Ta vào thời đó là vị ẩn sĩ lớn tuổi,” và sau khi vua đã cúng dường bữa ăn cho Đức Như Lai, ngài đã sai người đi phá hủy tu viện của các đạo sĩ ngoại đạo, khiến các đạo sĩ ngoại đạo không còn nơi nương tựa.
1037
Bharujātakavaṇṇanā tatiyā.
The third commentary on the Bharu Jātaka.
Câu chuyện Jātaka Bharu, thứ ba, đã kết thúc.
1038
* 4. Puṇṇanadījātakavaṇṇanā
* 4. Commentary on the Puṇṇanadī Jātaka
* 4. Câu chuyện Jātaka Puṇṇanadī
1039
Puṇṇaṃ nadinti idaṃ satthā jetavane viharanto paññāpāramiṃ ārabbha kathesi.
Puṇṇaṃ nadiṃ (A full river)—The Teacher, residing at Jetavana, told this story concerning the perfection of wisdom.
Puṇṇaṃ nadiṃ (Dòng sông đầy) – câu chuyện này được Bậc Đạo Sư kể tại Jetavana, liên quan đến Ba-la-mật về trí tuệ.
Ekasmiñhi divase dhammasabhāyaṃ bhikkhū tathāgatassa paññaṃ ārabbha kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, sammāsambuddho mahāpañño puthupañño hāsapañño javanapañño tikkhapañño gambhīrapañño nibbedhikapañño upāyapaññāya samannāgato’’ti.
Indeed, one day in the Dhamma hall, bhikkhus raised a discussion concerning the Tathāgata’s wisdom, saying, ‘‘Friends, the Perfectly Awakened One is greatly wise, widely wise, joyfully wise, swiftly wise, sharply wise, profoundly wise, penetratively wise, endowed with skillful wisdom.’’
Một ngày nọ, trong pháp đường, các tỳ khưu đã khởi xướng cuộc đàm luận về trí tuệ của Đức Như Lai: “Thưa các bạn, Đức Chánh Đẳng Giác là bậc có đại trí tuệ, có quảng trí tuệ, có trí tuệ nhanh nhạy, có trí tuệ sắc bén, có trí tuệ sâu sắc, có trí tuệ thấu suốt, và được trang bị trí tuệ phương tiện khéo léo.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi tathāgato paññavā upāyakusaloyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher, having arrived, asked, ‘‘Bhikkhus, with what topic are you now gathered?’’ And when they replied, ‘‘With this topic, venerable sir,’’ he said, ‘‘Bhikkhus, it is not only now, but in the past too, the Tathāgata was wise and skillful in means,’’ and he related a past event.
Bậc Đạo Sư đến, hỏi: “Này các tỳ khưu, hiện giờ các ông đang ngồi nói chuyện gì vậy?” Khi được trả lời: “Thưa Tôn giả, chúng con đang nói chuyện này,” ngài nói: “Này các tỳ khưu, không chỉ bây giờ, mà trước đây Đức Như Lai cũng là bậc có trí tuệ và khéo léo trong phương tiện,” rồi kể lại câu chuyện quá khứ.
1040
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto purohitakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sabbasippāni uggaṇhitvā pitu accayena purohitaṭṭhānaṃ labhitvā bārāṇasirañño atthadhammānusāsako ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family. When he came of age, he learned all arts at Takkasilā, and after his father’s passing, he obtained the position of royal chaplain and became the advisor on welfare and Dhamma to the king of Bārāṇasī.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát sinh ra trong gia đình một vị quan tư tế. Khi trưởng thành, ngài học tất cả các nghề ở Takkasilā, và sau khi cha ngài qua đời, ngài nhận chức quan tư tế và trở thành người cố vấn về lợi ích và Chánh pháp cho vua Bārāṇasī.
Aparabhāge rājā paribhedakānaṃ kathaṃ gahetvā bodhisattassa kuddho ‘‘mā mama santike vasī’’ti bodhisattaṃ bārāṇasito pabbājesi.
Later, the king, swayed by the words of slanderers, became angry with the Bodhisatta and banished him from Bārāṇasī, saying, ‘‘Do not live near me.’’
Sau đó, vua nghe lời những kẻ chia rẽ, nổi giận với Bồ Tát và trục xuất ngài khỏi Bārāṇasī, nói: “Đừng ở gần ta nữa.”
Bodhisatto puttadāraṃ gahetvā ekasmiṃ kāsikagāmake vāsaṃ kappesi.
The Bodhisatta, taking his wife and children, settled in a certain Kāsika village.
Bồ Tát cùng vợ con đến cư ngụ tại một ngôi làng ở xứ Kāsī.
Aparabhāge rājā tassa guṇaṃ saritvā ‘‘mayhaṃ kañci pesetvā ācariyaṃ pakkosituṃ na yuttaṃ, ekaṃ pana gāthaṃ bandhitvā paṇṇaṃ likhitvā kākamaṃsaṃ pacāpetvā paṇṇañca maṃsañca setavatthena paliveṭhetvā rājamuddikāya lañchetvā pesessāmi.
Later, the king, remembering his virtues, thought, ‘‘It is not proper for me to send someone to summon my teacher. However, I shall compose a verse, write it on a letter, have crow’s meat cooked, wrap both the letter and the meat in white cloth, seal it with the royal seal, and send it.
Sau đó, vua nhớ đến đức hạnh của ngài và nghĩ: “Không nên sai ai đó đi mời vị thầy của ta. Ta sẽ làm một bài kệ, viết vào một lá thư, nấu thịt quạ, gói lá thư và thịt vào một tấm vải trắng, đóng ấn hoàng gia và gửi đi.
Yadi paṇḍito bhavissati, paṇṇaṃ vācetvā kākamaṃsabhāvaṃ ñatvā āgamissati, no ce, nāgamissatī’’ti ‘‘puṇṇaṃ nadi’’nti imaṃ gāthaṃ paṇṇe likhi –
If he is wise, he will read the letter, understand it is crow’s meat, and come. If not, he will not come.’’ Thus, he wrote this verse, ‘‘Puṇṇaṃ nadiṃ’’ (A full river), on the letter:
Nếu ngài là bậc trí tuệ, ngài sẽ đọc lá thư, biết đó là thịt quạ và sẽ đến; nếu không, ngài sẽ không đến.” Rồi ngài viết bài kệ “Puṇṇaṃ nadiṃ” này vào lá thư:
1041
127.
127.
127.
1042
‘‘Puṇṇaṃ nadiṃ yena ca peyyamāhu, jātaṃ yavaṃ yena ca guyhamāhu;
‘‘A full river, they say, where one may drink; the grown barley, they say, where one may hide;
“Dòng sông đầy, người ta nói là có thể uống được; lúa đã mọc, người ta nói là có thể ẩn nấp được;
1043
Dūraṃ gataṃ yena ca avhayanti, so tyāgato handa ca bhuñja brāhmaṇā’’ti.
He who has gone far, they say, where one may call; that one has come to you, O brahmin, now eat!’’
Người đi xa, người ta nói là có thể gọi về. Vị ấy đã đến, này Bà-la-môn, hãy dùng bữa đi.”
1044
Tattha puṇṇaṃ nadiṃ yena ca peyyamāhūti kākapeyyā nadīhi vadantā yena puṇṇaṃ nadiṃ kākapeyyamāhu, na hi apuṇṇā nadī ‘‘kākapeyyā’’ti vuccati.
Here, puṇṇaṃ nadiṃ yena ca peyyamāhū means that by which they speak of a river drinkable by crows. An incomplete river is not called ‘‘drinkable by crows.’’
Ở đây, puṇṇaṃ nadiṃ yena ca peyyamāhū có nghĩa là, khi họ nói về những dòng sông mà quạ có thể uống được, họ nói về dòng sông đầy, vì một dòng sông không đầy thì không được gọi là “quạ uống được.”
Yadāpi nadītīre ṭhatvā gīvaṃ pasāretvā kākena pātuṃ sakkā hoti, tadā naṃ ‘‘kākapeyyā’’ti vadanti.
When a crow can stand on the riverbank and stretch its neck to drink, then they call it ‘‘drinkable by crows.’’
Khi một con quạ có thể vươn cổ ra để uống nước khi đứng trên bờ sông, thì người ta gọi nó là “quạ uống được.”
Jātaṃ yavaṃ yena ca guyhamāhūti yavanti desanāsīsamattaṃ, idha pana sabbampi jātaṃ uggataṃ sampannataruṇasassaṃ adhippetaṃ.
Jātaṃ yavaṃ yena ca guyhamāhūyavaṃ (barley) is merely the head of the teaching; here, all grown, risen, and well-developed young crops are intended.
Jātaṃ yavaṃ yena ca guyhamāhūyavaṃ chỉ là một phần của lời dạy, nhưng ở đây có nghĩa là tất cả các loại cây trồng non đã mọc lên và phát triển đầy đủ.
Tañhi yadā anto paviṭṭhakākaṃ paṭicchādetuṃ sakkoti, tadā guyhatīti guyhaṃ.
For when it can conceal a crow that has entered it, then it is hidden, hence ‘‘guyhaṃ’’ (hidden).
Khi cây trồng đó có thể che giấu một con quạ đã vào bên trong, thì nó được gọi là guyhaṃ (nơi ẩn nấp).
Kiṃ guyhati?
What is hidden?
Cái gì được che giấu?
Kākaṃ.
A crow.
Con quạ.
Iti kākassa guyhaṃ kākaguyhanti taṃ vadamānā kākena guyhavacanassa kāraṇabhūtena ‘‘guyha’’nti vadanti.
Thus, speaking of the crow’s hiding place as ‘‘kākaguyhaṃ,’’ they call it ‘‘guyhaṃ’’ (hidden) because it is the cause of the crow’s being hidden.
Vì vậy, khi nói về nơi ẩn nấp của quạ, họ gọi nó là “guyha” (nơi ẩn nấp) do con quạ là nguyên nhân của lời nói đó.
Tena vuttaṃ ‘‘yena ca guyhamāhū’’ti.
Therefore, it is said, ‘‘yena ca guyhamāhū’’ (where one may hide).
Do đó, có câu: “yena ca guyhamāhū.”
Dūraṃ gataṃ yena ca avhayantīti dūraṃ gataṃ vippavutthaṃ piyapuggalaṃ yaṃ āgantvā nisinnaṃ disvā sace itthannāmo āgacchati, vassa kākāti vā vassantaññeva vā sutvā ‘‘yathā kāko vassati, itthannāmo āgamissatī’’ti evaṃ vadantā yena ca avhayanti kathenti mantenti, udāharantīti attho.
Dūraṃ gataṃ yena ca avhayantīti means that by which they call, speak, consult, or utter when they see a beloved person who has gone far, who is absent, and has come and sat down, saying, ‘‘If so-and-so comes, a crow calls,’’ or hearing a crow call, they say, ‘‘Just as the crow calls, so-and-so will come.’’ This is the meaning.
Dūraṃ gataṃ yena ca avhayantī có nghĩa là, khi một người thân yêu đã đi xa, vắng mặt, và khi thấy một con quạ đến đậu, họ nói: “Nếu người tên là X đến, con quạ sẽ kêu,” hoặc khi nghe tiếng quạ kêu, họ nói: “Con quạ kêu như vậy, người tên là X sẽ đến.” Bằng cách đó, họ gọi, nói chuyện, bàn bạc, hoặc tường thuật, đó là ý nghĩa.
So tyāgatoti so te ānīto.
So tyāgatoti means ‘‘that one has been brought to you.’’
So tyāgato có nghĩa là “người đó đã được mang đến cho ông.”
Handa ca bhuñja, brāhmaṇāti gaṇha, brāhmaṇa, bhuñjassu naṃ, khāda idaṃ kākamaṃsanti attho.
Handa ca bhuñja, brāhmaṇāti means ‘‘Take it, brahmin, eat it, consume this crow’s meat.’’
Handa ca bhuñja, brāhmaṇā có nghĩa là “này Bà-la-môn, hãy nhận lấy và dùng bữa, hãy ăn thịt quạ này,” đó là ý nghĩa.
1045
Iti rājā imaṃ gāthaṃ paṇṇe likhitvā bodhisattassa pesesi.
Thus, the king wrote this verse on a letter and sent it to the Bodhisatta.
Vua đã viết bài kệ này vào lá thư và gửi cho Bồ Tát.
So paṇṇaṃ vācetvā ‘‘rājā maṃ daṭṭhukāmo’’ti ñatvā dutiyaṃ gāthamāha –
He read the letter, understood that ‘‘the king wishes to see me,’’ and spoke the second verse:
Ngài đọc lá thư, biết rằng “vua muốn gặp ta,” bèn nói bài kệ thứ hai:
1046
128.
128.
128.
1047
‘‘Yato maṃ saratī rājā, vāyasampi pahetave;
‘‘Since the king remembers me, even to send a crow;
“Khi vua nhớ đến ta, ngay cả để gửi thịt quạ;
1048
Haṃsā koñcā mayūrā ca, asatīyeva pāpiyā’’ti.
Swans, cranes, and peacocks – indeed, unfaithfulness is evil."
Thiên nga, sếu, công, chúng còn xấu xa hơn.”
1049
Tattha yato maṃ saratī rājā, vāyasampi pahetaveti yadā rājā vāyasamaṃsaṃ labhitvā tampi pahetuṃ maṃ sarati.
There, regarding the verse: "Since the king remembers me, even to send crow's flesh," it means when the king obtains crow's flesh and remembers me to send even that.
Ở đây, yato maṃ saratī rājā, vāyasampi pahetave có nghĩa là “khi vua nhớ đến ta ngay cả để gửi thịt quạ mà ngài đã nhận được.”
Haṃsā koñcā mayūrā cāti yadā panassa ete haṃsādayo upanītā bhavissanti, ekāni haṃsamaṃsādīni lacchati, tadā maṃ kasmā na sarissatīti attho?
"Swans, cranes, and peacocks" means when these swans and others are brought to him, he will obtain swan's flesh and so on; at that time, why would he not remember me? This is the meaning.
Haṃsā koñcā mayūrā cā có nghĩa là “khi những con thiên nga, sếu, công này được mang đến cho ngài, ngài sẽ nhận được thịt thiên nga, v.v., vậy tại sao ngài lại không nhớ đến ta?” Đó là ý nghĩa.
Aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘haṃsakoñcamayūrāna’’nti pāṭho.
In the Commentary, however, the reading is "of swans, cranes, and peacocks."
Tuy nhiên, trong Aṭṭhakathā, có một cách đọc là “haṃsakoñcamayūrānaṃ.”
So sundaratarā, imesaṃ haṃsādīnaṃ maṃsaṃ labhitvā kasmā maṃ na sarissati, sarissatiyevāti attho.
That is more beautiful. When he obtains the flesh of these swans and so on, why would he not remember me? He will certainly remember me, this is the meaning.
Cách đọc đó hay hơn, ý nghĩa là: “Khi ngài nhận được thịt của những con thiên nga, v.v., tại sao ngài lại không nhớ đến ta? Ngài chắc chắn sẽ nhớ đến.”
Asatīyeva pāpiyāti yaṃ vā taṃ vā labhitvā saraṇaṃ nāma sundaraṃ, lokasmiṃ pana asatiyeva pāpiyā, asatikaraṇaṃyeva hīnaṃ lāmakaṃ, tañca amhākaṃ rañño natthi.
"Indeed, unfaithfulness is evil" means that remembering, having obtained whatever it may be, is good. But in the world, unfaithfulness itself is evil; the act of being unfaithful is indeed inferior and wretched, and that is not present in our king.
Quên lãng là tệ hại nhất (Asatīyeva pāpiyā) nghĩa là, dù có được bất cứ thứ gì, sự ghi nhớ là điều tốt đẹp. Nhưng trên thế gian này, sự quên lãng là tệ hại nhất, hành động quên lãng là thấp hèn, đáng khinh bỉ, và điều đó không có ở vua của chúng ta.
Sarati maṃ rājā, āgamanaṃ me paccāsīsati, tasmā gamissāmīti yānaṃ yojāpetvā gantvā rājānaṃ passi, rājā tussitvā purohitaṭṭhāneyeva patiṭṭhāpesi.
The king remembers me, he will expect my arrival, therefore I shall go. So, he had a carriage yoked, went, and saw the king. The king was pleased and established him in the position of chief chaplain.
"Đức vua nhớ đến ta, Ngài sẽ mong đợi sự trở lại của ta, vậy nên ta sẽ đi," nói xong, ông cho chuẩn bị xe và đi gặp đức vua. Đức vua hoan hỷ và lập ông vào đúng vị trí của vị đạo sĩ hoàng gia (purohita).
1050
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā ānando ahosi, purohito pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka – "At that time, the king was Ānanda, and the chief chaplain was I myself."
Bậc Đạo Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka – "Khi ấy, đức vua là Ānanda, còn vị đạo sĩ hoàng gia chính là Ta vậy."
1051
Puṇṇanadījātakavaṇṇanā catutthā.
The Fourth Account of the Puṇṇanadī Jātaka.
Câu chuyện Puṇṇanadī Jātaka, thứ tư, chấm dứt.
1052
* 5. Kacchapajātakavaṇṇanā
* 5. The Account of the Kacchapa Jātaka
* 5. Câu chuyện Kacchapa Jātaka
1053
Avadhī vata attānanti idaṃ satthā jetavane viharanto kokālikaṃ ārabbha kathesi.
"Indeed, he has killed himself" – the Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning Kokālika.
Thật đáng tiếc, nó đã tự hủy hoại chính mình (Avadhī vata attānaṃ) – Bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi đang trú ngụ tại Jetavana, liên quan đến Kokālika.
Vatthu mahātakkārijātake (jā. 1.13.104 ādayo) āvi-bhavissati.
The story will be revealed in the Mahātakkāri Jātaka.
Câu chuyện này sẽ được trình bày rõ trong Mahātakkāri Jātaka.
Tadā pana satthā ‘‘na, bhikkhave, kokāliko idāneva vācāya hato, pubbepi vācāya hatoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, the Teacher said, "Monks, Kokālika was not destroyed by speech only now; he was destroyed by speech in the past as well," and then recounted a past event.
Khi đó, Bậc Đạo Sư nói: "Này các Tỳ-khưu, Kokālika không chỉ bị hủy hoại bởi lời nói trong hiện tại, mà trong quá khứ cũng đã bị hủy hoại bởi lời nói," rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1054
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto amaccakule nibbattitvā vayappatto tassa atthadhammānusāsako ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a minister's family and, having come of age, became his advisor on matters of welfare and righteousness.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình quan đại thần, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài trở thành cố vấn về lợi ích và Chánh pháp (atthadhammānusāsaka) cho đức vua.
So pana rājā bahubhāṇī ahosi, tasmiṃ kathente aññesaṃ vacanassa okāso nāma natthi.
That king, however, was very talkative; when he spoke, there was no opportunity for others to speak.
Nhưng vị vua này nói rất nhiều, đến nỗi khi ngài nói, không ai khác có cơ hội cất lời.
Bodhisatto tassa taṃ bahubhāṇitaṃ vāretukāmo ekaṃ upāyaṃ upadhārento vicarati.
The Bodhisatta, wishing to curb his excessive talkativeness, sought a way to do so.
Bồ-tát mong muốn ngăn chặn thói nói nhiều của đức vua, nên Ngài đi tìm một phương cách.
Tasmiñca kāle himavantapadese ekasmiṃ sare kacchapo vasati, dve haṃsapotakā gocarāya carantā tena saddhiṃ vissāsaṃ akaṃsu.
At that time, a tortoise lived in a certain lake in the Himālaya region, and two young swans, while foraging, became intimate with him.
Vào thời điểm đó, có một con rùa sống trong một cái hồ ở vùng Himavanta. Hai con ngỗng con đi kiếm ăn và trở nên thân thiết với nó.
Te daḷhavissāsikā hutvā ekadivasaṃ kacchapaṃ āhaṃsu – ‘‘samma kacchapa, amhākaṃ himavante cittakūṭapabbatatale kañcanaguhāyaṃ vasanaṭṭhānaṃ ramaṇīyo padeso, gacchasi amhākaṃ saddhi’’nti.
Having become very intimate, one day they said to the tortoise, "Friend tortoise, our dwelling place at the foot of the Cittakūṭa mountain in the Himālaya is a delightful region. Will you come with us?"
Sau khi trở nên rất thân thiết, một ngày nọ, chúng nói với con rùa: "Này bạn rùa, nơi chúng tôi sống ở Himavanta, dưới chân núi Cittakūṭa trong hang Kañcana, là một vùng đất đẹp đẽ. Bạn có muốn đi cùng chúng tôi không?"
‘‘Ahaṃ kinti katvā gamissāmī’’ti?
"How shall I go?"
"Tôi sẽ đi bằng cách nào đây?"
‘‘Mayaṃ taṃ gahetvā gamissāma, sace tvaṃ mukhaṃ rakkhituṃ sakkhissasi, kassaci kiñci na kathessasī’’ti.
"We will carry you. If you can guard your mouth and say nothing to anyone."
"Chúng tôi sẽ mang bạn đi. Nếu bạn có thể giữ miệng, không nói bất cứ điều gì với ai."
‘‘Rakkhissāmi, sāmi, gahetvā maṃ gacchathā’’ti.
"I will guard it, masters; take me and go," he said.
"Tôi sẽ giữ miệng, thưa chủ nhân, xin hãy mang tôi đi," con rùa nói.
Te ‘‘sādhū’’ti vatvā ekaṃ daṇḍakaṃ kacchapena ḍaṃsāpetvā sayaṃ tassa ubho koṭiyo ḍaṃsitvā ākāsaṃ pakkhandiṃsu.
They said, "Very well," and made the tortoise bite a stick, then they themselves bit both ends of it and soared into the sky.
Chúng nói "Được thôi," rồi cho con rùa cắn vào một cành cây, còn chúng thì cắn vào hai đầu cành cây và bay lên không trung.
Taṃ tathā haṃsehi nīyamānaṃ gāmadārakā disvā ‘‘dve haṃsā kacchapaṃ daṇḍakena harantī’’ti āhaṃsu.
Village children, seeing him being carried thus by the swans, exclaimed, "Two swans are carrying a tortoise with a stick!"
Những đứa trẻ trong làng nhìn thấy con rùa được ngỗng mang đi như vậy liền reo lên: "Hai con ngỗng đang mang một con rùa bằng cành cây!"
1055
Kacchapo ‘‘yadi maṃ sahāyakā nenti, tumhākaṃ ettha kiṃ duṭṭhaceṭakā’’ti vattukāmo haṃsānaṃ sīghavegatāya bārāṇasinagare rājanivesanassa uparibhāgaṃ sampattakāle daṭṭhaṭṭhānato daṇḍakaṃ vissajjetvā ākāsaṅgaṇe patitvā dvebhāgo ahosi, ‘‘kacchapo ākāsato patitvā dvedhā bhinno’’ti ekakolāhalaṃ ahosi.
The tortoise, wishing to say, "If my friends are carrying me, what concern is it of yours, you naughty boys?" released the stick from the place where he was biting it when they had reached above the royal palace in Bārāṇasī due to the swans' swift flight, and fell into the open sky, breaking into two parts. There was a great clamour: "The tortoise fell from the sky and split in two!"
Con rùa, muốn nói: "Nếu bạn bè tôi mang tôi đi, thì lũ trẻ hư đốn các người có liên quan gì đâu?", nhưng vì tốc độ bay nhanh của ngỗng, khi chúng đến trên cung điện hoàng gia ở thành phố Bārāṇasī, con rùa đã buông cành cây từ nơi nó đang cắn, rơi xuống sân trời và bị vỡ làm đôi. Có một tiếng ồn ào: "Con rùa rơi từ trên trời xuống và bị vỡ làm đôi!"
Rājā bodhisattaṃ ādāya amaccagaṇaparivuto taṃ ṭhānaṃ gantvā kacchapaṃ disvā bodhisattaṃ pucchi – ‘‘paṇḍita, kinti katvā esa patito’’ti?
The king, taking the Bodhisatta and accompanied by a retinue of ministers, went to that spot, saw the tortoise, and asked the Bodhisatta, "Sage, how did this one fall?"
Đức vua, cùng với Bồ-tát và đoàn đại thần, đến nơi đó, nhìn thấy con rùa và hỏi Bồ-tát: "Này hiền giả, tại sao nó lại rơi xuống như vậy?"
Bodhisatto ‘‘cirapaṭikaṅkhohaṃ rājānaṃ ovaditukāmo upāyaṃ upadhārento carāmi, iminā kacchapena haṃsehi saddhiṃ vissāso kato bhavissati, tehi imaṃ ‘himavantaṃ nessāmā'ti daṇḍakaṃ ḍaṃsāpetvā ākāsaṃ pakkhantehi bhavitabbaṃ, atha iminā kassaci vacanaṃ sutvā arakkhitamukhatāya kiñci vattukāmena daṇḍakā vissaṭṭho bhavissati, evaṃ ākāsato patitvā jīvitakkhayaṃ patteneva bhavitabba’’nti cintetvā ‘‘āma mahārāja, atimukharā nāma apariyantavacanā evarūpaṃ dukkhaṃ pāpuṇantiyevā’’ti vatvā imā gāthā avoca –
The Bodhisatta, thinking, "For a long time I have desired to admonish the king, and I have been seeking a means. This tortoise will have become intimate with the geese. They will have made it bite a stick, saying, 'We will take you to the Himalayas,' and flown into the sky. Then, upon hearing someone's words, this one, due to its unguarded mouth, will desire to say something and release the stick. Thus, it will have fallen from the sky and met its end," said, "Yes, great king, indeed, talkative ones, those with endless words, certainly meet with such suffering," and spoke these verses:
Bồ-tát nghĩ: "Ta đã mong muốn khuyên răn đức vua từ lâu và đang tìm kiếm một phương cách. Con rùa này chắc hẳn đã trở nên thân thiết với những con ngỗng. Chắc hẳn chúng đã cho nó cắn vào cành cây và bay lên không trung để mang nó đến Himavanta. Sau đó, con rùa này, vì không giữ được miệng, muốn nói điều gì đó khi nghe lời của ai đó, nên đã buông cành cây. Chắc hẳn nó đã rơi từ trên trời xuống và mất mạng như vậy." Rồi Ngài nói: "Đúng vậy, Đại vương, những kẻ nói quá nhiều, lời nói không có giới hạn, thường gặp phải những khổ đau như thế này," và Ngài đọc những câu kệ sau:
1056
129.
129.
129.
1057
‘‘Avadhī vata attānaṃ, kacchapo byāharaṃ giraṃ;
“The tortoise, indeed, destroyed itself by uttering words;
"Thật đáng tiếc, con rùa tự hủy hoại mình,
1058
Suggahītasmiṃ kaṭṭhasmiṃ, vācāya sakiyāvadhi.
Though firmly holding the stick, it destroyed itself by its own speech.
Khi nó đang cắn chặt cành cây, nó đã tự hủy hoại mình bằng lời nói của chính nó.
1059
130.
130.
130.
1060
‘‘Etampi disvā naravīriyaseṭṭha, vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ;
“Seeing this too, O best of men in vigor, one should utter wholesome speech, not excessively;
"Này bậc tối thượng trong những người dũng mãnh, thấy điều này,
1061
Passasi bahubhāṇena, kacchapaṃ byasanaṃ gata’’nti.
You see the tortoise has come to ruin through excessive talk.”
Hãy nói lời khéo léo, đừng nói quá nhiều! Ngươi thấy con rùa đã gặp tai họa vì nói nhiều đó sao?"
1062
Tattha avadhī vatāti ghātesi vata.
Therein, avadhī vatā means 'indeed killed'.
Trong đó, avadhī vatā có nghĩa là thật đáng tiếc, nó đã giết.
Byāharanti byāharanto.
Byāharanti means 'while speaking'.
Byāharanti có nghĩa là khi nói.
Suggahītasmiṃ kaṭṭhasminti mukhena suṭṭhu ḍaṃsitvā gahite daṇḍake.
Suggahītasmiṃ kaṭṭhasminti means 'when the stick was firmly bitten and held in its mouth'.
Suggahītasmiṃ kaṭṭhasmiṃ có nghĩa là khi cắn chặt cành cây bằng miệng.
Vācāya sakiyāvadhīti atimukharatāya akāle vācaṃ nicchārento daṭṭhaṭṭhānaṃ vissajjetvā tāya sakāya vācāya attānaṃ avadhi ghātesi.
Vācāya sakiyāvadhīti means 'by its own speech, due to being overly talkative, by uttering words at the wrong time, it released its biting hold and killed itself with that very speech'.
Vācāya sakiyāvadhī có nghĩa là vì nói quá nhiều, nói ra lời không đúng lúc, nó đã buông nơi đang cắn, và tự hủy hoại, tự giết mình bằng chính lời nói của nó.
Evamesa jīvitakkhayaṃ patto, na aññathāti.
Thus, it met its end, and not otherwise.
Như vậy, nó đã mất mạng, không phải cách nào khác.
Etampi disvāti etampi kāraṇaṃ disvā.
Etampi disvāti means 'seeing this reason too'.
Etampi disvā có nghĩa là khi thấy cả nguyên nhân này.
Naravīriyaseṭṭhāti naresu vīriyena seṭṭha uttamavīriya rājavara.
Naravīriyaseṭṭhāti means 'O best of men in vigor, O king of supreme vigor'.
Naravīriyaseṭṭhā có nghĩa là bậc tối thượng về sự tinh tấn trong loài người, vị vua có sự tinh tấn tối thượng.
Vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelanti saccādipaṭisaṃyuttaṃ kusalameva paṇḍito puriso muñceyya nicchāreyya, tampi hitaṃ kālayuttaṃ, na ativelaṃ, atikkantakālaṃ apariyantavācaṃ na bhāseyya.
Vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelanti means 'a wise person should utter only wholesome speech connected with truth, etc.; that too should be beneficial and timely, not excessive, not untimely, not endless speech'.
Vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ có nghĩa là một người hiền trí nên nói lời thiện lành, liên quan đến sự thật, và cũng là lời có lợi ích, đúng lúc, không quá lời, không nói lời không đúng lúc, không giới hạn.
Passasīti nanu paccakkhato passasi.
Passasīti means 'do you not see directly?'
Passasī có nghĩa là há chẳng phải ngươi thấy tận mắt sao?
Bahubhāṇenāti bahubhaṇanena.
Bahubhāṇenāti means 'by much talking'.
Bahubhāṇenā có nghĩa là do nói nhiều.
Kacchapaṃ byasanaṃ gatanti etaṃ kacchapaṃ jīvitakkhayaṃ pattanti.
Kacchapaṃ byasanaṃ gatanti means 'this tortoise met its end'.
Kacchapaṃ byasanaṃ gata có nghĩa là con rùa này đã mất mạng.
1063
Rājā ‘‘maṃ sandhāya bhāsatī’’ti ñatvā ‘‘amhe sandhāya kathesi, paṇḍitā’’ti āha.
The king, knowing that "he speaks referring to me," said, "You spoke referring to us, O wise one."
Đức vua, hiểu rằng "Ngài đang nói về ta," liền nói: "Hiền giả, ngài đã nói về chúng ta."
Bodhisatto ‘‘mahārāja, tvaṃ vā hohi añño vā, yo koci pamāṇātikkantaṃ bhāsanto evarūpaṃ byasanaṃ pāpuṇātī’’ti pākaṭaṃ katvā kathesi.
The Bodhisatta made it clear, saying, "Whether it be you, great king, or another, whoever speaks excessively meets with such ruin."
Bồ-tát công khai nói: "Đại vương, dù là ngài hay bất cứ ai khác, bất cứ ai nói quá mức đều sẽ gặp phải tai họa như vậy."
Rājā tato paṭṭhāya viramitvā mandabhāṇī ahosi.
From that time on, the king refrained and became a man of few words.
Từ đó trở đi, đức vua đã từ bỏ thói quen đó và trở nên ít nói hơn.
1064
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kacchapo kokāliko ahosi, dve haṃsapotakā dve mahātherā, rājā ānando, amaccapaṇḍito pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the tortoise was Kokālika, the two young geese were the two Mahātheras, the king was Ānanda, and the wise minister was I myself."
Bậc Đạo Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka – "Khi ấy, con rùa là Kokālika, hai con ngỗng con là hai vị Trưởng lão vĩ đại, đức vua là Ānanda, còn vị đại thần hiền trí chính là Ta vậy."
1065
Kacchapajātakavaṇṇanā pañcamā.
The fifth description of the Kacchapa Jātaka.
Câu chuyện Kacchapa Jātaka, thứ năm, chấm dứt.
1066
* 6. Macchajātakavaṇṇanā
* 6. Description of the Maccha Jātaka
* 6. Câu chuyện Maccha Jātaka
1067
Na māyamaggi tapatīti idaṃ satthā jetavane viharanto purāṇadutiyikāpalobhanaṃ ārabbha kathesi.
Na māyamaggi tapatīti – the Teacher, while dwelling at Jetavana, spoke this in connection with a monk who was tempted by his former wife.
Ngọn lửa này không thiêu đốt ta (Na māyamaggi tapatī) – Bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi đang trú ngụ tại Jetavana, liên quan đến việc một tỳ-khưu bị vợ cũ quyến rũ.
Tañhi bhikkhuṃ satthā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti pucchi.
The Teacher asked that monk, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?"
Bậc Đạo Sư hỏi vị tỳ-khưu đó: "Này tỳ-khưu, có thật là ông đang chán nản không?"
‘‘Saccaṃ, bhante’’ti vutte ‘‘kena ukkaṇṭhāpitosī’’ti puṭṭho ‘‘purāṇadutiyikāyā’’ti āha.
When he replied, "Yes, Venerable Sir," and was asked, "By whom were you made discontented?" he said, "By my former wife."
Khi được hỏi "Thật vậy, bạch Thế Tôn," và "Ai đã khiến ông chán nản?", vị tỳ-khưu đáp: "Vợ cũ của con."
Atha naṃ satthā ‘‘ayaṃ te bhikkhu itthī anatthakārikā, pubbepi tvaṃ etaṃ nissāya sūlena vijjhitvā aṅgāresu pacitvā khāditabbataṃ patto paṇḍite nissāya jīvitaṃ alatthā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "This woman, bhikkhu, is harmful to you; in the past too, relying on her, you were pierced with a spit, roasted on coals, and destined to be eaten, but you obtained life through the wise ones," and he recounted a past event.
Bấy giờ, Bậc Đạo Sư nói với ông ta: "Này tỳ-khưu, người phụ nữ này là kẻ gây hại cho ông. Trong quá khứ, vì cô ta mà ông đã bị đâm bằng xiên, bị nướng trên than hồng và suýt bị ăn thịt, nhưng nhờ có người hiền trí mà ông đã giữ được mạng sống," rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1068
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa purohito ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was his purohita.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát là đạo sĩ hoàng gia (purohita) của đức vua.
Athekadivasaṃ kevaṭṭā jāle laggaṃ macchaṃ uddharitvā uṇhavālukāpiṭṭhe ṭhapetvā ‘‘aṅgāresu naṃ pacitvā khādissāmā’’ti sūlaṃ tacchiṃsu.
Then, one day, fishermen pulled out a fish caught in a net, placed it on hot sand, and sharpened a spit, saying, "We will roast it on coals and eat it."
Một ngày nọ, những người đánh cá bắt được một con cá mắc lưới, đặt nó trên bãi cát nóng và nói: "Chúng ta sẽ nướng nó trên than hồng mà ăn," rồi họ vót một cái xiên.
Maccho macchiṃ ārabbha paridevamāno imā gāthā avoca –
The fish, lamenting about its mate, spoke these verses:
Con cá, than khóc vì con cá cái của mình, đã đọc những câu kệ sau:
1069
131.
131.
131.
1070
‘‘Na māyamaggi tapati, na sūlo sādhutacchito;
“This fire does not burn me, nor does the well-sharpened spit;
"Ngọn lửa này không thiêu đốt ta, cái xiên được vót khéo này cũng không;
1071
Yañca maṃ maññate macchī, aññaṃ so ratiyā gato.
But that my mate thinks I have gone to another for pleasure.
Mà chính là ý nghĩ rằng con cá cái của ta đã đi với kẻ khác để hưởng lạc.
1072
132.
132.
132.
1073
‘‘So maṃ dahati rāgaggi, cittaṃ cūpatapeti maṃ;
“That fire of lust burns me, and my mind torments me;
"Ngọn lửa tham ái đó thiêu đốt ta, và tâm ta cũng đang thiêu đốt ta;
1074
Jālino muñcathāyirā maṃ, na kāme haññate kvacī’’ti.
Release me, sirs, from the net, for nowhere is one slain by sensual pleasures.”
Này các vị ngư phủ, xin hãy thả tôi ra, kẻ bị dục vọng hành hạ không đáng bị giết ở bất cứ đâu."
1075
Tattha na māyamaggi tapatīti na maṃ ayaṃ aggi tapati, na tāpaṃ janeti, na socayatīti attho.
Therein, na māyamaggi tapatīti means 'this fire does not burn me, it does not generate heat, it does not cause me sorrow'.
Trong đó, na māyamaggi tapatī có nghĩa là ngọn lửa này không thiêu đốt ta, không gây đau khổ, không làm ta sầu não.
Na sūloti ayaṃ sūlopi sādhutacchito maṃ na tapati, na me sokaṃ uppādeti.
Na sūlo means "Not a stake". This stake, even though well-sharpened, does not torment me, nor does it cause me sorrow.
Na sūlo có nghĩa là cái xiên được vót khéo này cũng không thiêu đốt ta, không gây sầu khổ cho ta.
Yañca maṃ maññateti yaṃ pana maṃ macchī evaṃ maññati ‘‘aññaṃ macchiṃ so pañcakāmaguṇaratiyā gato’’ti, tadeva maṃ tapati socayati.
Yañca maṃ maññate means "And that which she thinks of me". But that which the female fish thinks of me, saying, "He has gone to another female fish for the enjoyment of the five sense pleasures," that alone torments me and makes me grieve.
Yañca maṃ maññate có nghĩa là điều làm ta thiêu đốt và sầu não chính là việc con cá cái nghĩ rằng "nó đã đi với con cá cái khác để hưởng lạc thú của năm dục."
So maṃ dahatīti yo panesa rāgaggi, so maṃ dahati jhāpeti.
So maṃ dahatī means "That burns me". And that fire of lust (rāgaggi) burns me, consumes me.
So maṃ dahatī có nghĩa là ngọn lửa tham ái đó thiêu đốt ta, làm ta cháy bỏng.
Cittaṃ cūpatapeti manti rāgasampayuttakaṃ mama cittameva ca maṃ upatāpeti kilameti viheṭheti.
Cittaṃ cūpatapeti ma means "And the mind torments me". And my mind, associated with lust, itself torments me, exhausts me, and harasses me.
Cittaṃ cūpatapeti manti có nghĩa là chính tâm ta, bị tham ái chi phối, làm ta đau khổ, mệt mỏi, và hành hạ.
Jālinoti kevaṭṭe ālapati.
Jālino means "O net-men", addressing the fishermen.
Jālino là tiếng gọi những người đánh cá.
Te hi jālassa atthitāya ‘‘jālino’’ti vuccanti.
Indeed, because they possess nets, they are called "net-men."
Họ được gọi là "jālino" vì có lưới.
Muñcathāyirā manti muñcatha maṃ sāminoti yācati.
Muñcathāyirā ma means "Release me, sirs," he begs, saying, "Release me, masters."
Muñcathāyirā manti có nghĩa là xin các vị chủ nhân hãy thả tôi ra, nó cầu xin.
Na kāme haññate kvacīti kāme patiṭṭhito kāmena nīyamāno satto na kvaci haññati.
Na kāme haññate kvacī means "One is never harmed by sensual pleasures." A being established in sensual pleasures, led by sensual pleasures, is never harmed anywhere.
Na kāme haññate kvacīti có nghĩa là một chúng sinh bị dục vọng chi phối, bị dục vọng dẫn dắt, không đáng bị giết ở bất cứ đâu.
Na hi taṃ tumhādisā hanituṃ anucchavikāti paridevati.
Indeed, it is not proper for those like you to harm him, he laments.
Nó than khóc rằng không phải những kẻ như các người có thể giết nó.
Atha vā kāmeti hetuvacane bhummaṃ, kāmahetu macchiṃ anubandhamāno nāma na kvaci tumhādisehi haññatīti paridevati.
Alternatively, kāme is in the locative case with a causal meaning, meaning "for the sake of sensual pleasures". He laments, "One who pursues a female fish for the sake of sensual pleasures is never harmed by those like you anywhere."
Hoặc kāme là giới từ chỉ nguyên nhân, nó than khóc rằng một chúng sinh bị ràng buộc bởi dục vọng vì con cá cái không đáng bị giết bởi những kẻ như các người ở bất cứ đâu.
Tasmiṃ khaṇe bodhisatto nadītīraṃ gato tassa macchassa paridevitasaddaṃ sutvā kevaṭṭe upasaṅkamitvā taṃ macchaṃ mocesi.
At that moment, the Bodhisatta went to the riverbank, heard the lament of that fish, approached the fishermen, and released the fish.
Vào lúc đó, Bồ-tát đi đến bờ sông, nghe tiếng than khóc của con cá, Ngài đến gặp những người đánh cá và giải thoát cho con cá.
1076
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher brought forth this Dhamma discourse, revealed the Truths, and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp thoại này, tuyên bố các Chân lý, và kết nối tích truyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, vị Tỳ-khưu chán nản đã an trú vào quả Dự Lưu (Sotāpatti).
‘‘Tadā macchī purāṇadutiyikā ahosi, maccho ukkaṇṭhitabhikkhu, purohito pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the female fish was the former wife; the fish was the discontented bhikkhu; and the purohita was I myself."
“Lúc ấy, con cá mái là người vợ cũ, con cá đực là vị Tỳ-khưu chán nản, còn vị đạo sĩ chính là Ta vậy”.
1077
Macchajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth Commentary on the Maccha Jātaka.
Giải thích về tích truyện Jātaka về con cá (Macchajātakavaṇṇanā), thứ sáu.
1078
* 7. Seggujātakavaṇṇanā
* 7. Commentary on the Seggu Jātaka
* 7. Giải thích về tích truyện Jātaka Seggu
1079
Sabbo lokoti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ paṇṇikaupāsakaṃ ārabbha kathesi.
Sabbo loko means "The whole world". The Teacher told this story while residing at Jetavana, concerning a certain flower-seller lay follower.
Sabbo loko” (Toàn thể thế gian) – Đức Bổn Sư đã nói điều này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một cư sĩ bán lá.
Vatthu ekakanipāte vitthāritameva.
The story is elaborated in the Ekakanipāta.
Câu chuyện đã được kể chi tiết trong Ekakanipāta.
Idhāpi satthā taṃ ‘‘kiṃ, upāsaka, cirassaṃ āgatosī’’ti pucchi.
Here too, the Teacher asked him, "Why, lay follower, have you come after such a long time?"
Ở đây, Đức Bổn Sư cũng hỏi ông ta: “Này cư sĩ, sao lâu rồi ông mới đến vậy?”.
Paṇṇikaupāsako ‘‘dhītā me, bhante, niccaṃ pahaṃsitamukhī, tamahaṃ vīmaṃsitvā ekassa kuladārakassa adāsiṃ, tattha itikattabbatāya tumhākaṃ dassanāya āgantuṃ okāsaṃ na labhi’’nti āha.
The flower-seller lay follower said, "Bhante, my daughter always had a cheerful face. After examining her, I gave her to a young man from a good family. Because of what needed to be done there, I could not find an opportunity to visit you."
Cư sĩ bán lá thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, con gái con luôn có khuôn mặt tươi cười, con đã thử thách con bé và gả cho một chàng trai trong gia đình. Vì việc đó, con không có cơ hội đến yết kiến Đức Thế Tôn”.
Atha naṃ satthā ‘‘na kho, upāsaka, idānevesā sīlavatī, pubbepi sīlavatī, tvañca na idānevetaṃ vīmaṃsasi, pubbepi vīmaṃsiyevā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "Lay follower, she is not virtuous only now; she was virtuous in the past too. And you did not examine her only now; you examined her in the past too." Having said this, and being requested by him, the Teacher related a past event.
Rồi Đức Bổn Sư nói với ông ta: “Này cư sĩ, không phải chỉ bây giờ con bé mới có giới hạnh, mà trong quá khứ nó cũng có giới hạnh. Và ông cũng không phải chỉ bây giờ mới thử thách nó, mà trong quá khứ ông cũng đã thử thách nó rồi”. Sau khi được ông ta thỉnh cầu, Ngài kể chuyện quá khứ.
1080
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto rukkhadevatā ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was a tree deity.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh thành một vị thiên thần cây.
Tadā ayameva paṇṇikaupāsako ‘‘dhītaraṃ vīmaṃsissāmī’’ti araññaṃ netvā kilesavasena icchanto viya hatthe gaṇhi.
At that time, this same flower-seller lay follower, wishing to examine his daughter, took her to the forest and, as if desiring her out of defilement, seized her hand.
Lúc bấy giờ, chính cư sĩ bán lá này, muốn “thử thách con gái mình”, đã đưa con bé vào rừng và nắm tay nó như thể muốn làm điều gì đó theo dục vọng.
Atha naṃ paridevamānaṃ paṭhamagāthāya ajjhabhāsi –
Then, as she lamented, he addressed her with the first verse:
Rồi Ngài nói với cô bé đang than khóc bằng câu kệ đầu tiên:
1081
133.
133.
133.
1082
‘‘Sabbo loko attamano ahosi, akovidā gāmadhammassa seggu;
"The whole world was delighted, Seggu, unskilled in the ways of the village;
“Toàn thể thế gian đều hoan hỷ, Seggu, con thật không hiểu về tục lệ làng xã;
1083
Komāri ko nāma tavajja dhammo, yaṃ tvaṃ gahitā pavane parodasī’’ti.
O maiden, what is this nature of yours today, that you, being seized in the forest, lament?"
Này thiếu nữ, hôm nay con có hạnh kiểm gì, mà con bị nắm giữ giữa rừng lại than khóc?”
1084
Tattha sabbo loko attamano ahosīti, amma, sakalopi sattaloko etissā kāmasevanāya attamano jāto.
Therein, sabbo loko attamano ahosī means, "Mother, all beings are delighted by this indulgence in sensual pleasures."
Trong đó, sabbo loko attamano ahosīti (toàn thể thế gian đều hoan hỷ), này con, toàn thể chúng sinh thế gian đều hoan hỷ với việc hưởng thụ dục lạc này.
Akovidā gāmadhammassa seggūti seggūti tassā nāmaṃ.
Akovidā gāmadhammassa seggū means seggū is her name.
Akovidā gāmadhammassa seggūti (Seggu, con thật không hiểu về tục lệ làng xã), seggū là tên của cô bé.
Tena tvaṃ pana, amma, seggu akovidā gāmadhammassa, imasmiṃ gāmadhamme vasaladhamme akusalāsīti vuttaṃ hoti.
Therefore, "You, mother Seggu, are unskilled in the ways of the village, meaning you are unskillful in this base practice of the village," so it is said.
Do đó, này con, Seggu, con không hiểu về tục lệ làng xã (gāmadhamma), có nghĩa là con không khéo léo trong tục lệ thấp kém này.
Komāri ko nāma tavajja dhammoti, amma, kumāri ko nāmesa tava ajja sabhāvo.
Komāri ko nāma tavajja dhammo means, "Mother, what is this nature of yours today, O maiden?"
Komāri ko nāma tavajja dhammoti (Này thiếu nữ, hôm nay con có hạnh kiểm gì), này con, hôm nay bản chất của con là gì?
Yaṃ tvaṃ gahitā pavane parodasīti tvaṃ mayā imasmiṃ pavane santhavavasena hatthe gahitā parodasi na sampaṭicchasi, ko esa tava sabhāvo, kiṃ kumārikāyeva tvanti pucchati.
Yaṃ tvaṃ gahitā pavane parodasī means, "You, being seized by me in this forest out of familiarity, lament and do not consent. What is this nature of yours? Are you still a maiden?" he asks.
Yaṃ tvaṃ gahitā pavane parodasīti (mà con bị nắm giữ giữa rừng lại than khóc), con bị ta nắm tay giữa rừng vì sự thân mật mà lại than khóc, không chấp nhận. Bản chất này của con là gì? Có phải con vẫn còn là thiếu nữ không? Ngài hỏi.
1085
Taṃ sutvā kumārikā ‘‘āma, tāta, kumārikāyevāhaṃ, nāhaṃ methunadhammaṃ nāma jānāmī’’ti vatvā paridevamānā dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the maiden said, "Yes, father, I am indeed a maiden; I do not know anything about sexual intercourse," and lamenting, she spoke the second verse:
Nghe vậy, cô thiếu nữ nói: “Vâng, cha, con vẫn còn là thiếu nữ, con không biết đến việc giao hợp”, rồi than khóc và nói câu kệ thứ hai:
1086
134.
134.
134.
1087
‘‘Yo dukkhaphuṭṭhāya bhaveyya tāṇaṃ, so me pitā dubbhi vane karoti;
"He who should be a protector to me, afflicted by suffering, that father of mine commits treachery in the forest;
“Người đáng lẽ là chỗ nương tựa cho con khi gặp khổ đau, thì người cha ấy lại làm điều tồi tệ trong rừng;
1088
Sā kassa kandāmi vanassa majjhe, yo tāyitā so sahasaṃ karotī’’ti.
To whom shall I cry in the midst of the forest, when he who should protect me acts violently?"
Con biết kêu ai giữa rừng đây, khi người đáng lẽ che chở lại làm điều bạo ngược?”
1089
Sā heṭṭhā kathitāyeva.
That (explanation) has already been given above.
Ý nghĩa của câu kệ đã được giải thích ở trên.
Iti so paṇṇiko tadā dhītaraṃ vīmaṃsitvā gehaṃ netvā kuladārakassa datvā yathākammaṃ gato.
Thus, that flower-seller, having examined his daughter at that time, took her home, gave her to a young man from a good family, and went his way according to his karma.
Như vậy, người bán lá ấy đã thử thách con gái mình, đưa về nhà, gả cho chàng trai trong gia đình và đã ra đi theo nghiệp của mình.
1090
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne paṇṇikaupāsako sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought this discourse on the Dhamma and revealed the Truths, connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the lay follower Paṇṇika was established in the fruit of stream-entry (sotāpatti).
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp thoại này, tuyên bố các Chân lý, và kết nối tích truyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, cư sĩ bán lá đã an trú vào quả Dự Lưu (Sotāpatti).
‘‘Tadā dhītā dhītāyeva, pitā pitāyeva ahosi, tassa kāraṇassa paccakkhakārikā rukkhadevatā pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the daughter was indeed the daughter, and the father was indeed the father. The tree deity who was an eyewitness to that event was none other than myself."
“Lúc ấy, con gái vẫn là con gái, người cha vẫn là người cha, còn vị thiên thần cây chứng kiến sự việc ấy chính là Ta vậy”.
1091
Seggujātakavaṇṇanā sattamā.
The seventh, the commentary on the Seggu Jātaka.
Giải thích về tích truyện Jātaka Seggu, thứ bảy.
1092
* 8. Kūṭavāṇijajātakavaṇṇanā
* 8. Commentary on the Kūṭavāṇija Jātaka
* 8. Giải thích về tích truyện Jātaka Kūṭavāṇija
1093
Saṭhassa sāṭheyyamidanti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kūṭavāṇijaṃ ārabbha kathesi.
This, " This is deceit for the deceitful," the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning a certain fraudulent merchant.
Saṭhassa sāṭheyyamidaṃ” (Đây là sự gian xảo của kẻ gian xảo) – Đức Bổn Sư đã nói điều này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một thương gia lừa đảo.
Sāvatthivāsino hi kūṭavāṇijo ca paṇḍitavāṇijo ca dve vāṇijā mittikā hutvā pañca sakaṭasatāni bhaṇḍassa pūrāpetvā pubbantato aparantaṃ vicaramānā vohāraṃ katvā bahuṃ lābhaṃ labhitvā sāvatthiṃ paccāgamiṃsu.
Indeed, two merchants dwelling in Sāvatthī, a fraudulent merchant and a wise merchant, became friends, loaded five hundred carts with goods, and traveling from one region to another, conducted trade, gained much profit, and returned to Sāvatthī.
Thật vậy, hai thương gia, một người lừa đảo và một người khôn ngoan, sống ở Sāvatthī, là bạn của nhau. Họ chất đầy hàng hóa lên năm trăm cỗ xe, đi từ miền đông sang miền tây, buôn bán và thu được nhiều lợi nhuận, rồi trở về Sāvatthī.
Paṇḍitavāṇijo kūṭavāṇijaṃ āha – ‘‘samma, bhaṇḍaṃ bhājemā’’ti.
The wise merchant said to the fraudulent merchant, "Friend, let us divide the goods."
Thương gia khôn ngoan nói với thương gia lừa đảo: “Này bạn, chúng ta hãy chia hàng hóa đi”.
Kūṭavāṇijo ‘‘ayaṃ dīgharattaṃ dukkhaseyyāya dubbhojanena kilanto attano ghare nānaggarasaṃ bhattaṃ bhuñjitvā ajīrakena marissati, atha sabbampetaṃ bhaṇḍaṃ mayhameva bhavissatī’’ti cintetvā ‘‘nakkhattaṃ na manāpaṃ, divaso na manāpo, sve jānissāmi, punadivase jānissāmī’’ti kālaṃ khepeti.
The fraudulent merchant thought, "This one, exhausted by a long period of suffering, poor food, and weariness, will eat a meal of various excellent flavors in his own home and die of indigestion, then all these goods will be mine," and so he procrastinated, saying, "The constellation is not auspicious, the day is not auspicious, I will know tomorrow, I will know the day after."
Thương gia lừa đảo nghĩ: “Kẻ này đã mệt mỏi vì nằm đau khổ lâu ngày và ăn uống kham khổ, hắn sẽ chết vì khó tiêu sau khi ăn bữa cơm ngon lành ở nhà, rồi tất cả hàng hóa này sẽ thuộc về ta”. Nghĩ vậy, hắn trì hoãn: “Sao chòm sao không tốt, ngày không tốt, ngày mai ta sẽ biết, ngày kia ta sẽ biết”.
Atha naṃ paṇḍitavāṇijo nippīḷetvā bhājāpetvā gandhamālaṃ ādāya satthu santikaṃ gantvā satthāraṃ pūjetvā vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
Then the wise merchant, having pressed him and had the goods divided, took perfumes and garlands, went to the Teacher's presence, paid homage to the Teacher, worshipped him, and sat down to one side.
Rồi thương gia khôn ngoan thúc ép hắn chia hàng hóa, sau đó mang theo hương hoa đến chỗ Đức Bổn Sư, cúng dường Đức Bổn Sư, đảnh lễ và ngồi xuống một bên.
Satthā ‘‘kadā āgatosī’’ti pucchitvā ‘‘aḍḍhamāsamatto me, bhante, āgatassā’’ti vatvā ‘‘atha kasmā evaṃ papañcaṃ katvā buddhupaṭṭhānaṃ āgatosī’’ti puṭṭho taṃ pavattiṃ ārocesi.
The Teacher asked, "When did you arrive?" and when he said, "It has been about half a month since I arrived, Venerable Sir," and was asked, "Then why have you made such a delay in coming to attend upon the Buddha?", he related the incident.
Đức Bổn Sư hỏi: “Ông đến từ khi nào?”. Khi ông ta thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, con đã đến được nửa tháng rồi”, và được hỏi: “Vậy tại sao ông lại trì hoãn như vậy mà không đến yết kiến chư Phật?”, ông ta đã kể lại câu chuyện.
Satthā ‘‘na kho, upāsaka, idāneva, pubbepesa kūṭavāṇijoyevā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, "It is not only now, lay follower, but in the past too, he was a fraudulent merchant," and being requested by him, recounted a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Này cư sĩ, không phải chỉ bây giờ hắn mới là thương gia lừa đảo, mà trong quá khứ hắn cũng là thương gia lừa đảo”. Sau khi được ông ta thỉnh cầu, Ngài kể chuyện quá khứ.
1094
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto amaccakule nibbattitvā vayappatto tassa vinicchayāmacco ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a minister's family, and when he came of age, he became the king's minister of justice.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh vào gia đình một vị quan, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài trở thành vị quan xét xử của nhà vua.
Tadā gāmavāsī ca nagaravāsī ca dve vāṇijā mittā ahesuṃ.
At that time, two merchants, one from a village and one from the city, were friends.
Lúc bấy giờ, có hai thương gia là bạn của nhau, một người sống ở làng và một người sống ở thành phố.
Gāmavāsī nagaravāsissa santike pañca phālasatāni ṭhapesi.
The village merchant deposited five hundred ploughshares with the city merchant.
Người ở làng đã gửi năm trăm lưỡi cày cho người ở thành phố.
So te phāle vikkiṇitvā mūlaṃ gahetvā phālānaṃ ṭhapitaṭṭhāne mūsikavaccaṃ ākiritvā ṭhapesi.
He sold those ploughshares, took the money, and scattered mouse droppings in the place where the ploughshares had been kept.
Người kia đã bán những lưỡi cày đó, lấy tiền, rồi rải phân chuột vào chỗ để lưỡi cày.
Aparabhāge gāmavāsī āgantvā ‘‘phāle me dehī’’ti āha.
Later, the village merchant came and said, "Give me my ploughshares."
Sau đó, người ở làng đến và nói: “Hãy trả lại lưỡi cày cho tôi”.
Kūṭavāṇijo ‘‘phālā te mūsikāhi khāditā’’ti mūsikavaccaṃ dassesi.
The fraudulent merchant showed the mouse droppings, saying, "Your ploughshares were eaten by mice."
Thương gia lừa đảo nói: “Lưỡi cày của ông đã bị chuột ăn hết rồi”, và chỉ cho xem phân chuột.
Itaro ‘‘khāditāva hontu, mūsikāhi khādite kiṃ sakkā kātu’’nti nhānatthāya tassa puttaṃ ādāya gacchanto ekassa sahāyakassa gehe ‘‘imassa katthaci gantuṃ mā adatthā’’ti vatvā antogabbhe nisīdāpetvā sayaṃ nhāyitvā kūṭavāṇijassa gehaṃ agamāsi.
The other replied, "Let them be eaten; what can be done if they were eaten by mice?" and taking the fraudulent merchant's son to bathe, he went to a friend's house, said, "Don't let him go anywhere," had him sit in an inner room, bathed himself, and then went to the fraudulent merchant's house.
Người kia nói: “Cứ cho là bị ăn đi, chuột ăn thì biết làm sao được”. Rồi ông ta dẫn con trai của người kia đi tắm, gửi ở nhà một người bạn và nói: “Đừng cho nó đi đâu cả”, rồi cho nó ngồi trong phòng kín. Sau khi tự mình tắm xong, ông ta đến nhà thương gia lừa đảo.
So ‘‘putto me kaha’’nti āha.
He asked, "Where is my son?"
Người kia hỏi: “Con trai tôi đâu?”.
‘‘Samma, tava puttaṃ tīre ṭhapetvā mama udake nimuggakāle eko kulalo āgantvā tava puttaṃ nakhapañjarena gahetvā ākāsaṃ pakkhanto, ahaṃ pāṇiṃ paharitvā viravitvā vāyamantopi mocetuṃ nāsakkhi’’nti.
"Friend, when I placed your son on the bank and immersed myself in the water, a kite came, seized your son with its talons, and flew into the sky. Although I struck with my hand, cried out, and struggled, I could not free him."
“Này bạn, khi tôi đặt con trai ông ở bờ sông và lặn xuống nước, một con diều hâu bay đến, dùng móng vuốt cắp con trai ông bay lên trời. Dù tôi đã vỗ tay, la hét và cố gắng, nhưng không thể cứu được”.
‘‘Tvaṃ musā bhaṇasi, kulalā dārake gahetvā gantuṃ samatthā nāma natthī’’ti.
"You are lying. Kites are not capable of carrying away children."
“Ông nói dối, diều hâu không thể cắp trẻ con mà bay đi được”.
‘‘Samma, hotu, ayuttepi honte ahaṃ kiṃ karomi, kulaleneva te putto nīto’’ti.
"Friend, so be it. Even if it is improper, what can I do? Your son was carried away by a kite."
“Này bạn, thôi đi, dù điều đó là vô lý, tôi biết làm sao được? Con trai ông đã bị diều hâu cắp đi rồi”.
So taṃ santajjetvā ‘‘are duṭṭhacora manussamāraka, idāni taṃ vinicchayaṃ gantvā kaḍḍhāpessāmī’’ti nikkhami.
He threatened him, saying, "Hey, wicked thief, murderer of men! Now I will go to court and have you brought there!" and he left.
Hắn đe dọa người kia, nói: “Này, tên trộm độc ác, kẻ giết người, bây giờ ta sẽ đưa ngươi ra tòa án và lôi ngươi đi!” rồi bỏ đi.
So ‘‘mama ruccanakameva karosī’’ti teneva saddhiṃ vinicchayaṭṭhānaṃ agamāsi.
He said, "You are doing what I like," and went with him to the place of judgment.
Hắn (Bồ tát) nói: “Ngươi chỉ làm điều ta thích thôi,” rồi cùng với người lái buôn đó đi đến nơi xét xử.
1095
Kūṭavāṇijo bodhisattaṃ āha – ‘‘ayaṃ, sāmi, mama puttaṃ gahetvā nhāyituṃ gato, ‘kahaṃ me putto’ti vutte ‘kulalena haṭo’ti āha, vinicchinatha me aḍḍa’’nti.
The fraudulent merchant said to the Bodhisatta, "My lord, this man went to bathe taking my son. When I asked, 'Where is my son?' he said, 'He was carried away by a kite.' Please judge my case."
Người lái buôn gian xảo nói với Bồ tát: “Thưa ngài, người này đã đưa con trai của tôi đi tắm, khi tôi hỏi ‘Con trai tôi đâu?’, hắn nói ‘Diều hâu đã tha đi’. Xin ngài hãy phân xử vụ kiện này cho tôi.”
Bodhisatto ‘‘saccaṃ bhaṇe’’ti itaraṃ pucchi.
The Bodhisatta asked the other, "Speak the truth."
Bồ tát hỏi người kia: “Có thật không?”
So āha – ‘‘āma, sāmi, ahaṃ taṃ ādāya gato, senena pahaṭabhāvo saccameva, sāmī’’ti.
He said, "Yes, my lord, I took him. It is true that he was carried away by a bird, my lord."
Người kia nói: “Vâng, thưa ngài, tôi đã đưa đứa bé đi, việc nó bị diều hâu tha đi là sự thật, thưa ngài.”
‘‘Kiṃ pana loke kulalā nāma dārake harantī’’ti?
"But do kites in this world carry away children?"
“Nhưng diều hâu có tha trẻ con trên đời này không?”
‘‘Sāmi, ahampi tumhe pucchāmi – ‘‘kulalā dārake gahetvā ākāse gantuṃ na sakkonti, mūsikā pana ayaphāle khādantī’’ti.
"Master, I also ask you: 'Kites cannot take children and go into the sky, but mice eat iron ploughshares.'"
“Thưa ngài, tôi cũng xin hỏi ngài – Diều hâu không thể tha trẻ con bay lên trời, nhưng chuột lại ăn được lưỡi cày bằng sắt sao?”
‘‘Idaṃ kiṃ nāmā’’ti?
"What is this?"
“Cái này là sao?”
‘‘Sāmi, mayā etassa ghare pañca phālasatāni ṭhapitāni, svāyaṃ ‘phālā te mūsikāhi khāditā’ti vatvā ‘idaṃ te phāle khāditamūsikānaṃ vacca’nti vaccaṃ dasseti, sāmi, mūsikā ce phāle khādanti, kulalāpi dārake harissanti.
"Master, I had placed five hundred ploughshares in his house, and he says, 'Your ploughshares were eaten by mice,' and shows excrement, saying, 'This is the excrement of the mice that ate your ploughshares.' Master, if mice eat ploughshares, then kites will also carry away children.
“Thưa ngài, tôi đã gửi năm trăm lưỡi cày ở nhà hắn, nhưng hắn nói ‘Lưỡi cày của ngươi đã bị chuột ăn hết rồi’ và chỉ cho tôi phân chuột, nói ‘Đây là phân của lũ chuột đã ăn lưỡi cày của ngươi’. Thưa ngài, nếu chuột ăn được lưỡi cày, thì diều hâu cũng sẽ tha trẻ con.
Sace na khādanti, senāpi taṃ na harissanti.
If they do not eat them, then the kites will not carry him away.
Nếu chuột không ăn được, thì diều hâu cũng sẽ không tha đứa bé đó.
Eso pana ‘phālā te mūsikāhi khāditā’ti vadati, tesaṃ khāditabhāvaṃ vā akhāditabhāvaṃ vā jānātha, aḍḍaṃ me vinicchinathā’’ti.
But he says, 'Your ploughshares were eaten by mice.' Know whether they were eaten or not eaten, and judge my case."
Nhưng hắn nói ‘Lưỡi cày của ngươi đã bị chuột ăn hết rồi’, xin ngài hãy tìm hiểu xem chúng có bị ăn hay không và phân xử vụ kiện này cho tôi.”
Bodhisatto ‘‘saṭhassa paṭisāṭheyyaṃ katvā jinissāmīti iminā cintitaṃ bhavissatī’’ti ñatvā ‘‘suṭṭhu te cintita’’nti vatvā imā gāthā avoca –
The Bodhisatta, knowing, "This has been thought by him, 'I will conquer by acting deceitfully towards the deceitful,'" said, "You have thought well," and spoke these verses:
Bồ tát biết rằng: “Người này chắc đã nghĩ rằng mình sẽ chiến thắng bằng cách dùng sự xảo trá đối phó với kẻ xảo trá,” rồi nói “Ngươi đã nghĩ rất hay,” và đọc những bài kệ này:
1096
135.
135.
135.
1097
‘‘Saṭhassa sāṭheyyamiṃda sucintitaṃ, paccoḍḍitaṃ paṭikūṭassa kūṭaṃ;
"This cunning against the cunning is well-conceived; a trick against a trickster is well-placed.
“Sự xảo trá đối với kẻ xảo trá này đã được suy tính kỹ lưỡng,
1098
Phālaṃ ce khādeyyuṃ mūsikā, kasmā kumāraṃ kulalā na hareyyuṃ.
If mice could eat ploughshares, why should kites not carry away a child?
là sự đáp trả lại mưu kế của kẻ lừa đảo. Nếu chuột có thể ăn lưỡi cày, tại sao diều hâu lại không thể tha đứa bé?”
1099
136.
136.
136.
1100
‘‘Kūṭassa hi santi kūṭakūṭā, bhavati cāpi nikatino nikatyā;
Indeed, there are counter-tricks for the trickster, and there is also deceit for the deceitful.
“Thật vậy, đối với kẻ xảo trá có những mưu kế còn xảo trá hơn,
1101
Dehi puttanaṭṭha phālanaṭṭhassa phālaṃ, mā te puttamahāsi phālanaṭṭho’’ti.
Give the ploughshare to the one whose ploughshare was lost, O man whose son was lost; lest the one whose ploughshare was lost take your son."
và đối với kẻ lừa đảo có những sự lừa đảo. Hỡi kẻ mất con, hãy trả lại lưỡi cày cho kẻ mất lưỡi cày, đừng để kẻ mất lưỡi cày cướp mất con của ngươi.”
1102
Tattha saṭhassāti saṭhabhāvena kerāṭikena ‘‘ekaṃ upāyaṃ katvā parasantakaṃ khādituṃ vaṭṭatī’’ti saṭhassa.
Here, saṭhassa means to the deceitful one, to the cunning one who thinks, "It is proper to take another's property by devising a scheme."
Ở đây, saṭhassā có nghĩa là, đối với người xảo quyệt, kẻ lừa đảo, kẻ nghĩ rằng "nên dùng một thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản của người khác".
Sāṭheyyamidaṃ sucintitanti idaṃ paṭisāṭheyyaṃ cintentena tayā suṭṭhu cintitaṃ.
Sāṭheyyamidaṃ sucintitaṃ means this counter-deceit has been well-conceived by you who conceived it.
Sự xảo quyệt này đã được tính toán kỹ lưỡng có nghĩa là, sự xảo quyệt đối lại này đã được ngươi tính toán rất kỹ.
Paccoḍḍitaṃ paṭikūṭassa kūṭanti kūṭassa puggalassa tayā paṭikūṭaṃ suṭṭhu paccoḍḍitaṃ, paṭibhāgaṃ katvā oḍḍitasadisameva katanti attho.
Paccoḍḍitaṃ paṭikūṭassa kūṭaṃ means you have well-placed a counter-trick against the trickster, meaning it has been made like a counter-scheme.
Sự xảo quyệt đối lại đã được giăng bẫy cho kẻ xảo quyệt có nghĩa là, ngươi đã giăng bẫy rất khéo léo cho kẻ xảo quyệt, như thể đã đặt ra một phần đối ứng.
Phālaṃ ce khādeyyuṃ mūsikāti yadi mūsikā phālaṃ khādeyyuṃ.
Phālaṃ ce khādeyyuṃ mūsikā means if mice were to eat a ploughshare.
Nếu chuột ăn cày có nghĩa là, nếu chuột ăn cày.
Kasmā kumāraṃ kulalā na hareyyunti mūsikāsu phāle khādantīsu kulalā kiṃ kāraṇā kumāraṃ no hareyyuṃ.
Kasmā kumāraṃ kulalā na hareyyuṃ means if mice eat ploughshares, for what reason would kites not carry away a child?
Tại sao diều hâu không tha trẻ con? có nghĩa là, khi chuột ăn cày, diều hâu vì lý do gì mà không tha trẻ con?
1103
Kūṭassa hi santi kūṭakūṭāti tvaṃ ‘‘ahameva mūsikāhi phāle khādāpitapuriso kūṭo’’ti maññasi, tādisassa pana kūṭassa imasmiṃ loke bahū kūṭā santi, kūṭassa kūṭāti kūṭapaṭikūṭānaṃ etaṃ nāmaṃ, kūṭassa paṭikūṭā nāma santīti vuttaṃ hoti.
Kūṭassa hi santi kūṭakūṭā means you think, "I am the trickster who had the ploughshares eaten by mice," but for such a trickster, there are many tricksters in this world. "Kūṭassa kūṭā" is a name for counter-tricks to a trick, meaning it is said that there are counter-tricks to a trick.
Thật vậy, đối với kẻ xảo quyệt, có những kẻ xảo quyệt hơn. Ngươi nghĩ rằng: "Chính ta là kẻ xảo quyệt đã khiến chuột ăn cày". Tuy nhiên, trên đời này có rất nhiều kẻ xảo quyệt như vậy. "Kūṭassa kūṭā" là tên gọi của những kẻ xảo quyệt đối lại kẻ xảo quyệt. Điều này có nghĩa là có những kẻ xảo quyệt đối lại kẻ xảo quyệt.
Bhavati cāpi nikatino nikatyāti nikatino nekatikassa vañcanakapuggalassa nikatyā aparo nikatikārako vañcanakapuriso bhavatiyeva.
Bhavati cāpi nikatino nikatyā means for a deceitful, fraudulent person, there is indeed another deceitful, fraudulent person who performs deceit.
Và cũng có kẻ lừa dối đối với kẻ lừa dối có nghĩa là, đối với kẻ lừa dối, kẻ gian trá, kẻ lừa đảo, luôn có một kẻ lừa dối khác xuất hiện.
Dehi puttanaṭṭha phālanaṭṭhassa phālanti ambho naṭṭhaputta purisa, etassa naṭṭhaphālassa phālaṃ dehi.
Dehi puttanaṭṭha phālanaṭṭhassa phālaṃ means, O man whose son is lost, give the ploughshare to this one whose ploughshare is lost.
Hãy trả lại cái cày cho kẻ mất cày, hỡi người mất con có nghĩa là, hỡi người đàn ông mất con, hãy trả lại cái cày cho kẻ mất cày này.
Mā te puttamahāsi phālanaṭṭhoti sace hissa phālaṃ na dassasi, puttaṃ te harissati, taṃ te esa mā haratu, phālamassa dehīti.
Mā te puttamahāsi phālanaṭṭho means if you do not give him the ploughshare, he will carry away your son. Let him not carry away your son; give him the ploughshare.
Đừng để kẻ mất cày cướp mất con của ngươi có nghĩa là, nếu ngươi không trả lại cái cày cho hắn, hắn sẽ cướp mất con của ngươi. Đừng để hắn cướp con của ngươi, hãy trả lại cái cày cho hắn.
‘‘Demi, sāmi, sace me puttaṃ detī’’ti.
"I will give it, Master, if he gives me my son."
"Bạch Đại Đức, con sẽ trả nếu ngài trả lại con của con".
‘‘Demi, sāmi, sace me phāle detī’’ti.
"I will give it, Master, if he gives me my ploughshares."
"Bạch Đại Đức, con sẽ trả nếu ngài trả lại cày của con".
Evaṃ naṭṭhaputto puttaṃ, naṭṭhaphālo ca phālaṃ paṭilabhitvā ubhopi yathākammaṃ gatā.
Thus, the man whose son was lost received his son, and the man whose ploughshare was lost received his ploughshare, and both went their ways according to their deeds.
Như vậy, người mất con đã nhận lại con, và người mất cày cũng nhận lại cày, cả hai đều ra về theo nghiệp của mình.
1104
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kūṭavāṇijo idāni kūṭavāṇijova, paṇḍitavāṇijo paṇḍitavāṇijoyeva, vinicchayāmacco pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "The deceitful merchant at that time is the deceitful merchant now, the wise merchant is the wise merchant now, and the minister of justice was I myself."
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp này, rồi kết nối câu chuyện Jātaka – "Kẻ buôn gian xảo khi ấy chính là kẻ buôn gian xảo bây giờ, vị thương gia trí tuệ khi ấy chính là vị thương gia trí tuệ bây giờ, còn vị quan xét xử khi ấy chính là Ta".
1105
Kūṭavāṇijajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The Eighth: The Story of the Deceitful Merchant Jātaka.
Câu chuyện Jātaka về Kẻ Buôn Gian Xảo, thứ tám.
1106
* 9. Garahitajātakavaṇṇanā
* 9. The Story of the Reproached Jātaka
* 9. Câu chuyện Garahita Jātaka
1107
Hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ meti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ anabhiratiyā ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ me (My silver, my gold) – The Teacher, while residing at Jetavana, told this in reference to a monk who was discontented with dissatisfaction.
Vàng của tôi, bạc của tôi – câu chuyện này được Đức Bổn Sư kể tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ-khưu chán nản, bất mãn.
Etassa hi paccekaṃ gahitaṃ ārammaṇaṃ nāma natthi, anabhirativāsaṃ vasantaṃ pana taṃ satthu santikaṃ ānesuṃ.
For him, there was no individually grasped object; but living in dissatisfaction, he was brought to the Teacher.
Vị ấy không có đối tượng riêng để nắm giữ; khi vị ấy sống trong sự bất mãn, người ta đã đưa vị ấy đến gặp Đức Bổn Sư.
So satthārā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti puṭṭho ‘‘sacca’’nti vatvā ‘‘kiṃkāraṇā’’ti vutte ‘‘kilesavasenā’’ti āha.
When asked by the Teacher, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?" he replied, "It is true." When asked, "For what reason?" he said, "Due to defilements."
Khi được Đức Bổn Sư hỏi: "Này Tỳ-khưu, có thật là ngươi đang chán nản không?", vị ấy trả lời: "Thật vậy", và khi được hỏi "Vì lý do gì?", vị ấy nói: "Vì phiền não".
Atha naṃ satthā ‘‘ayaṃ, bhikkhu, kileso nāma pubbe tiracchānehipi garahito, tvaṃ evarūpe sāsane pabbajito kasmā tiracchānehipi garahitakilesavasena ukkaṇṭhito’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "Bhikkhu, this defilement was formerly reproached even by animals. Why are you, having gone forth in such a teaching, discontented due to defilements that were reproached even by animals?" and then related a past event.
Bấy giờ, Đức Bổn Sư nói với vị ấy: "Này Tỳ-khưu, phiền não này đã bị chê trách ngay cả trong loài súc sinh từ xa xưa. Ngươi đã xuất gia trong giáo pháp như vậy, tại sao lại chán nản vì phiền não đã bị loài súc sinh chê trách?", rồi kể lại câu chuyện quá khứ.
1108
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese vānarayoniyaṃ nibbatti.
In the past, while Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into the monkey species in the Himalayan region.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào loài khỉ ở vùng Himavanta.
Tamenaṃ eko vanacarako gahetvā ānetvā rañño adāsi.
A certain forest-dweller caught him, brought him, and gave him to the king.
Một người thợ săn đã bắt và dâng Ngài cho nhà vua.
So ciraṃ rājagehe vasamāno vattasampanno ahosi, manussaloke vattamānaṃ kiriyaṃ yebhuyyena aññāsi.
Dwelling for a long time in the royal palace, he became endowed with good conduct and mostly understood the customs prevailing in the human world.
Ngài sống lâu trong cung vua, có phẩm hạnh tốt, và phần lớn hiểu biết về các hoạt động của thế giới loài người.
Rājā tassa vatte pasīditvā vanacarakaṃ pakkosāpetvā ‘‘imaṃ vānaraṃ gahitaṭṭhāneyeva vissajjehī’’ti āṇāpesi, so tathā akāsi.
The king, being pleased with his conduct, summoned the forest-dweller and commanded, "Release this monkey right where it was caught." He did so.
Vua hài lòng với phẩm hạnh của Ngài, cho gọi người thợ săn đến và ra lệnh: "Hãy thả con khỉ này ở chính nơi ngươi đã bắt nó". Người thợ săn đã làm như vậy.
Vānaragaṇo bodhisattassa āgatabhāvaṃ ñatvā tassa dassanatthāya mahante pāsāṇapiṭṭhe sannipatitvā bodhisattena saddhiṃ sammodanīyaṃ kathaṃ katvā ‘‘samma, kahaṃ ettakaṃ kālaṃ vutthosī’’ti āha.
The troop of monkeys, knowing of the Bodhisatta's arrival, gathered on a large rock to see him, and after exchanging friendly greetings with the Bodhisatta, they said, "Friend, where have you been dwelling for so long?"
Đàn khỉ biết Bồ-tát đã trở về, tụ tập trên một tảng đá lớn để gặp Ngài, nói chuyện thân mật với Bồ-tát và hỏi: "Này bạn, bạn đã ở đâu bấy lâu nay?".
‘‘Bārāṇasiyaṃ rājanivesane’’ti.
"In the royal palace in Bārāṇasī."
"Ở cung điện vua tại Bārāṇasī".
‘‘Atha kathaṃ muttosī’’ti?
"Then how were you released?"
"Vậy làm sao bạn được thả ra?".
‘‘Rājā maṃ keḷimakkaṭaṃ katvā mama vatte pasanno maṃ vissajjesī’’ti.
"The king made me a pet monkey, and being pleased with my conduct, he released me."
"Vua đã biến ta thành khỉ cưng, hài lòng với phẩm hạnh của ta và đã thả ta".
1109
Atha naṃ te vānarā ‘‘manussaloke vattamānakiriyaṃ nāma tumhe jānissatha, amhākampi tāva kathetha, sotukāmamhā’’ti āhaṃsu.
Then those monkeys said to him, "You must know the customs prevailing in the human world; please tell us, for we wish to hear."
Bấy giờ, những con khỉ đó nói với Ngài: "Bạn chắc chắn biết những hoạt động của thế giới loài người. Hãy kể cho chúng tôi nghe, chúng tôi rất muốn nghe".
‘‘Mā maṃ manussānaṃ kiriyaṃ pucchathā’’ti.
"Do not ask me about human customs."
"Đừng hỏi ta về những hoạt động của loài người".
‘‘Kathetha sotukāmamhā’’ti.
"Please tell us, we wish to hear."
"Hãy kể đi, chúng tôi rất muốn nghe".
Bodhisattopi ‘‘manussā nāma khattiyāpi brāhmaṇāpi ‘mayhaṃ mayha’nti vadanti, hutvā abhāvaṭṭhena aniccataṃ na jānanti, suṇātha dāni tesaṃ andhabālānaṃ kāraṇa’’nti vatvā imā gāthā avoca –
The Bodhisatta then said, "Humans, whether khattiyas or brāhmaṇas, say 'mine, mine,' and do not understand impermanence, that things come into being and then cease to be. Now listen to the reason for these blind fools," and he spoke these verses:
Bồ-tát liền nói: "Loài người, dù là Sát-đế-lợi hay Bà-la-môn, đều nói 'của tôi, của tôi'. Họ không biết tính vô thường của sự vật, rằng chúng sinh rồi diệt. Bây giờ hãy nghe câu chuyện về những kẻ ngu dốt mù quáng đó", rồi Ngài nói những câu kệ sau:
1110
137.
137.
137.
1111
‘‘Hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ me, esā rattiṃ divā kathā;
"My silver, my gold"—this is their talk day and night,
“Vàng của tôi, bạc của tôi,” đó là lời nói ngày đêm;
1112
Dummedhānaṃ manussānaṃ, ariyadhammaṃ apassataṃ.
Of foolish people, not seeing the noble Dhamma.
Của những người ngu dốt, không thấy Pháp bậc Thánh.
1113
138.
138.
138.
1114
‘‘Dve dve gahapatayo gehe, eko tattha amassuko;
"Two householders in a house, one of them beardless,
“Hai gia chủ trong một nhà, một người trong số đó không có râu;
1115
Lambatthano veṇikato, atho aṅkitakaṇṇako;
With pendulous breasts, braided hair, and pierced ears,
Ngực chảy xệ, tóc bện, và tai có dấu ấn;
1116
Kīto dhanena bahunā, so taṃ vitudate jana’’nti.
Bought with much wealth, she torments that person."
Được mua bằng nhiều tiền, người đó lại hành hạ dân chúng.”
1117
Tattha hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ meti desanāsīsamattametaṃ, iminā pana padadvayena dasavidhampi ratanaṃ sabbaṃ, pubbaṇṇāparaṇṇaṃ khettavatthuṃ dvipadacatuppadañca sabbaṃ dassento ‘‘idaṃ me idaṃ me’’ti āha.
Here, hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ me (my silver, my gold) is merely the heading of the discourse; by these two words, however, all ten kinds of jewels, all grains and crops, fields and land, and all bipeds and quadrupeds are shown, saying, "This is mine, this is mine."
Ở đây, vàng của tôi, bạc của tôi chỉ là tiêu đề của bài pháp. Với hai từ này, Ngài muốn chỉ tất cả mười loại châu báu, tất cả các loại ngũ cốc, đất đai, nhà cửa, gia súc hai chân và bốn chân, nói rằng "cái này của tôi, cái kia của tôi".
Esā rattiṃ divā kathāti esā manussānaṃ rattiñca divā ca niccakālaṃ kathā.
Esā rattiṃ divā kathā (this is their talk day and night)—this is the constant talk of humans, day and night.
Đó là lời nói ngày đêm có nghĩa là, đó là lời nói thường xuyên của loài người, ngày lẫn đêm.
Aññaṃ pana te ‘‘pañcakkhandhā aniccā’’ti vā ‘‘hutvā na bhavantī’’ti vā na jānanti, evameva paridevantā vicaranti.
But they do not know that "the five aggregates are impermanent" or "they come into being and then cease to be"; they just wander about lamenting thus.
Họ không biết rằng "năm uẩn là vô thường" hay "chúng sinh rồi diệt", mà chỉ than vãn như vậy.
Dummedhānanti appapaññānaṃ.
Dummedhānanti (of foolish people)—of those with little wisdom.
Dummedhānaṃ có nghĩa là những người ít trí tuệ.
Ariyadhammaṃ apassatanti ariyānaṃ buddhādīnaṃ dhammaṃ, ariyaṃ vā niddosaṃ navavidhaṃ lokuttaradhammaṃ apassantānaṃ esāva kathā.
Ariyadhammaṃ apassatanti (not seeing the noble Dhamma)—this is the talk of those who do not see the Dhamma of the Noble Ones, such as the Buddhas, or the noble, faultless, ninefold supramundane Dhamma.
Không thấy Pháp bậc Thánh có nghĩa là, đây là lời nói của những người không thấy Pháp của các bậc Thánh như chư Phật, hoặc không thấy chín loại Pháp siêu thế vô tội của bậc Thánh.
Aññā pana ‘‘aniccaṃ vā dukkhaṃ vā’’ti tesaṃ kathā nāma natthi.
They have no other talk like "impermanent" or "suffering."
Họ không có lời nói nào khác như "vô thường" hay "khổ đau".
1118
Gahapatayoti gehe adhipatibhūtā.
Gahapatayoti (householders)—those who are masters of the house.
Gahapatayo có nghĩa là những người chủ trong nhà.
Eko tatthāti tesu dvīsu gharasāmikesu ‘‘eko’’ti mātugāmaṃ sandhāya vadati.
Eko tatthāti (one of them)—among those two householders, "one" refers to a woman.
Eko tattha có nghĩa là, trong hai người chủ nhà đó, "một người" ám chỉ người phụ nữ.
Tattha veṇikatoti kataveṇī, nānappakārena saṇṭhāpitakesakalāpoti attho.
Here, veṇikatoti (braided hair)—means having braided hair, that is, a coiffure arranged in various ways.
Ở đây, veṇikato có nghĩa là người có bím tóc, tức là người có mái tóc được tạo kiểu đa dạng.
Atho aṅkitakaṇṇakoti atha sveva viddhakaṇṇo chiddakaṇṇoti lambakaṇṇataṃ sandhāyāha.
Atho aṅkitakaṇṇakoti (and pierced ears)—means having pierced ears, that is, perforated ears, referring to pendulous ears.
Và tai có dấu ấn có nghĩa là, và chính người đó có tai bị xỏ lỗ, tai có lỗ, ám chỉ tai bị kéo dài.
Kīto dhanena bahunāti so panesa amassuko lambatthano veṇikato aṅkitakaṇṇo mātāpitūnaṃ bahuṃ dhanaṃ datvā kīto, maṇḍetvā pasādhetvā yānaṃ āropetvā mahantena parivārena gharaṃ ānīto.
Kīto dhanena bahunāti (bought with much wealth)—this beardless one, with pendulous breasts, braided hair, and pierced ears, was bought by giving much wealth to her parents, adorned and beautified, placed in a vehicle, and brought home with a large retinue.
Được mua bằng nhiều tiền có nghĩa là, người phụ nữ không râu, ngực chảy xệ, tóc bện, tai có dấu ấn đó được mua bằng cách cha mẹ cô ấy nhận nhiều tiền, được trang điểm, trang sức, đưa lên xe và mang về nhà với đoàn tùy tùng lớn.
So taṃ vitudate jananti so gahapati āgatakālato paṭṭhāya tasmiṃ gehe dāsakammakarādibhedaṃ janaṃ ‘‘are duṭṭhadāsa duṭṭhadāsi, imaṃ na karosī’’ti mukhasattīhi vitudati, sāmiko viya hutvā mahājanaṃ vicāreti.
So taṃ vitudate jananti (she torments that person)—that householder, from the time of her arrival, torments the people in that house, such as servants and laborers, with sharp words, saying, "Hey, wicked male servant, wicked female servant, why don't you do this?" She acts like the mistress and manages the household.
Người đó lại hành hạ dân chúng có nghĩa là, từ khi người gia chủ đó đến, người đó đã hành hạ những người trong nhà, bao gồm nô lệ và người làm công, bằng những lời lẽ sắc bén như "Này nô lệ xấu xa, nô tì xấu xa, tại sao ngươi không làm cái này?", và quản lý mọi người như một người chủ.
Evaṃ tāva ‘‘manussaloke ativiya ayutta’’nti manussalokaṃ garahi.
Thus, he condemned the human world, saying, "In the human world, things are exceedingly improper."
Như vậy, Ngài đã chê trách thế giới loài người rằng "trong thế giới loài người, điều này là vô cùng bất xứng".
1119
Taṃ sutvā sabbe vānarā ‘‘mā kathetha, mā kathetha, asotabbayuttakaṃ assumhā’’ti ubhohi hatthehi kaṇṇe daḷhaṃ pidahiṃsu.
Hearing that, all the monkeys firmly covered their ears with both hands, saying, "Do not speak, do not speak; we have heard what should not be heard."
Nghe vậy, tất cả những con khỉ đều bịt chặt tai bằng cả hai tay, nói: "Đừng kể nữa, đừng kể nữa, chúng tôi đã nghe điều bất xứng này".
‘‘Imasmiṃ ṭhāne amhehi idaṃ ayuttaṃ suta’’nti taṃ ṭhānampi garahitvā aññattha agamaṃsu.
Condemning that place, saying, "We have heard something improper in this place," they went elsewhere.
Chúng chê trách cả nơi đó rằng "ở nơi này, chúng ta đã nghe điều bất xứng", rồi đi đến nơi khác.
So piṭṭhipāsāṇo garahitapiṭṭhipāsāṇoyeva kira nāma jāto.
That rock, it is said, became known as the "condemned rock."
Tảng đá lớn đó được gọi là "tảng đá bị chê trách".
1120
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne so bhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having delivered this discourse, revealed the truths and connected the Jātaka. At the conclusion of the truths, that bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp này, tuyên bố các Chân lý, rồi kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân lý được hoàn tất, vị Tỳ-khưu đó đã an trú vào quả vị Nhập Lưu.
‘‘Tadā vānaragaṇo buddhaparisā ahosi, vānarindo pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the troop of monkeys was the Buddha's assembly, and the king of monkeys was I myself."
"Bấy giờ, đàn khỉ là hội chúng của Đức Phật, còn vua khỉ chính là Ta".
1121
Garahitajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth Chapter on the Garahita Jātaka.
Câu chuyện Garahita Jātaka, thứ chín.
1122
* 10. Dhammadhajajātakavaṇṇanā
* 10. The Chapter on the Dhammadhaja Jātaka
* 10. Câu chuyện Dhammadhaja Jātaka
1123
Sukhaṃ jīvitarūposīti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattassa vadhāya parisakkanaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, while dwelling in Veḷuvana, spoke this, beginning with " Sukhaṃ jīvitarūposī," concerning Devadatta's attempt to kill him.
Ngươi sống thật an lạc – câu chuyện này được Đức Bổn Sư kể tại Veluvana, liên quan đến nỗ lực của Devadatta nhằm sát hại Ngài.
Tadā hi satthā ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi devadatto mayhaṃ vadhāya parisakkiyeva, santāsamattampi pana kātuṃ nāsakkhī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, the Teacher said, "Bhikkhus, it is not only now; in the past too, Devadatta tried to kill me, but he could not even cause me a moment of fear," and then he related a past event.
Bấy giờ, Đức Bổn Sư nói: "Này các Tỳ-khưu, không chỉ bây giờ, mà ngay cả trong quá khứ, Devadatta cũng đã cố gắng sát hại Ta, nhưng hắn không thể gây ra dù chỉ một chút sợ hãi", rồi kể lại câu chuyện quá khứ.
1124
Atīte bārāṇasiyaṃ yasapāṇi nāma rājā rajjaṃ kāresi, kāḷako nāmassa senāpati ahosi.
In the past, in Bārāṇasī, a king named Yasapāṇi reigned, and his general was named Kāḷaka.
Trong quá khứ, khi vua Yasapāṇi trị vì ở Bārāṇasī, vị tổng tư lệnh của vua tên là Kāḷaka.
Tadā bodhisatto tasseva purohito ahosi nāmena dhammadhajo nāma, rañño pana sīsappasādhanakappako chattapāṇi nāma.
At that time, the Bodhisatta was the king's chaplain, named Dhammadhaja, and the king's royal barber was named Chattapāṇi.
Bấy giờ, Bồ-tát là vị đạo sư của chính nhà vua, tên là Dhammadhaja, còn người cắt tóc và cầm lọng cho vua tên là Chattapāṇi.
Rājā dhammena rajjaṃ kāreti, senāpati panassa vinicchayaṃ karonto lañjaṃ khādati parapiṭṭhimaṃsiko, lañjaṃ gahetvā assāmike sāmike karoti.
The king ruled righteously, but his general, in making judgments, accepted bribes and sided with the rich, making the rightful owners non-owners.
Vua cai trị bằng Pháp, nhưng tổng tư lệnh của vua lại nhận hối lộ khi xét xử, ăn thịt lưng người khác, nhận hối lộ để biến kẻ không có chủ thành có chủ.
Athekadivasaṃ vinicchaye parājito manusso bāhā paggayha kandanto vinicchayā nikkhanto rājupaṭṭhānaṃ gacchantaṃ bodhisattaṃ disvā tassa pādesu patitvā ‘‘tumhādisesu nāma, sāmi, rañño atthañca dhammañca anusāsantesu kāḷakasenāpati lañjaṃ gahetvā assāmike sāmike karotī’’ti attano parājitabhāvaṃ bodhisattassa kathesi.
Then one day, a man who had lost a case, crying with arms raised, left the court. Seeing the Bodhisatta going to the royal presence, he fell at his feet and told him of his defeat, saying, "Master, when people like you advise the king on welfare and righteousness, General Kāḷaka takes bribes and makes the rightful owners non-owners."
Một ngày nọ, một người bị thua kiện, giơ tay khóc lóc đi ra khỏi nơi xét xử, thấy Bồ tát đang đi đến chỗ nhà vua, liền quỳ xuống chân ngài và nói: “Thưa ngài, trong khi những người như ngài đang khuyên răn nhà vua về lợi ích và Chánh pháp, thì vị tướng quân Kāḷaka lại nhận hối lộ và biến những người không có chủ thành có chủ.” Người đó kể cho Bồ tát nghe về việc mình bị thua kiện.
Bodhisatto kāruññaṃ uppādetvā ‘‘ehi bhaṇe, aḍḍaṃ te vinicchinissāmī’’ti taṃ gahetvā vinicchayaṭṭhānaṃ agamāsi.
The Bodhisatta, feeling compassion, said, "Come, my good man, I will judge your case," and taking him, went to the courthouse.
Bồ tát khởi lòng từ bi, nói: “Này bạn, hãy đến đây, ta sẽ phân xử vụ kiện cho ngươi,” rồi đưa người đó đến nơi xét xử.
Mahājano sannipati, bodhisatto taṃ aḍḍaṃ paṭivinicchinitvā sāmikaññeva sāmikaṃ akāsi.
A large crowd gathered, and the Bodhisatta re-judged that case, making the rightful owner indeed the owner.
Đám đông tụ tập, Bồ tát xét xử lại vụ án đó và trả lại chủ sở hữu cho đúng người.
1125
Mahājano sādhukāraṃ adāsi, so saddo mahā ahosi.
The crowd applauded, and the sound was great.
Đám đông vỗ tay tán thưởng, tiếng reo hò vang dội.
Rājā taṃ sutvā ‘‘kiṃ saddo nāmeso’’ti pucchi.
The king heard it and asked, "What is this sound?"
Nhà vua nghe thấy, hỏi: “Tiếng gì vậy?”
‘‘Deva, dhammadhajapaṇḍitena dubbinicchito aḍḍo suvinicchito, tatresa sādhukārasaddo’’ti.
"Your Majesty, the Dhammadhaja Pandit has correctly judged a case that Kāḷaka had wrongly judged; that is the sound of applause."
“Tâu bệ hạ, vụ kiện bị xét xử sai bởi vị tướng quân Dhammadhaja đã được xét xử đúng đắn, đó là tiếng tán thưởng.”
Rājā tuṭṭho bodhisattaṃ pakkosāpetvā ‘‘aḍḍo kira te ācariya vinicchito’’ti pucchi.
The king, pleased, summoned the Bodhisatta and asked, "I hear, teacher, that you have judged a case."
Nhà vua vui mừng, cho gọi Bồ tát đến và hỏi: “Thưa thầy, vụ kiện đã được thầy phân xử phải không?”
‘‘Āma, mahārāja, kāḷakena dubbinicchitaṃ aḍḍaṃ vinicchini’’nti vutte ‘‘ito dāni paṭṭhāya tumheva aḍḍaṃ vinicchinatha, mayhañca kaṇṇasukhaṃ bhavissati lokassa ca vuḍḍhī’’ti vatvā anicchantampi taṃ ‘‘sattānuddayāya vinicchaye nisīdathā’’ti yācitvā sampaṭicchāpesi.
When he replied, "Yes, Your Majesty, I judged a case that Kāḷaka had wrongly judged," the king said, "From now on, you yourself shall judge cases; it will be pleasing to my ears and beneficial to the world," and though the Bodhisatta was unwilling, he implored him, "Please sit in judgment out of compassion for beings," and made him accept.
Khi được trả lời: “Vâng, tâu đại vương, con đã phân xử vụ kiện mà Kāḷaka đã xét xử sai,” nhà vua nói: “Từ nay trở đi, chính thầy hãy phân xử các vụ kiện, điều đó sẽ làm tai con vui và mang lại sự thịnh vượng cho thế gian,” rồi dù Bồ tát không muốn, nhà vua vẫn khẩn cầu ngài: “Vì lòng từ bi đối với chúng sinh, xin thầy hãy ngồi vào vị trí xét xử,” và ngài đã chấp nhận.
Tato paṭṭhāya bodhisatto vinicchaye nisīdati, sāmikeyeva sāmike karoti.
From then on, the Bodhisatta sat in judgment, making the rightful owners indeed the owners.
Từ đó trở đi, Bồ tát ngồi vào vị trí xét xử, và trả lại chủ sở hữu cho đúng người.
1126
Kāḷako tato paṭṭhāya lañjaṃ alabhanto lābhato parihāyitvā bodhisattassa āghātaṃ bandhitvā ‘‘mahārāja, dhammadhajapaṇḍito tava rajjaṃ patthetī’’ti bodhisattaṃ rañño antare paribhindi.
From that time, Kāḷaka, no longer receiving bribes, suffered a loss of income. He bore a grudge against the Bodhisatta and slandered him to the king, saying, "Your Majesty, Dhammadhaja Pandit covets your kingdom."
Từ đó trở đi, Kāḷaka không nhận được hối lộ, mất đi lợi lộc, nên nuôi lòng thù hận Bồ tát và nói xấu Bồ tát với nhà vua: “Tâu đại vương, học giả Dhammadhaja đang khao khát vương quốc của ngài.”
Rājā asaddahanto ‘‘mā evaṃ avacā’’ti paṭikkhipitvā puna tena ‘‘sace me na saddahatha, tassāgamanakāle vātapānena oloketha.
The king, disbelieving, rejected it, saying, "Do not speak thus." But when Kāḷaka again said, "If you do not believe me, look through the window when he arrives.
Nhà vua không tin, bác bỏ: “Đừng nói như vậy.” Nhưng khi Kāḷaka nói thêm: “Nếu ngài không tin con, hãy nhìn qua cửa sổ khi ông ấy đến.
Athānena sakalanagarassa attano hatthe katabhāvaṃ passissathā’’ti vutte rājā tassa aḍḍakārakaparisaṃ disvā ‘‘etasseva parisā’’ti saññāya bhijjitvā ‘‘kiṃ karoma senāpatī’’ti pucchi.
Then you will see how he has brought the entire city under his control," the king, seeing the Bodhisatta's retinue of petitioners, mistakenly thought, "This is his own retinue," and was swayed. He asked, "What shall we do, General?"
Bấy giờ ngài sẽ thấy ông ấy đã nắm toàn bộ thành phố trong tay mình,” nhà vua thấy hội đồng xét xử của Bồ tát, và với nhận thức “Đây là hội đồng của riêng ông ấy,” liền bị chia rẽ và hỏi: “Tướng quân, chúng ta phải làm gì?”
‘‘Deva, etaṃ māretuṃ vaṭṭatī’’ti.
"Your Majesty, it is proper to kill him."
“Tâu bệ hạ, cần phải giết ông ta.”
‘‘Oḷārikadosaṃ apassantā kathaṃ māressāmā’’ti?
"How can we kill him without seeing a grave offense?"
“Làm sao chúng ta có thể giết ông ta khi không thấy lỗi lầm rõ ràng nào?”
‘‘Attheko upāyo’’ti.
"There is a way."
“Có một cách.”
‘‘Katarūpāyo’’ti.
"What kind of way?"
“Cách nào?”
‘‘Asayhamassa kammaṃ āropetvā taṃ kātuṃ asakkontaṃ taṃ tena dosena māressāmā’’ti.
"By assigning him an impossible task, and when he cannot do it, we will kill him for that offense."
“Chúng ta sẽ giao cho ông ta một công việc bất khả thi, và khi ông ta không thể làm được, chúng ta sẽ giết ông ta vì lỗi đó.”
‘‘Kiṃ pana asayhakamma’’nti?
"What is an impossible task?"
“Công việc bất khả thi đó là gì?”
‘‘Mahārāja, uyyānaṃ nāma sārabhūmiyaṃ ropitaṃ paṭijaggiyamānaṃ tīhi catūhi saṃvaccharehi phalaṃ deti.
"Your Majesty, a garden planted in fertile soil and tended carefully yields fruit in three or four years.
“Tâu đại vương, một khu vườn được trồng trên đất màu mỡ và được chăm sóc sẽ cho quả sau ba đến bốn năm.
Tumhe taṃ pakkosāpetvā ‘sve uyyānaṃ kīḷissāma, uyyānaṃ me māpehī’ti vadatha, so māpetuṃ na sakkhissati.
You should summon him and say, 'Tomorrow we will sport in the garden; make a garden for me.' He will not be able to make it.
Ngài hãy cho gọi ông ta đến và nói: ‘Ngày mai chúng ta sẽ vui chơi trong vườn, hãy tạo một khu vườn cho ta.’ Ông ta sẽ không thể tạo ra được.
Atha naṃ tasmiṃ dose māressāmā’’ti.
Then we will kill him for that offense."
Bấy giờ chúng ta sẽ giết ông ta vì lỗi đó.”
1127
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘paṇḍita, mayhaṃ purāṇauyyāne ciraṃ kīḷimha, idāni navauyyāne kīḷitukāmamha, sve kīḷissāma, uyyānaṃ no māpehi, sace māpetuṃ na sakkhissasi, jīvitaṃ te natthī’’ti.
The king addressed the Bodhisatta, saying, "Wise one, we have long played in our old garden. Now we wish to play in a new garden. We will play tomorrow, so construct a garden for us. If you cannot construct it, you will lose your life."
Nhà vua gọi Bồ tát đến và nói: “Học giả, chúng ta đã vui chơi trong khu vườn cũ của ta đã lâu, bây giờ chúng ta muốn vui chơi trong một khu vườn mới. Ngày mai chúng ta sẽ vui chơi, hãy tạo một khu vườn cho ta. Nếu ngươi không thể tạo ra được, ngươi sẽ mất mạng.”
Bodhisatto ‘‘kāḷakena lañjaṃ alabhamānena rājā antare paribhinno bhavissatī’’ti ñatvā ‘‘sakkonto jānissāmi, mahārājā’’ti vatvā gehaṃ gantvā subhojanaṃ bhuñjitvā cintayamāno sayane nipajji, sakkassa bhavanaṃ uṇhākāraṃ dassesi.
The Bodhisatta, knowing that "the king will be ruined if Kāḷaka does not receive a bribe," said, "I will know if I can, great king," and went home, ate a good meal, and lay down on his bed, contemplating. The abode of Sakka showed signs of heat.
Bồ tát biết rằng: “Kāḷaka, vì không nhận được hối lộ, đã chia rẽ nhà vua với ta,” rồi nói: “Con sẽ cố gắng hết sức, tâu đại vương,” rồi về nhà, ăn uống thịnh soạn và nằm xuống giường suy tư, khiến cung điện của Sakka trở nên nóng bức.
Sakko āvajjento bodhisattassa cittaṃ ñatvā vegenāgantvā sirigabbhaṃ pavisitvā ākāse ṭhatvā ‘‘kiṃ cintesi paṇḍitā’’ti pucchi.
Sakka, reflecting, understood the Bodhisatta's thought, and quickly came, entered the royal chamber, stood in the air, and asked, "What are you contemplating, wise one?"
Sakka quán xét, biết được tâm ý của Bồ tát, liền nhanh chóng đến, vào cung điện Sirigabbha, đứng trên không trung và hỏi: “Học giả, ngươi đang suy tư điều gì?”
‘‘Kosi tva’’nti?
"Who are you?"
“Ngươi là ai?”
‘‘Sakkohamasmī’’ti.
"I am Sakka."
“Ta là Sakka.”
‘‘Rājā maṃ ‘uyyānaṃ māpehī’ti āha, taṃ cintemī’’ti.
"The king told me, 'Construct a garden,' and I am contemplating that."
“Nhà vua bảo ta ‘Hãy tạo một khu vườn,’ ta đang suy tư về điều đó.”
‘‘Paṇḍita, mā cintayi, ahaṃ te nandanavanacittalatāvanasadisaṃ uyyānaṃ māpessāmi, katarasmiṃ ṭhāne māpemī’’ti?
"Wise one, do not worry. I will construct a garden for you, similar to the Nandana grove or the Cittalatā grove. In what place shall I construct it?"
“Học giả, đừng lo lắng, ta sẽ tạo cho ngươi một khu vườn giống như Nandanavana và Cittalatāvana. Ngươi muốn ta tạo ở chỗ nào?”
‘‘Asukaṭṭhāne māpehī’’ti.
"Construct it in that place."
“Hãy tạo ở chỗ đó.”
Sakko māpetvā devapurameva gato.
Sakka constructed it and went back to the city of devas.
Sakka đã tạo xong và trở về cõi trời.
1128
Punadivase bodhisatto uyyānaṃ paccakkhato disvā gantvā rañño ārocesi – ‘‘niṭṭhitaṃ te, mahārāja, uyyānaṃ, kīḷassū’’ti.
The next day, the Bodhisatta saw the garden with his own eyes, went, and informed the king: "Your garden is finished, great king. You may play."
Ngày hôm sau, Bồ tát tận mắt thấy khu vườn, liền đến báo với nhà vua: “Tâu đại vương, khu vườn của ngài đã hoàn thành, xin ngài hãy vui chơi.”
Rājā gantvā aṭṭhārasahatthena manosilāvaṇṇena pākārena parikkhittaṃ dvāraṭṭālakasampannaṃ pupphaphalabhārabharitanānārukkhapaṭimaṇḍitaṃ uyyānaṃ disvā kāḷakaṃ pucchi – ‘‘paṇḍitena amhākaṃ vacanaṃ kataṃ, idāni kiṃ karomā’’ti.
The king went and saw the garden, surrounded by an eighteen-cubit wall the color of red arsenic, complete with gate-towers, and adorned with various trees laden with flowers and fruits. He asked Kāḷaka, "The wise one has done as we commanded. What shall we do now?"
Nhà vua đến, thấy khu vườn được bao quanh bởi bức tường màu đá son cao mười tám cubit, có cổng tháp canh, được trang trí bằng nhiều loại cây trĩu quả và hoa, liền hỏi Kāḷaka: “Học giả đã làm theo lời chúng ta, bây giờ chúng ta phải làm gì?”
‘‘Mahārāja, ekarattena uyyānaṃ māpetuṃ sakkonto rajjaṃ gahetuṃ kiṃ na sakkotī’’ti?
"Great king, if he can construct a garden in one night, why can he not seize the kingdom?"
“Tâu đại vương, nếu ông ta có thể tạo một khu vườn trong một đêm, tại sao ông ta lại không thể chiếm lấy vương quốc?”
‘‘Idāni kiṃ karomā’’ti?
"What shall we do now?"
“Bây giờ chúng ta phải làm gì?”
‘‘Aparampi naṃ asayhakammaṃ kāremā’’ti.
"Let us make him do another impossible task."
“Chúng ta hãy giao cho ông ta một công việc bất khả thi khác.”
‘‘Kiṃ kammaṃ nāmā’’ti?
"What kind of task?"
“Công việc gì?”
‘‘Sattaratanamayaṃ pokkharaṇiṃ māpemā’’ti.
"Let us make him construct a pond made of the seven jewels."
“Chúng ta hãy tạo một hồ sen bằng bảy loại ngọc quý.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘ācariya, uyyānaṃ tāva te māpitaṃ, etassa pana anucchavikaṃ sattaratanamayaṃ pokkharaṇiṃ māpehi.
The king said, "Very well," and addressed the Bodhisatta: "Teacher, your garden has been constructed. Now, construct a pond made of the seven jewels, suitable for it.
Nhà vua nói: “Tốt,” rồi gọi Bồ tát đến và nói: “Thưa thầy, khu vườn của thầy đã được tạo ra, bây giờ hãy tạo một hồ sen bằng bảy loại ngọc quý tương xứng với nó.
Sace māpetuṃ na sakkhissasi, jīvitaṃ te natthī’’ti āha.
If you cannot construct it, you will lose your life."
Nếu ngươi không thể tạo ra được, ngươi sẽ mất mạng.”
Bodhisatto ‘‘sādhu, mahārāja, sakkonto māpessāmī’’ti āha.
The Bodhisatta said, "Very well, great king, I will construct it if I can."
Bồ tát nói: “Vâng, tâu đại vương, con sẽ cố gắng tạo ra.”
Athassa sakko pokkharaṇiṃ māpesi sobhaggappattaṃ satatitthaṃ sahassavaṅkaṃ pañcavaṇṇapadumasañchannaṃ nandanapokkharaṇisadisaṃ.
Then Sakka constructed a pond for him, beautiful, with a hundred bathing places, a thousand bends, covered with five-colored lotuses, similar to the Nandana pond.
Bấy giờ Sakka đã tạo cho ngài một hồ sen tuyệt đẹp, có hàng trăm bờ, hàng ngàn khúc quanh, được phủ đầy hoa sen năm màu, giống như hồ sen Nandanā.
1129
Punadivase bodhisatto tampi paccakkhaṃ katvā rañño ārocesi – ‘‘māpitā, deva, pokkharaṇī’’ti.
The next day, the Bodhisatta also observed it and informed the king: "The pond has been constructed, Your Majesty."
Ngày hôm sau, Bồ tát cũng tận mắt thấy hồ sen đó, liền báo với nhà vua: “Tâu bệ hạ, hồ sen đã được tạo ra.”
Rājā tampi disvā ‘‘idāni kiṃ karomā’’ti kāḷakaṃ pucchi.
The king also saw it and asked Kāḷaka, "What shall we do now?"
Nhà vua cũng thấy hồ sen đó, liền hỏi Kāḷaka: “Bây giờ chúng ta phải làm gì?”
‘‘Uyyānassa anucchavikaṃ gehaṃ māpetuṃ āṇāpehi, devā’’ti.
"Your Majesty, command him to construct a house suitable for the garden."
“Tâu bệ hạ, hãy ra lệnh cho ông ta tạo một ngôi nhà tương xứng với khu vườn.”
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘idāni, ācariya, imassa uyyānassa ceva pokkharaṇiyā ca anucchavikaṃ sabbadantamayaṃ gehaṃ māpehi, no ce māpessasi, jīvitaṃ te natthī’’ti āha.
The king addressed the Bodhisatta: "Now, teacher, construct a house made entirely of ivory, suitable for this garden and pond. If you do not construct it, you will lose your life."
Vua gọi Bồ tát lại và nói: “Này đạo sư, bây giờ hãy xây một ngôi nhà hoàn toàn bằng ngà voi phù hợp với khu vườn và ao sen này. Nếu không xây được, ngươi sẽ mất mạng.”
Athassa sakko gehampi māpesi.
Then Sakka also constructed the house for him.
Thế rồi, Sakka đã xây cả ngôi nhà cho ông.
Bodhisatto punadivase tampi paccakkhaṃ katvā rañño ārocesi.
The next day, the Bodhisatta also observed it and informed the king.
Ngày hôm sau, Bồ tát cũng đã chứng kiến điều đó và báo cho vua biết.
Rājā tampi disvā ‘‘idāni kiṃ karomā’’ti kāḷakaṃ pucchi.
The king also saw it and asked Kāḷaka, "What shall we do now?"
Vua cũng thấy điều đó và hỏi Kāḷaka: “Bây giờ ta phải làm gì?”
‘‘Gehassa anucchavikaṃ maṇiṃ māpetuṃ āṇāpehi, mahārājā’’ti āha.
"Great king, command him to create a jewel suitable for the house," he said.
Kāḷaka nói: “Đại vương, hãy ra lệnh làm một viên ngọc phù hợp với ngôi nhà.”
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘paṇḍita, imassa dantamayagehassa anucchavikaṃ maṇiṃ māpehi, maṇiālokena vicarissāma.
The king addressed the Bodhisatta: "Wise one, create a jewel suitable for this ivory house. We will wander by the light of the jewel.
Vua gọi Bồ tát lại và nói: “Này hiền giả, ngươi đã xây một ngôi nhà bằng ngà voi và một viên ngọc quý để thắp sáng nó, bây giờ hãy làm một viên ngọc phù hợp với ngôi nhà bằng ngà voi này để chúng ta có thể đi lại trong ánh sáng của viên ngọc.
Sace māpetuṃ na sakkosi, jīvitaṃ te natthī’’ti āha.
If you cannot create it, you will lose your life."
Nếu ngươi không thể làm được, ngươi sẽ mất mạng.”
Athassa sakko maṇimpi māpesi.
Then Sakka also created the jewel for him.
Thế rồi, Sakka cũng đã làm viên ngọc cho ông.
1130
Bodhisatto punadivase taṃ paccakkhaṃ katvā rañño ārocesi.
The next day, the Bodhisatta observed it and informed the king.
Ngày hôm sau, Bồ tát đã chứng kiến điều đó và báo cho vua biết.
Rājā tampi disvā ‘‘idāni kiṃ karissāmā’’ti kāḷakaṃ pucchi.
The king also saw it and asked Kāḷaka, "What shall we do now?"
Vua cũng thấy điều đó và hỏi Kāḷaka: “Bây giờ ta sẽ làm gì?”
‘‘Mahārāja, dhammadhajabrāhmaṇassa icchiticchitadāyikā devatā atthi maññe, idāni yaṃ devatāpi māpetuṃ na sakkoti, taṃ āṇāpehi.
"Great king, I believe the brahmin Dhammadhaja has a deity who grants whatever he wishes. Now, command him to do something that even a deity cannot create.
“Đại vương, có lẽ Bà la môn Dhammadhaja có một vị thần ban cho mọi điều ông mong muốn. Bây giờ, hãy ra lệnh cho ông ấy làm điều mà ngay cả các vị thần cũng không thể làm được.
Caturaṅgasamannāgataṃ nāma manussaṃ devatāpi māpetuṃ na sakkoti, tasmā ‘caturaṅgasamannāgataṃ me uyyānapālaṃ māpehī’ti taṃ vadāhī’’ti.
A human being endowed with four qualities cannot be created even by a deity. Therefore, tell him, 'Create for me a garden keeper endowed with four qualities.'"
Một con người có đủ bốn yếu tố thì ngay cả các vị thần cũng không thể tạo ra được. Vì vậy, hãy nói với ông ấy rằng: ‘Hãy tạo cho ta một người giữ vườn có đủ bốn yếu tố’.”
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘ācariya, tayā amhākaṃ uyyānaṃ, pokkharaṇī, dantamayapāsādo, tassa ālokakaraṇatthāya maṇiratanañca māpitaṃ, idāni me uyyānarakkhakaṃ caturaṅgasamannāgataṃ uyyānapālaṃ māpehi, no ce māpessasi, jīvitaṃ te natthī’’ti āha.
The king addressed the Bodhisatta, saying, "Teacher, you have created for us a garden, a lotus pond, an ivory palace, and a jeweled gem to illuminate it. Now, create for me a four-limbed garden guardian. If you do not create one, your life will be no more."
Vua gọi Bồ tát lại và nói: “Này đạo sư, ngươi đã tạo ra khu vườn, ao sen, cung điện bằng ngà voi, và viên ngọc quý để thắp sáng nó cho chúng ta. Bây giờ, hãy tạo cho ta một người giữ vườn có đủ bốn yếu tố để bảo vệ khu vườn. Nếu không tạo được, ngươi sẽ mất mạng.”
Bodhisatto ‘‘hotu, labhamāno jānissāmī’’ti gehaṃ gantvā subhojanaṃ bhuñjitvā nipanno paccūsakāle pabujjhitvā sayanapīṭhe nisinno cintesi – ‘‘sakko devarājā yaṃ attanā sakkā māpetuṃ, taṃ māpesi, caturaṅgasamannāgataṃ pana uyyānapālaṃ na sakkā māpetuṃ, evaṃ sante paresaṃ hatthe maraṇato araññe anāthamaraṇameva varatara’’nti.
The Bodhisatta, saying, "So be it, I will know when I obtain it," went home, ate a good meal, lay down, and, awakening at dawn, sat on his couch and thought, "Sakko, the king of devas, created what he could create himself, but a four-limbed garden guardian cannot be created. If this is the case, it is better to die a helpless death in the forest than to die at the hands of others."
Bồ tát nói: “Được thôi, khi có được, tôi sẽ biết.” Ông về nhà, ăn một bữa ăn ngon rồi nằm xuống. Sáng sớm hôm sau, ông thức dậy, ngồi trên ghế ngủ và suy nghĩ: “Vua trời Sakka đã tạo ra những gì ông ấy có thể tạo ra. Nhưng một người giữ vườn có đủ bốn yếu tố thì không thể tạo ra được. Nếu vậy, chết một cách vô chủ trong rừng còn tốt hơn là chết trong tay người khác.”
So kassaci anārocetvā pāsādā otaritvā aggadvāreneva nagarā nikkhamitvā araññaṃ pavisitvā aññatarasmiṃ rukkhamūle sataṃ dhammaṃ āvajjamāno nisīdi.
Without informing anyone, he descended from the palace, exited the city through the main gate, entered the forest, and sat at the foot of a certain tree, reflecting on the Dhamma of the virtuous.
Ông không báo cho ai biết, bước xuống khỏi cung điện, ra khỏi thành phố bằng cửa chính, đi vào rừng và ngồi dưới gốc cây nào đó, suy tư về Pháp.
1131
Sakko taṃ kāraṇaṃ ñatvā vanacarako viya hutvā bodhisattaṃ upasaṅkamitvā ‘‘brāhmaṇa, tvaṃ sukhumālo, adiṭṭhapubbadukkharūpo viya imaṃ araññaṃ pavisitvā kiṃ karonto nisinnosī’’ti imamatthaṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Sakko, knowing that reason, appeared like a forest dweller, approached the Bodhisatta, and asking this matter, "Brahmin, you are delicate, appearing as one who has never experienced suffering, having entered this forest, what are you doing sitting here?" spoke the first verse—
Sakka biết được sự việc đó, hóa thành một người đi rừng, đến gần Bồ tát và hỏi: “Này Bà la môn, ngươi là người an nhàn, chưa từng thấy khổ đau, tại sao lại vào khu rừng này mà ngồi đây làm gì?” Ông hỏi ý nghĩa này bằng cách nói lên bài kệ đầu tiên:
1132
136.
136.
136.
1133
‘‘Sukhaṃ jīvitarūposi, raṭṭhā vivanamāgato;
“You appear to live comfortably, having come from the country to the wilderness;
“Dáng vẻ sống an lạc, từ quốc độ vào rừng;
1134
So ekako rukkhamūle, kapaṇo viya jhāyasī’’ti.
You sit alone at the foot of a tree, meditating like a pauper.”
Một mình dưới gốc cây, như kẻ nghèo thiền định.”
1135
Tattha sukhaṃ jīvitarūposīti tvaṃ sukhena jīvitasadiso sukhedhito sukhaparihato viya.
Therein, you appear to live comfortably means you are like one whose life is comfortable, well-nourished, and well-cared for.
Ở đó, ngươi có hình dáng của đời sống an lạc nghĩa là ngươi giống như một người sống an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc, như được chăm sóc trong an lạc.
Raṭṭhāti ākiṇṇamanussaṭṭhānā.
From the country means from a place crowded with people.
Quốc độ nghĩa là từ nơi đông đúc người.
Vivanamāgatoti nirudakaṭṭhānaṃ araññaṃ paviṭṭho.
Having come to the wilderness means having entered a waterless forest.
Đã đến nơi hoang vắng nghĩa là đã đi vào khu rừng không có nước.
Rukkhamūleti rukkhasamīpe.
At the foot of a tree means near a tree.
Dưới gốc cây nghĩa là gần cây.
Kapaṇo viya jhāyasīti kapaṇo viya ekako nisinno jhāyasi pajjhāyasi, kiṃ nāmetaṃ cintesīti pucchi.
Meditating like a pauper means you sit alone, meditating, pondering like a pauper; what is it you are thinking? he asked.
Ngươi thiền như một kẻ đáng thương nghĩa là ngươi ngồi một mình như một kẻ đáng thương, ngươi thiền định, ngươi suy tư sâu sắc, ngươi đang nghĩ gì vậy? – (ông ta) hỏi.
1136
Taṃ sutvā bodhisatto dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the Bodhisatta spoke the second verse—
Nghe vậy, Bồ-tát nói bài kệ thứ hai –
1137
140.
140.
140.
1138
‘‘Sukhaṃ jīvitarūposmi, raṭṭhā vivanamāgato;
“I appear to live comfortably, having come from the country to the wilderness;
“Ta có hình dáng của đời sống an lạc, từ quốc độ đã đến nơi hoang vắng;
1139
So ekako rukkhamūle, kapaṇo viya jhāyāmi;
I sit alone at the foot of a tree, meditating like a pauper;
Ta một mình dưới gốc cây, thiền định như một kẻ đáng thương;
1140
Sataṃ dhammaṃ anussara’’nti.
Recalling the Dhamma of the virtuous.”
Hồi tưởng Pháp của bậc chân nhân.”
1141
Tattha sataṃ dhammaṃ anussaranti, samma, saccametaṃ, ahaṃ sukhaṃ jīvitarūpo raṭṭhā ca vivanamāgato, sohaṃ ekakova imasmiṃ rukkhamūle nisīditvā kapaṇo viya jhāyāmi.
Therein, recalling the Dhamma of the virtuous means, friend, it is true, I appear to live comfortably and have come from the country to the wilderness, and I sit alone at the foot of this tree, meditating like a pauper.
Ở đó, hồi tưởng Pháp của bậc chân nhân nghĩa là, này bạn, điều này là sự thật, ta có hình dáng của đời sống an lạc và đã từ quốc độ đến nơi hoang vắng, ta một mình ngồi dưới gốc cây này và thiền định như một kẻ đáng thương.
Yaṃ pana vadesi ‘‘kiṃ nāmetaṃ cintesī’’ti, taṃ te pavedemi ‘‘sataṃ dhamma’’nti.
As for what you say, "What is it you are thinking?", I will tell you: "the Dhamma of the virtuous."
Còn điều ngươi hỏi “ngươi đang nghĩ gì vậy?”, ta sẽ nói cho ngươi biết đó là “Pháp của bậc chân nhân”.
Ahañhi sataṃ dhammaṃ anussaranto idha nisinno.
Indeed, I am sitting here recalling the Dhamma of the virtuous.
Ta đang ngồi ở đây để hồi tưởng Pháp của bậc chân nhân.
Sataṃ dhammanti buddhapaccekabuddhabuddhasāvakānaṃ sataṃ sappurisānaṃ paṇḍitānaṃ dhammaṃ.
The Dhamma of the virtuous means the Dhamma of the Buddhas, Paccekabuddhas, and disciples of the Buddha, the Dhamma of the good and wise.
Pháp của bậc chân nhân nghĩa là Pháp của những bậc chân nhân, những bậc hiền trí như Phật, Độc Giác Phật, và Thanh Văn Phật.
Lābho alābho yaso ayaso nindā pasaṃsā sukhaṃ dukkhanti ayañhi aṭṭhavidho lokadhammo.
Gain and loss, fame and disrepute, blame and praise, pleasure and pain—these are the eight worldly conditions.
Lợi lộc, không lợi lộc; danh tiếng, không danh tiếng; chê bai, tán thán; an lạc, khổ đau – đây là tám pháp thế gian.
Iminā pana abbhāhatā santo na kampanti na pavedhenti, ayamettha akampanasaṅkhāto sataṃ dhammo imaṃ anussaranto nisinnomhīti dīpeti.
However, those who are assailed by these do not waver, do not tremble; this is the Dhamma of the virtuous, characterized by unshakeability, and I am sitting here recalling this, he explains.
Tuy nhiên, những bậc chân nhân bị chúng tác động nhưng không lay chuyển, không dao động. Đây là Pháp của bậc chân nhân được gọi là không lay chuyển. (Bồ-tát) bày tỏ rằng ta đang ngồi đây để hồi tưởng điều này.
1142
Atha naṃ sakko ‘‘evaṃ sante, brāhmaṇa, imasmiṃ ṭhāne kasmā nisinnosī’’ti.
Then Sakko asked him, "If that is so, Brahmin, why are you sitting in this place?"
Khi đó, Sakka hỏi ông ta: “Nếu vậy, này Bà-la-môn, vì sao ngươi lại ngồi ở nơi này?”
‘‘Rājā caturaṅgasamannāgataṃ uyyānapālaṃ āharāpeti, tādisaṃ na sakkomi laddhuṃ, sohaṃ ‘kiṃ me parassa hatthe maraṇena, araññaṃ pavisitvā anāthamaraṇaṃ marissāmī’ti cintetvā idhāgantvā nisinno’’ti.
"The king demands a four-limbed garden guardian, and I cannot obtain such a one. So, thinking, 'Why should I die at the hands of another? I will enter the forest and die a helpless death,' I came and sat here."
“(Vì) nhà vua sai mang đến một người giữ vườn có đủ bốn chi phần, (nhưng) ta không thể tìm được người như vậy. Vì thế, ta nghĩ ‘tại sao ta phải chết dưới tay người khác, ta sẽ đi vào rừng và chết một cái chết không nơi nương tựa’, rồi ta đến đây ngồi.”
‘‘Brāhmaṇa, ahaṃ sakko devarājā, mayā te uyyānādīni māpitāni, caturaṅgasamannāgataṃ uyyānapālaṃ māpetuṃ na sakkā, tumhākaṃ rañño sīsappasādhanakappako chattapāṇi nāma, so caturaṅgasamannāgato, caturaṅgasamannāgatena uyyānapālena atthe sati etaṃ kappakaṃ uyyānapālaṃ kātuṃ vadehī’’ti.
"Brahmin, I am Sakko, the king of devas. I created your garden and other things. It is not possible to create a four-limbed garden guardian. Your king has a royal hairdresser named Chattapāṇi, who is four-limbed. If there is a need for a four-limbed garden guardian, tell him to make this hairdresser the garden guardian."
“Này Bà-la-môn, ta là Sakka, vua chư thiên. Ta đã tạo ra các khu vườn và những thứ khác cho ngươi, nhưng không thể tạo ra một người giữ vườn có đủ bốn chi phần. Vua của các ngươi có một người thợ cắt tóc tên là Chattapāṇi, người cầm dù, anh ta có đủ bốn chi phần. Nếu cần một người giữ vườn có đủ bốn chi phần, hãy nói làm cho người thợ cắt tóc này làm người giữ vườn.”
Iti sakko bodhisattassa ovādaṃ datvā ‘‘mā bhāyī’’ti samassāsetvā attano devapurameva gato.
Thus, Sakko gave advice to the Bodhisatta, reassured him saying, "Do not be afraid," and returned to his own city of devas.
Như vậy, Sakka đã khuyên bảo Bồ-tát và an ủi rằng “đừng sợ hãi”, rồi trở về thiên cung của mình.
1143
Bodhisatto gehaṃ gantvā bhuttapātarāso rājadvāraṃ gantvā chattapāṇimpi tattheva disvā hatthe gahetvā ‘‘tvaṃ kira, samma chattapāṇi, caturaṅgasamannāgatosī’’ti pucchitvā ‘‘ko te mayhaṃ caturaṅgasamannāgatabhāvaṃ ācikkhī’’ti vutte ‘‘sakko, devarājā’’ti vatvā ‘‘kiṃkāraṇā ācikkhī’’ti puṭṭho ‘‘iminā nāma kāraṇenā’’ti sabbaṃ ācikkhi.
The Bodhisatta, having gone home and eaten his breakfast, went to the king's gate. Seeing Chattapāṇi there, he took him by the hand and asked, "Are you, friend Chattapāṇi, endowed with four qualities?" When asked, "Who told you that I am endowed with four qualities?", he replied, "Sakka, the king of devas." When asked, "For what reason did he tell you?", he explained everything, saying, "For this reason."
Bồ-tát về nhà, dùng bữa sáng xong thì đến cửa cung vua, thấy Chattapāṇi ở đó, liền nắm tay hỏi: “Này bạn Chattapāṇi, nghe nói bạn có đủ bốn chi phần phải không?” Khi (Chattapāṇi) hỏi: “Ai đã nói với bạn về việc tôi có đủ bốn chi phần?”, (Bồ-tát) đáp: “Sakka, vua chư thiên.” Khi (Chattapāṇi) hỏi: “Vì lý do gì mà ngài ấy nói vậy?”, (Bồ-tát) kể lại tất cả: “Vì lý do này.”
So ‘‘āma, ahaṃ caturaṅgasamannāgato’’ti āha.
He said, "Yes, I am endowed with four qualities."
Anh ta nói: “Vâng, tôi có đủ bốn chi phần.”
Atha naṃ bodhisatto hatthe gahetvāva rañño santikaṃ gantvā ‘‘ayaṃ, mahārāja, chattapāṇi, caturaṅgasamannāgato, caturaṅgasamannāgatena uyyānapālena atthe sati imaṃ uyyānapālaṃ karothā’’ti āha.
Then the Bodhisatta, taking him by the hand, went to the king and said, "This Chattapāṇi, O great king, is endowed with four qualities. If there is a need for a park-keeper endowed with four qualities, make him the park-keeper."
Khi đó, Bồ-tát nắm tay anh ta đến gặp vua và nói: “Tâu Đại vương, đây là Chattapāṇi, người có đủ bốn chi phần. Nếu cần một người giữ vườn có đủ bốn chi phần, xin hãy phong anh ta làm người giữ vườn.”
Atha naṃ rājā ‘‘tvaṃ kira caturaṅgasamannāgatosī’’ti pucchi.
Then the king asked him, "Are you, indeed, endowed with four qualities?"
Khi đó, nhà vua hỏi anh ta: “Nghe nói ngươi có đủ bốn chi phần phải không?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
"Yes, O great king."
“Vâng, tâu Đại vương.”
‘‘Katamehi caturaṅgehi samannāgatosī’’ti?
"With which four qualities are you endowed?"
“Ngươi có đủ những chi phần nào?”
1144
‘‘Anusūyako ahaṃ deva, amajjapāyako ahaṃ;
"I am not envious, O deva; I am not a drinker of intoxicants;
“Tâu Thiên vương, tôi không ganh tị, tôi không uống rượu;
1145
Nisnehako ahaṃ deva, akkodhanaṃ adhiṭṭhito’’ti.
I am without affection, O deva; I am established in freedom from anger."
Tâu Thiên vương, tôi không có ái luyến, tôi đã quyết không nổi giận.”
1146
‘‘Mayhañhi, mahārāja, usūyā nāma natthi, majjaṃ me na pivitapubbaṃ, paresu me sneho vā kodho vā na bhūtapūbbo.
"For, O great king, I have no envy, I have never drunk intoxicants, and I have never had affection or anger towards others.
“Tâu Đại vương, tôi không hề có sự ganh tị, tôi chưa từng uống rượu, tôi chưa từng có ái luyến hay sân hận đối với người khác.
Imehi catūhi aṅgehi samannāgatomhī’’ti.
I am endowed with these four qualities."
Tôi có đủ bốn chi phần này.”
1147
Atha naṃ rājā, bho chattapāṇi, ‘‘anusūyakosmī’’ti vadasīti.
Then the king said to him, "Friend Chattapāṇi, you say, 'I am not envious.'"
Khi đó, nhà vua hỏi anh ta: “Này Chattapāṇi, ngươi nói ‘tôi không ganh tị’ phải không?”
‘‘Āma, deva, anusūyakomhī’’ti.
"Yes, O deva, I am not envious."
“Vâng, tâu Thiên vương, tôi không ganh tị.”
‘‘Kiṃ ārammaṇaṃ disvā anusūyako jātosī’’ti?
"Seeing what object did you become non-envious?"
“Ngươi đã trở thành người không ganh tị khi thấy điều gì?”
‘‘Suṇāhi devā’’ti attano anusūyakakāraṇaṃ kathento imaṃ gāthamāha –
"Listen, O deva," he said, and relating the reason for his non-envy, he spoke this verse:
“Xin lắng nghe, tâu Thiên vương,” anh ta nói bài kệ này để kể lý do mình không ganh tị –
1148
‘‘Itthiyā kāraṇā rāja, bandhāpesiṃ purohitaṃ;
"For the sake of a woman, O king, I had the purohita bound;
“Vì một người phụ nữ, tâu Đại vương, tôi đã ra lệnh bắt giữ vị đạo sĩ;
1149
So maṃ atthe nivedesi, tasmāhaṃ anusūyako’’ti.
He informed me of the truth, therefore I am not envious."
Ông ấy đã trình bày sự thật cho tôi, vì thế tôi không ganh tị.”
1150
Tassattho – ahaṃ, deva, pubbe imasmiṃyeva bārāṇasinagare tādisova rājā hutvā itthiyā kāraṇā purohitaṃ bandhāpesiṃ.
Its meaning is: O deva, formerly, in this very city of Bārāṇasī, I was such a king and had the purohita bound for the sake of a woman.
Ý nghĩa của bài kệ là: Tâu Thiên vương, trước đây tôi cũng là một vị vua ở thành Bārāṇasī này, vì một người phụ nữ mà tôi đã ra lệnh bắt giữ vị đạo sĩ.
1151
‘‘Abaddhā tattha bajjhanti, yattha bālā pabhāsare;
"Those unbound become bound where fools speak;
“Những người không bị trói buộc thì bị trói buộc ở nơi những kẻ ngu si nói ra;
1152
Baddhāpi tattha muccanti, yattha dhīrā pabhāsare’’ti.(jā. 1.1.120) –
Even the bound are released where the wise speak."
Những người bị trói buộc thì được giải thoát ở nơi những bậc trí tuệ nói ra.”
1153
Imasmiñhi jātake āgatanayeneva ekasmiṃ kāle ayaṃ chattapāṇi rājā hutvā catusaṭṭhiyā pādamūlikehi saddhiṃ sampadussitvā bodhisattaṃ attano manorathaṃ apūrentaṃ nāsetukāmāya deviyā paribhinno bandhāpesi.
In this Jātaka, according to the method stated, at one time this Chattapāṇi was a king and, having conspired with sixty-four courtiers, he had the Bodhisatta bound, being incited by the queen who wished to destroy him for not fulfilling her desire.
Trong câu chuyện Jātaka này, theo cách đã được kể, một lần nọ, Chattapāṇi này đã làm vua, và bị hoàng hậu xúi giục để tiêu diệt Bồ-tát, người không đáp ứng được ý muốn của bà ta, nên đã ra lệnh bắt giữ Bồ-tát cùng với sáu mươi bốn người hầu.
Tadā naṃ bandhitvā ānīto bodhisatto yathābhūtaṃ deviyā dosaṃ āropetvā sayaṃ mutto raññā bandhāpite sabbepi te pādamūlike mocetvā ‘‘etesañca deviyā ca aparādhaṃ khamatha, mahārājā’’ti ovadi.
At that time, the Bodhisatta, having been bound and brought, exposed the queen's fault as it truly was, freed himself, and released all those courtiers whom the king had bound, admonishing the king, "O great king, forgive the offense of these and the queen."
Khi đó, Bồ-tát bị bắt và dẫn đến, đã trình bày tội lỗi thực sự của hoàng hậu, tự mình được giải thoát, và khuyên vua: “Tâu Đại vương, xin hãy tha thứ tội lỗi của những người hầu này và của hoàng hậu.”
Sabbaṃ heṭṭhā vuttanayeneva vitthārato veditabbaṃ.
Everything should be understood in detail according to the method stated below.
Tất cả nên được hiểu chi tiết theo cách đã nói ở dưới.
Taṃ sandhāyāha –
Referring to that, he said:
Để ám chỉ điều đó, (anh ta) nói:
1154
‘‘Itthiyā kāraṇā rāja, bandhāpesiṃ purohitaṃ;
"For the sake of a woman, O king, I had the purohita bound;
“Vì một người phụ nữ, tâu Đại vương, tôi đã ra lệnh bắt giữ vị đạo sĩ;
1155
So maṃ atthe nivedesi, tasmāhaṃ anusūyako’’ti.
He informed me of the truth, therefore I am not envious."
Ông ấy đã trình bày sự thật cho tôi, vì thế tôi không ganh tị.”
1156
Tadā pana sohaṃ cintesiṃ – ‘‘ahaṃ soḷasa sahassaitthiyo pahāya etaṃ ekameva kilesavasena saṅgaṇhantopi santappetuṃ nāsakkhiṃ, evaṃ duppūraṇīyānaṃ itthīnaṃ kujjhanaṃ nāma nivatthavatthe kilissante ‘kasmā kilissasī’ti kujjhanasadisaṃ hoti, bhuttabhatte gūthabhāvaṃ āpajjante ‘kasmā etaṃ sabhāvaṃ āpajjasī’ti kujjhanasadisaṃ hoti.
At that time, I reflected, "I, abandoning sixteen thousand women, was unable to satisfy this one woman, even though I embraced her due to defilement. To be angry with women, who are so difficult to satisfy, is like being angry with soiled clothes, asking 'Why are you soiled?' It is like being angry with eaten food that turns into excrement, asking 'Why do you become this state?'
Khi đó, tôi đã nghĩ: “Ta đã từ bỏ mười sáu ngàn người phụ nữ, nhưng ngay cả khi ta ôm ấp người phụ nữ duy nhất này vì dục vọng, ta cũng không thể làm cho cô ta hài lòng. Việc nổi giận với những người phụ nữ khó thỏa mãn như vậy giống như nổi giận khi quần áo bị bẩn và hỏi ‘tại sao lại bẩn?’, giống như nổi giận khi thức ăn đã ăn biến thành phân và hỏi ‘tại sao lại biến thành thứ đó?’.
‘Ito dāni paṭṭhāya yāva arahattaṃ na pāpuṇāmi, tāva kilesaṃ nissāya mayi usūyā mā uppajjatū’’’ti adhiṭṭhahiṃ.
'From now on, until I attain arahantship, may envy not arise in me due to defilement!'" Thus I resolved.
‘Từ nay trở đi, cho đến khi ta đạt được A-la-hán quả, nguyện cho sự ganh tị do phiền não không phát sinh trong ta’.” Tôi đã quyết tâm như vậy.
Tato paṭṭhāya anusūyako jāto.
From that time onwards, I became non-envious.
Từ đó trở đi, tôi đã trở thành người không ganh tị.
Idaṃ sandhāya – ‘‘tasmāhaṃ anusūyako’’ti āha.
Referring to this, he said, "Therefore I am not envious."
Để ám chỉ điều này, (anh ta) nói: “Vì thế tôi không ganh tị.”
1157
Atha naṃ rājā ‘‘samma chattapāṇi, kiṃ ārammaṇaṃ disvā amajjapo jātosī’’ti pucchi.
Then the king asked him, "Friend Chattapāṇi, seeing what object did you become a non-drinker of intoxicants?"
Khi đó, nhà vua hỏi: “Này Chattapāṇi, ngươi đã trở thành người không uống rượu khi thấy điều gì?”
So taṃ kāraṇaṃ ācikkhanto imaṃ gāthamāha –
Relating that reason, he spoke this verse:
Anh ta nói bài kệ này để kể lý do đó –
1158
‘‘Matto ahaṃ mahārāja, puttamaṃsāni khādayiṃ;
"Intoxicated, O great king, I ate my children's flesh;
“Tâu Đại vương, khi say rượu, tôi đã ăn thịt con trai mình;
1159
Tassa sokenahaṃ phuṭṭho, majjapānaṃ vivajjayi’’nti.
Afflicted by that sorrow, I avoided drinking intoxicants."
Bị nỗi đau đó dày vò, tôi đã từ bỏ việc uống rượu.”
1160
Ahaṃ, mahārāja, pubbe tādiso bārāṇasirājā hutvā majjena vinā vattituṃ nāsakkhiṃ, amaṃsakabhattampi bhuñjituṃ nāsakkhiṃ.
O great king, formerly I was such a king of Bārāṇasī and could not live without intoxicants, nor could I eat a meal without meat.
Tâu Đại vương, trước đây, tôi cũng là một vị vua ở Bārāṇasī, tôi không thể sống mà không có rượu, cũng không thể ăn bữa ăn mà không có thịt.
Nagare uposathadivasesu māghāto hoti, bhattakārako pakkhassa terasiyaññeva maṃsaṃ gahetvā ṭhapesi, taṃ dunnikkhittaṃ sunakhā khādiṃsu.
In the city, on Uposatha days, there was a slaughter ban. The cook had obtained meat on the thirteenth day of the fortnight and stored it, but dogs ate the carelessly stored meat.
Ở trong thành, vào những ngày Uposatha, việc sát sinh bị cấm. Người nấu ăn đã chuẩn bị thịt vào ngày mười ba của nửa tháng, nhưng nó bị chó ăn mất do cất giữ không cẩn thận.
Bhattakārako uposathadivase maṃsaṃ alabhitvā rañño nānaggarasabhojanaṃ pacitvā pāsādaṃ āropetvā upanāmetuṃ asakkonto deviṃ upasaṅkamitvā ‘‘devi, ajja me maṃsaṃ na laddhaṃ, amaṃsakabhojanaṃ nāma upanāmetuṃ na sakkomi, kinti karomī’’ti āha.
The cook, not having obtained meat on the Uposatha day, cooked a meal of various excellent flavors for the king. Being unable to bring it up to the palace and offer it, he approached the queen and said, "Queen, today I have not obtained meat. I cannot offer a meatless meal. What should I do?"
Vào ngày Uposatha, người nấu ăn không tìm được thịt, không thể nấu món ăn ngon và mang lên cung điện cho vua, bèn đến gặp hoàng hậu và nói: “Tâu Hoàng hậu, hôm nay tôi không tìm được thịt, tôi không thể dâng bữa ăn không có thịt lên. Tôi phải làm gì đây?”
‘‘Tāta, mayhaṃ putto raññā piyo manāpo, puttaṃ me disvā rājā tameva cumbanto parissajanto attano atthibhāvampi na jānāti, ahaṃ puttaṃ maṇḍetvā rañño ūrumhi nisīdāpeyyaṃ, rañño puttena saddhiṃ kīḷanakāle tvaṃ bhattaṃ upaneyyāsī’’ti.
"My dear, my son is dear and pleasing to the king. Seeing my son, the king, kissing and embracing him, does not even know his own existence. I will adorn my son and have him sit on the king's lap. While the king is playing with his son, you should offer the meal."
“(Người nấu ăn) này, con trai của tôi được vua yêu quý. Khi thấy con trai tôi, vua sẽ hôn và ôm ấp nó mà quên mất cả sự hiện diện của mình. Tôi sẽ trang điểm cho con trai và đặt nó ngồi trên đùi vua. Trong lúc vua đang chơi đùa với con trai, ngươi hãy dâng bữa ăn lên.”
Sā evaṃ vatvā attano puttaṃ alaṅkatābharaṇaṃ maṇḍetvā rañño ūrumhi nisīdāpesi.
Having said this, she adorned her son with ornaments and had him sit on the king's lap.
Nói vậy xong, bà trang điểm cho con trai với đầy đủ trang sức và đặt nó ngồi trên đùi vua.
Rañño puttena saddhiṃ kīḷanakāle bhattakārako bhattaṃ upanāmesi.
While the king was playing with his son, the cook offered the meal.
Trong lúc vua đang chơi đùa với con trai, người nấu ăn đã dâng bữa ăn lên.
Rājā surāmadamatto pātiyaṃ maṃsaṃ adisvā ‘‘maṃsaṃ kaha’’nti pucchitvā ‘‘ajja, deva, uposathadivasaṃ māghātatāya maṃsaṃ na laddha’’nti vutte ‘‘mayhaṃ maṃsaṃ nāma dullabha’’nti vatvā ūrumhi nisinnassa piyaputtassa gīvaṃ vaṭṭetvā jīvitakkhayaṃ pāpetvā bhattakārakassa purato khipitvā ‘‘vegena sampādetvā āharā’’ti āha.
The king, intoxicated by liquor, did not see meat in the dish and asked, "Where is the meat?" When told, "Today, Your Majesty, is an Uposatha day, and due to the prohibition of killing, no meat was obtained," he said, "Meat is indeed rare for me," and twisting the neck of his beloved son, who was sitting on his lap, he put an end to his life, threw the body before the cook, and said, "Prepare it quickly and bring it!"
Vua say rượu, không thấy thịt trong đĩa, liền hỏi: “Thịt đâu?” Khi được nói: “Tâu Thiên vương, hôm nay là ngày Uposatha, việc sát sinh bị cấm nên không có thịt,” vua nói: “Thịt đối với ta là thứ hiếm có,” rồi bẻ cổ đứa con trai yêu quý đang ngồi trên đùi, giết chết nó, ném trước mặt người nấu ăn và nói: “Nhanh chóng chuẩn bị và mang đến đây.”
Bhattakārako tathā akāsi, rājā puttamaṃsena bhattaṃ bhuñji.
The cook did so, and the king ate his meal with his son's flesh.
Người nấu ăn đã làm như vậy, và vua đã ăn bữa ăn với thịt con trai mình.
Rañño bhayena ekopi kandituṃ vā rodituṃ vā kathetuṃ vā samattho nāma nāhosi.
Out of fear of the king, no one was able to cry, weep, or speak.
Vì sợ vua, không một ai dám khóc, than vãn hay nói gì.
1161
Rājā bhuñjitvā sayanapiṭṭhe niddaṃ upagantvā paccūsakāle pabujjhitvā vigatamado ‘‘puttaṃ me ānethā’’ti āha.
Having eaten, the king went to sleep on the bed and awoke in the early morning, his intoxication gone. He said, "Bring my son!"
Vua ăn xong, ngủ trên giường. Sáng sớm hôm sau, thức dậy khi đã hết say, vua nói: “Hãy mang con trai ta đến đây.”
Tasmiṃ kāle devī kandamānā pādamūle pati.
At that time, the queen, weeping, fell at his feet.
Khi đó, hoàng hậu khóc lóc và quỳ xuống dưới chân (vua).
‘‘Kiṃ, bhadde’’ti ca vutte, ‘‘deva, hiyyo te puttaṃ māretvā puttamaṃsena bhattaṃ bhutta’’nti āha.
When asked, "What is it, good lady?" she said, "Your Majesty, yesterday you killed your son and ate your meal with his flesh."
Khi được hỏi: “Có chuyện gì vậy, hiền thê?”, bà nói: “Tâu Thiên vương, hôm qua ngài đã giết con trai mình và ăn bữa ăn với thịt con trai.”
Rājā puttasokena roditvā kanditvā ‘‘idaṃ me dukkhaṃ surāpānaṃ nissāya uppanna’’nti surāpāne dosaṃ disvā ‘‘ito paṭṭhāya yāva arahattaṃ na pāpuṇāmi, tāva evarūpaṃ vināsakārakaṃ suraṃ nāma na pivissāmī’’ti paṃsuṃ gahetvā mukhaṃ puñchitvā adhiṭṭhāsi.
The king wept and cried from sorrow for his son. Seeing the fault in drinking liquor, thinking, "This suffering has arisen because of drinking liquor," he resolved, "From now on, until I attain Arahantship, I will not drink such destructive liquor," and taking dust, he wiped his mouth and made a firm determination.
Vua khóc lóc than khóc vì nỗi đau mất con, thấy lỗi lầm của việc uống rượu là nguyên nhân gây ra nỗi khổ này, liền thề nguyện: “Từ nay trở đi, cho đến khi ta đạt được A-la-hán, ta sẽ không bao giờ uống thứ rượu gây hại như vậy nữa.” Ông lấy đất lau miệng và phát nguyện.
Tato paṭṭhāya majjaṃ nāma na piviṃ.
From that time onwards, he never drank intoxicants.
Từ đó trở đi, ông không bao giờ uống rượu nữa.
Imamatthaṃ sandhāya – ‘‘matto ahaṃ, mahārājā’’ti imaṃ gāthamāha.
Referring to this matter, he spoke this verse: "I was intoxicated, great king."
Nhắm vào ý nghĩa này, ông đã nói bài kệ: “Tôi đã say, Đại vương.”
1162
Atha naṃ rājā ‘‘kiṃ pana, samma chattapāṇi, ārammaṇaṃ disvā nisneho jātosī’’ti pucchi.
Then the king asked him, "But, good umbrella-bearer, seeing what object have you become devoid of affection?"
Rồi vua hỏi ông: “Này bạn Chattapāṇi, tại sao ngươi lại trở nên vô ái khi thấy cảnh đó?”
So taṃ kāraṇaṃ ācikkhanto imaṃ gāthamāha –
Explaining that reason, he spoke this verse:
Ông giải thích sự việc bằng cách nói lên bài kệ này:
1163
‘‘Kitavāso nāmahaṃ rāja, putto paccekabodhi me;
"I was a trickster, O king; my son was a Paccekabuddha.
“Tôi là vua Kitavāsa, con tôi là vị Độc Giác Phật;
1164
Pattaṃ bhinditvā cavito, nisneho tassa kāraṇā’’ti.
He passed away after I broke his bowl; for that reason, I am without affection."
Đập bát rồi chết, vì lý do đó tôi trở nên vô ái.”
1165
Mahārāja, pubbe ahaṃ bārāṇasiyaṃyeva kitavāso nāma rājā.
"Great king, formerly I was a king named Kitavāsa in Bārāṇasī.
Đại vương, trước đây tôi là vua tên Kitavāsa ở Bārāṇasī.
Tassa me putto vijāyi.
A son was born to me.
Con trai của tôi đã được sinh ra.
Lakkhaṇapāṭhakā taṃ disvā ‘‘mahārāja, ayaṃ kumāro pānīyaṃ alabhitvā marissatī’’ti āhaṃsu.
The prognosticators, seeing him, said, 'Great king, this prince will die if he does not get water.'
Các nhà tướng số nhìn thấy nó và nói: “Đại vương, hoàng tử này sẽ chết vì không được uống nước.”
‘‘Duṭṭhakumāro’’tissa nāmaṃ ahosi.
His name was Duṭṭhakumāra (Wicked Prince).
Tên của nó là Duṭṭhakumāra (Hoàng tử Ác độc).
So viññutaṃ patto oparajjaṃ kāresi, rājā kumāraṃ purato vā pacchato vā katvā vicari, pānīyaṃ alabhitvā maraṇabhayena cassa catūsu dvāresu antonagaresu ca tattha tattha pokkharaṇiyo kāresi, catukkādīsu maṇḍape kāretvā pānīyacāṭiyo ṭhapāpesi.
When he reached maturity, he served as viceroy. The king traveled with the prince in front or behind him. Fearing his death without water, he had ponds dug here and there at the four gates and within the city, and had pavilions built at crossroads and other places, where water jars were placed.
Khi trưởng thành, nó làm phó vương. Vua đi lại trước hoặc sau hoàng tử, và vì sợ hoàng tử chết vì không có nước, vua đã cho xây ao sen ở bốn cổng thành và khắp nơi trong nội thành, dựng lều ở các ngã tư và đặt các chum nước.
So ekadivase alaṅkatapaṭiyatto pātova uyyānaṃ gacchanto antarāmagge paccekabuddhaṃ passi.
One day, adorned and ready, he was going to the park early in the morning when he saw a Paccekabuddha on the way.
Một ngày nọ, hoàng tử trang điểm lộng lẫy, sáng sớm đi dạo vườn, trên đường đi đã gặp một vị Độc Giác Phật.
Mahājanopi paccekabuddhaṃ disvā tameva vandati pasaṃsati, añjaliñcassa paggaṇhāti.
The great multitude, seeing the Paccekabuddha, paid homage to him and praised him, raising their clasped hands to him.
Đại chúng cũng thấy vị Độc Giác Phật liền đảnh lễ và tán thán Ngài, chắp tay cung kính.
1166
Kumāro cintesi – ‘‘mādisena saddhiṃ gacchantā imaṃ muṇḍakaṃ vandanti pasaṃsanti, añjaliñcassa paggaṇhantī’’ti.
The prince thought, "People going with someone like me pay homage to this shaven-headed one, praise him, and raise their clasped hands to him!"
Hoàng tử nghĩ: “Đi cùng với người như ta mà họ lại đảnh lễ và tán thán, chắp tay cung kính cái gã đầu trọc này sao?”
So kupito hatthikkhandhato oruyha paccekabuddhaṃ upasaṅkamitvā ‘‘laddhaṃ te, samaṇa, bhatta’’nti vatvā ‘‘āma, kumārā’’ti vutte tassa hatthato pattaṃ gahetvā bhūmiyaṃ pātetvā saddhiṃ bhattena madditvā pādappahārena cuṇṇavicuṇṇaṃ akāsi.
Angered, he dismounted from the elephant's back, approached the Paccekabuddha, and said, "Have you received your meal, ascetic?" When told, "Yes, prince," he took the bowl from his hand, dropped it on the ground, crushed it along with the meal, and smashed it to pieces with a kick.
Tức giận, nó xuống khỏi lưng voi, đến gần vị Độc Giác Phật và nói: “Này sa môn, ông đã nhận được bữa ăn chưa?” Khi được trả lời: “Rồi, này hoàng tử,” nó liền giật lấy bát từ tay Ngài, ném xuống đất, giẫm nát cùng với thức ăn, dùng chân đá nát vụn.
Paccekabuddho ‘‘naṭṭho vatāyaṃ satto’’ti tassa mukhaṃ olokesi.
The Paccekabuddha looked at his face, thinking, "Indeed, this being is ruined."
Vị Độc Giác Phật nhìn vào mặt nó và nghĩ: “Chúng sinh này thật đáng thương.”
Kumāro ‘‘ahaṃ, samaṇa, kitavāsarañño putto, nāmena duṭṭhakumāro nāma, tvaṃ me kuddho akkhīni ummīletvā olokento kiṃ karissasī’’ti āha.
The prince said, "I, ascetic, am the son of King Kitavāsa, named Duṭṭhakumāra. What will you do to me, looking at me with your eyes wide open in anger?"
Hoàng tử nói: “Này sa môn, ta là con trai của vua Kitavāsa, tên là Duṭṭhakumāra. Ngươi tức giận nhìn chằm chằm vào ta thì có thể làm gì được?”
1167
Paccekabuddho chinnabhatto hutvā vehāsaṃ abbhuggantvā uttarahimavante nandanamūlapabbhārameva gato.
The Paccekabuddha, having been deprived of his meal, rose into the air and went to the Nandanamūla cave in the Uttarahimavanta.
Vị Độc Giác Phật, sau khi bị mất bữa ăn, liền bay lên không trung và đi đến hang động dưới chân núi Nandanamūla ở dãy Himalaya phía bắc.
Kumārassāpi taṅkhaṇaññeva pāpakammaṃ paripacci.
At that very moment, the evil kamma of the prince also ripened.
Ngay lập tức, nghiệp ác của hoàng tử đã chín muồi.
So ‘‘ḍayhāmi ḍayhāmī’’ti samuggatasarīraḍāho tattheva pati.
He, with his body burning, crying "I burn, I burn!", fell right there.
Nó ngã xuống ngay tại đó, toàn thân bốc cháy, kêu “Cháy quá! Cháy quá!”
Tattha tattheva yattakaṃ pānīyaṃ, tattakaṃ pānīyaṃ sabbaṃ chijji, mātikā sussiṃsu, tattheva jīvitakkhayaṃ patvā avīcimhi nibbatti.
All the water that was there, everywhere, dried up; the watercourses became parched; he met his end of life right there and was reborn in Avīci.
Tất cả nước ở khắp mọi nơi đều cạn kiệt, các kênh mương khô cạn. Ngay tại đó, nó mất mạng và tái sinh vào địa ngục Avīci.
Rājā taṃ pavattiṃ sutvā puttasokena abhibhūto cintesi – ‘‘ayaṃ me soko piyavatthuto uppajji, sace me sneho nābhavissa, soko na uppajjissa, ito dāni me paṭṭhāya saviññāṇake vā aviññāṇake vā kismiñci vatthusmiṃ sneho nāma mā uppajjatū’’ti adhiṭṭhāsi, tato paṭṭhāya sneho nāma natthi.
The king, hearing that news, overwhelmed by grief for his son, thought: "This sorrow of mine arose from a beloved object. If I had no affection, sorrow would not have arisen. From now on, let no affection arise in me for any object, whether conscious or unconscious." He resolved thus, and from then on, he had no affection.
Vua nghe tin đó, bị nỗi đau mất con giày vò, liền nghĩ: “Nỗi đau này của ta phát sinh từ vật yêu quý. Nếu ta không có ái luyến, thì nỗi đau sẽ không phát sinh. Từ nay trở đi, nguyện cho ta không còn ái luyến đối với bất kỳ vật hữu tình hay vô tình nào.” Ông đã phát nguyện như vậy, và từ đó trở đi, ông không còn ái luyến nữa.
Taṃ sandhāya ‘‘kitavāso nāmāha’’nti gāthamāha.
Referring to that, he spoke the verse "I am named Kitavāsa."
Nhắm vào điều đó, ông đã nói bài kệ “Tôi tên là Kitavāsa.”
1168
Tattha putto paccekabodhi me.
There, my son, a Paccekabodhi
Trong đó, putto paccekabodhi me. Pattaṃ bhinditvā cavito có nghĩa là: con trai tôi là vị Độc Giác Phật, đã đập bát rồi chết.
Pattaṃ bhinditvā cavitoti mama putto paccekabodhipattaṃ bhinditvā cavitoti attho.
having broken the bowl, passed away means "my son, having broken the Paccekabodhi's bowl, passed away."
Con đã từ bỏ sự chứng đắc Bồ-đề Độc Giác, ý nói: con trai của ta, đã từ bỏ sự chứng đắc Bồ-đề Độc Giác.
Nisneho tassa kāraṇāti tadā uppannasnehavatthussa kāraṇā ahaṃ nisneho jātoti attho.
Without affection because of that means "because of that object of affection that arose then, I became without affection."
Nisneho tassa kāraṇā có nghĩa là: vì lý do của vật ái luyến phát sinh lúc đó, tôi đã trở nên vô ái.
1169
Atha naṃ rājā ‘‘kiṃ pana, samma, ārammaṇaṃ disvā nikkodho jātosī’’ti pucchi.
Then the king asked him, "What kind of object, friend, did you see to become free from anger?"
Rồi vua hỏi ông: “Này bạn, tại sao ngươi lại trở nên vô sân khi thấy cảnh đó?”
So taṃ kāraṇaṃ ācikkhanto imaṃ gāthamāha –
Explaining that reason, he spoke this verse:
Ông giải thích sự việc bằng cách nói lên bài kệ này:
1170
‘‘Arako hutvā mettacittaṃ, satta vassāni bhāvayiṃ;
"Having become Araka, I cultivated a mind of loving-kindness for seven years;
“Là một ẩn sĩ, tôi đã tu tập tâm từ bảy năm;
1171
Satta kappe brahmaloke, tasmā akkodhano aha’’nti.
For seven aeons, I resided in the Brahma-world; therefore, I am without anger."
Trong bảy đại kiếp ở cõi Phạm thiên, vì vậy tôi không còn sân hận.”
1172
Tassattho – ahaṃ, mahārāja, arako nāma tāpaso hutvā satta vassāni mettacittaṃ bhāvetvā satta saṃvaṭṭavivaṭṭakappe brahmaloke vasiṃ, tasmā ahaṃ dīgharattaṃ mettābhāvanāya āciṇṇapariciṇṇattā akkodhano jātoti.
Its meaning is: "O great king, having become a recluse named Araka, I cultivated a mind of loving-kindness for seven years, and for seven aeons of cosmic dissolution and evolution, I resided in the Brahma-world. Therefore, having long practiced and familiarized myself with the development of loving-kindness, I have become free from anger."
Ý nghĩa của câu đó là: Đại vương, tôi đã là một ẩn sĩ tên Araka, tu tập tâm từ bảy năm, rồi sống ở cõi Phạm thiên trong bảy đại kiếp (saṃvaṭṭavivaṭṭakappe). Vì vậy, do đã thực hành và làm quen với sự tu tập tâm từ trong một thời gian dài, tôi đã trở nên vô sân.
1173
Evaṃ chattapāṇinā attano catūsu aṅgesu kathitesu rājā parisāya iṅgitasaññaṃ adāsi.
When the umbrella-bearer had thus spoken of his four qualities, the king gave a signal to the assembly.
Khi Chattapāṇi đã kể về bốn yếu tố của mình như vậy, vua đã ra hiệu cho hội chúng.
Taṅkhaṇaññeva amaccā ca brāhmaṇagahapatikādayo ca uṭṭhahitvā ‘‘are lañjakhādaka duṭṭhacora, tvaṃ lañjaṃ alabhitvā paṇḍitaṃ upavaditvā māretukāmo jāto’’ti kāḷakaṃ senāpatiṃ hatthapādesu gahetvā rājanivesanā otāretvā gahitagahiteheva pāsāṇamuggarehi sīsaṃ bhinditvā jīvitakkhayaṃ pāpetvā pādesu gahetvā kaḍḍhantā saṅkāraṭṭhāne chaḍḍesuṃ.
At that very moment, the ministers, brahmins, householders, and others rose up and, seizing the general Kāḷaka by his hands and feet, crying, "You bribetaker, wicked thief! Failing to get a bribe, you sought to slander and kill a wise man!", they dragged him out of the royal palace, smashed his head with stones and clubs they had picked up, put an end to his life, and, dragging him by his feet, threw him onto the refuse heap.
Ngay lập tức, các vị quan và các gia chủ Bà la môn đứng dậy, nắm tay chân của tướng quân Kāḷaka và nói: “Này tên ăn hối lộ, tên trộm độc ác, ngươi đã không nhận được hối lộ nên muốn phỉ báng và giết chết vị hiền giả!” Họ lôi ông ta xuống khỏi cung điện, dùng đá và chùy mà họ cầm được đập vỡ đầu ông ta cho đến chết, rồi nắm chân kéo lê và vứt vào bãi rác.
Tato paṭṭhāya rājā dhammena rajjaṃ kārento yathākammaṃ gato.
From then on, the king ruled the kingdom righteously and passed away according to his kamma.
Từ đó trở đi, vua trị vì đất nước theo Pháp và đã đi theo nghiệp của mình.
1174
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kāḷakasenāpati devadatto ahosi, chattapāṇikappako sāriputto, sakko anuruddho, dhammadhajo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher brought forth this discourse on Dhamma and identified the Jātaka: "At that time, the general Kāḷaka was Devadatta; the umbrella-bearer Kappaka was Sāriputta; Sakka was Anuruddha; and Dhammadhaja was I myself."
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp xong, Ngài kết hợp câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, Kāḷakasenāpati là Devadatta, người cầm lọng Kappaka là Sāriputta, Sakka là Anuruddha, còn Dhammadhaja chính là Ta vậy.”
1175
Dhammadhajajātakavaṇṇanā dasamā.
The tenth, the Dhammadhaja Jātaka, is concluded.
Giải thích Jātaka Dhammadhaja thứ mười.
1176
Bīraṇathambhavaggo sattamo.
The seventh, the Bīraṇathambha Vagga, is concluded.
Chương Bīraṇathambha thứ bảy.
1177
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Bản tóm tắt của chương đó –
1178
Somadattañca ucchiṭṭhaṃ, kuru puṇṇanadīpi ca;
Somadatta and Ucchiṭṭha, Kuru and Puṇṇanadī;
Somadatta và Ucchiṭṭha, Kuru và Puṇṇanadī;
1179
Kacchapamacchaseggu ca, kūṭavāṇijagarahi;
Kacchapa, Maccha, Seggu, Kūṭavāṇija, Garahi;
Kacchapa, Maccha, Seggu và Kūṭavāṇija, Garahi;
1180
Dhammadhajanti te dasa.
And Dhammadhaja—these are the ten.
Và Dhammadhaja, đó là mười Jātaka.
1181

8. Kāsāvavaggo

8. Kāsāva Vagga

8. Chương Kāsāva

Next Page →