Table of Contents

Saddanītippakaraṇaṃ (padamālā)

Edit
1992

8. Itthiliṅganāmikapadamālā

8. Nominal Declensions of the Feminine Gender

8. Bảng biến cách danh từ giống cái

1993
Atha itthiliṅgesu ākārantassa bhūdhātumayassa pakatirūpabhūtassa bhāvikāsaddassa nāmikapadamālāyaṃ vattabbāyampi pasiddhassa tāva kaññāsaddassa nāmikapadamālaṃ vakkhāma –
Now, among feminine words, although the nominal declension of the basic form bhāvikā, derived from the root bhū and ending in ‘-ā’, should be stated, we shall first state the nominal declension of the well-known word kaññā
Bây giờ, trong các từ giống cái, mặc dù cần nói về bảng biến cách danh từ của từ bhāvikā là dạng nguyên thể được hình thành từ gốc bhū với tận cùng , nhưng trước hết chúng tôi sẽ nói về bảng biến cách danh từ của từ kaññā (thiếu nữ) là từ phổ biến –
1994
Kaññā, kaññā, kaññāyo.
Kaññā, kaññā, kaññāyo.
Kaññā, kaññā, kaññāyo.
Kaññaṃ, kaññā, kaññāyo.
Kaññaṃ, kaññā, kaññāyo.
Kaññaṃ, kaññā, kaññāyo.
Kaññāya, kaññāhi, kaññābhi.
Kaññāya, kaññāhi, kaññābhi.
Kaññāya, kaññāhi, kaññābhi.
Kaññāya, kaññānaṃ.
Kaññāya, kaññānaṃ.
Kaññāya, kaññānaṃ.
Kaññāya, kaññāhi, kaññābhi.
Kaññāya, kaññāhi, kaññābhi.
Kaññāya, kaññāhi, kaññābhi.
Kaññāya, kaññānaṃ.
Kaññāya, kaññānaṃ.
Kaññāya, kaññānaṃ.
Kaññāya, kaññāyaṃ, kaññāsu.
Kaññāya, kaññāyaṃ, kaññāsu.
Kaññāya, kaññāyaṃ, kaññāsu.
Bhoti kaññe, bhotiyo kaññā, kaññāyo.
Bhoti kaññe, bhotiyo kaññā, kaññāyo.
Bhoti kaññe, bhotiyo kaññā, kaññāyo.
Ayamamhākaṃ ruci.
This is our preference.
Đây là sở thích của chúng tôi.
1995
Ettha ‘‘kaññā’’ti ekavacanabahuvacanavasena vuttaṃ, niruttipiṭake bahuvacanavasena vutto nayo natthi.
Here, "kaññā" is stated in the singular and plural, but in the Niruttipiṭaka, there is no method mentioned for the plural.
Ở đây, từ ‘‘kaññā’’ được nói đến theo cách số ít và số nhiều; trong Niruttipiṭaka không có cách nói theo số nhiều.
Tathā hi tattha ‘‘saddhā tiṭṭhati, saddhāyo tiṭṭhanti.
For there, it is stated: "Saddhā stands, saddhāyo stand.
Thật vậy, ở đó chỉ nói: ‘‘Đức tin đứng vững, các đức tin đứng vững.
Saddhaṃ passati, saddhāyo passatī’’ti ettakameva vuttaṃ, ‘‘saddhā’’ti bahuvacanaṃ na āgataṃ.
One sees saddhā, one sees saddhāyo"—only this much is stated; the plural "saddhā" does not appear.
Thấy đức tin, thấy các đức tin’’ – chỉ nói như vậy, từ ‘‘saddhā’’ số nhiều không xuất hiện.
Kiñcāpi nāgataṃ, tathāpi ‘‘bāhā paggayha pakkanduṃ, sivikaññā samāgatā.
Even though it does not appear, still from the observation of Pali texts such as "They cried out, raising their arms, Sivika maidens assembled.
Mặc dù không xuất hiện, tuy nhiên từ các đoạn Pāḷi như ‘‘Họ giơ tay lên mà than khóc, các thiếu nữ trong kiệu đã tụ họp.
Ahetu appaccayā purisassa saññā uppajjantipi nirujjhantipī’’tiādipāḷidassanato bāhākaññā saññāsaddādīnaṃ bahuvacanatā gahetabbā.
Without cause, without condition, a man's perception arises and also ceases," the plural form of words like bāhā, kaññā, saññā should be understood.
Không nhân không duyên, tưởng của người cũng sanh khởi và cũng diệt đi’’ – do thấy các đoạn Pāḷi này, nên phải hiểu các từ như bāhā, kaññā, saññā là số nhiều.
Cūḷaniruttiyaṃ ‘‘bhoti kaññe, bhoti kaññā’’ti dve ekavacanāni vatvā ‘‘bhotiyo kaññāyo’’ti ekaṃ bahuvacanaṃ vuttaṃ.
In the Cūḷanirutti, having stated two singular forms "bhoti kaññe, bhoti kaññā," one plural form "bhotiyo kaññāyo" is stated.
Trong Cūḷanirutti, sau khi nói hai từ số ít là ‘‘bhoti kaññe, bhoti kaññā’’, một từ số nhiều ‘‘bhotiyo kaññāyo’’ được nói đến.
Niruttipiṭake pana ‘‘bhoti saddhā’’ti ekavacanaṃ vatvā ‘‘bhotiyo saddhāyo’’ti ekaṃ bahuvacanaṃ vuttaṃ.
In the Niruttipiṭaka, however, having stated the singular "bhoti saddhā," one plural form "bhotiyo saddhāyo" is stated.
Còn trong Niruttipiṭaka, sau khi nói từ số ít ‘‘bhoti saddhā’’, một từ số nhiều ‘‘bhotiyo saddhāyo’’ được nói đến.
Mayaṃ panettha ‘‘ehi bāle khamāpehi, kusarājaṃ mahabbalaṃ.
Here, we desire vocative singular and plural forms of this type: "bhoti kaññe, bhotiyo kaññā, kaññāyo," based on the observation of Pali texts such as "Come, foolish one, propitiate Kusa the powerful king.
Ở đây, chúng tôi muốn các từ hô cách số ít và số nhiều như ‘‘bhoti kaññe, bhotiyo kaññā, kaññāyo’’ – do thấy các đoạn Pāḷi như ‘‘Này cô bé, hãy đến xin lỗi vua Kusa đầy quyền lực.
Phussatī varavaṇṇābhe.
O Phussatī of excellent complexion.
Này Phussatī, người có dung sắc tuyệt đẹp.
Ehi godhe nivattassū’’tiādipāḷidassanato ‘‘bhoti kaññe, bhotiyo kaññā, kaññāyo’’ti evaṃpakārāniyeva ālapanekavacanabahuvacanāni icchāma.
Come, O iguana, turn back!"
Này Godhā, hãy đến và quay lại’’.
Ettha ‘‘bhoti kaññe’’ti ayaṃ nayo ammādīsu mātādīsu ca na labbhati.
Here, this method "bhoti kaññe" is not applicable to ammā and mātā etc.
Ở đây, cách ‘‘bhoti kaññe’’ không được dùng cho các từ như ammāmātā.
1996
Bhāvikā, bhāvikā, bhāvikāyo.
Bhāvikā, bhāvikā, bhāvikāyo.
Bhāvikā (số ít chủ cách), bhāvikā (số nhiều chủ cách), bhāvikāyo (số nhiều chủ cách).
Bhāvikaṃ, bhāvikā, bhāvikāyo.
Bhāvikaṃ, bhāvikā, bhāvikāyo.
Bhāvikaṃ (số ít đối cách), bhāvikā (số nhiều đối cách), bhāvikāyo (số nhiều đối cách).
Bhāvikāya, bhāvikāhi, bhāvikābhi.
Bhāvikāya, bhāvikāhi, bhāvikābhi.
Bhāvikāya (số ít công cụ cách), bhāvikāhi (số nhiều công cụ cách), bhāvikābhi (số nhiều công cụ cách).
Bhāvikāya, bhāvikānaṃ.
Bhāvikāya, bhāvikānaṃ.
Bhāvikāya (số ít tặng cách), bhāvikānaṃ (số nhiều tặng cách).
Bhāvikāya, bhāvikāhi, bhāvikābhi.
Bhāvikāya, bhāvikāhi, bhāvikābhi.
Bhāvikāya (số ít xuất xứ cách), bhāvikāhi (số nhiều xuất xứ cách), bhāvikābhi (số nhiều xuất xứ cách).
Bhāvikāya, bhāvikānaṃ.
Bhāvikāya, bhāvikānaṃ.
Bhāvikāya (số ít sở hữu cách), bhāvikānaṃ (số nhiều sở hữu cách).
Bhāvikāya, bhāvikāyaṃ, bhāvikāsu.
Bhāvikāya, bhāvikāyaṃ, bhāvikāsu.
Bhāvikāya (số ít vị trí cách), bhāvikāyaṃ (số ít vị trí cách), bhāvikāsu (số nhiều vị trí cách).
Bhoti bhāvike, bhotiyo bhāvikā, bhāvikāyo.
Bhoti bhāvike, bhotiyo bhāvikā, bhāvikāyo.
Bhoti bhāvike (số ít hô cách), bhotiyo bhāvikā (số nhiều hô cách), bhāvikāyo (số nhiều hô cách).
1997
Evaṃ heṭṭhuddiṭṭhānaṃ sabbesaṃ bhūdhātumayānaṃ ‘‘bhāvanā vibhāvanā’’iccevamādīnaṃ ākārantapadānaṃ aññesa ñcākārantapadānaṃ nāmikapadamālā yojetabbā.
Thus, the declension patterns for all the previously mentioned words ending in ā derived from the root bhū, such as "bhāvanā, vibhāvanā," and other words ending in ā, should be applied.
Tương tự, phải kết hợp bảng biến cách danh từ cho tất cả các từ tận cùng bằng ā được tạo từ gốc động từ bhū đã nêu ở trên, như ‘‘bhāvanā, vibhāvanā’’ v.v., và các từ tận cùng bằng ā khác.
Etthaññāni ākārantapadāni nāma saddhādīni.
Here, other words ending in ā are saddhā and so forth.
Ở đây, các từ tận cùng bằng ā khác là saddhā v.v.
1998
Saddhā medhā paññā vijjā, cintā mantā taṇhā’bhijjhā;
Saddhā, medhā, paññā, vijjā, cintā, mantā, taṇhā, abhijjhā;
Đức tin (saddhā), trí tuệ (medhā), tuệ (paññā), minh (vijjā), tư duy (cintā), mạn (mantā), tham ái (taṇhā), tham lam (abhijjhā);
1999
Icchā pucchā jāyā māyā, mettā mattā sikkhā saṅkhā.
Icchā, pucchā, jāyā, māyā, mettā, mattā, sikkhā, saṅkhā.
Ước muốn (icchā), câu hỏi (pucchā), vợ (jāyā), huyễn thuật (māyā), tâm từ (mettā), lượng (mattā), học (sikkhā), tính toán (saṅkhā).
2000
Jaṅghā bāhā gīvā jivhā, vācā chāyā gaṅgā nāvā;
Jaṅghā, bāhā, gīvā, jivhā, vācā, chāyā, gaṅgā, nāvā;
Đùi (jaṅghā), cánh tay (bāhā), cổ (gīvā), lưỡi (jivhā), lời nói (vācā), bóng (chāyā), sông Hằng (gaṅgā), thuyền (nāvā);
2001
Niddā kantā sālā mālā, velā vīṇā bhikkhā lākhā.
Niddā, kantā, sālā, mālā, velā, vīṇā, bhikkhā, lākhā.
Giấc ngủ (niddā), người yêu (kantā), hội trường (sālā), vòng hoa (mālā), thời gian (velā), đàn vīṇā (vīṇā), khất thực (bhikkhā), sơn mài (lākhā).
2002
Gāthā senā lekhā’pekkhā, āsā pūjā esā kaṅkhā;
Gāthā, senā, lekhā, apekhā, āsā, pūjā, esā, kaṅkhā;
Kệ (gāthā), quân đội (senā), chữ viết (lekhā), sự mong đợi (apekkhā), hy vọng (āsā), cúng dường (pūjā), đây (esā), nghi ngờ (kaṅkhā);
2003
Aññā muddā khiḍḍā bhassā, bhāsā kīḷā sattā cetā.
Aññā, muddā, khiḍḍā, bhassā, bhāsā, kīḷā, sattā, cetā.
Sự hiểu biết (aññā), con dấu (muddā), trò chơi (khiḍḍā), lời nói (bhassā), ngôn ngữ (bhāsā), trò chơi (kīḷā), chúng sanh (sattā), tâm (cetā).
2004
Pipāsā vedanā saññā, cetanā tasiṇā pajā;
Pipāsā, vedanā, saññā, cetanā, tasiṇā, pajā;
Khát (pipāsā), cảm thọ (vedanā), tưởng (saññā), tư (cetanā), khát ái (tasiṇā), chúng sanh (pajā);
2005
Devatā vaṭṭakā godhā, balākā vasudhā sabhā.
Devatā, vaṭṭakā, godhā, balākā, vasudhā, sabhā.
Chư thiên (devatā), chim cút (vaṭṭakā), kỳ đà (godhā), cò (balākā), đất (vasudhā), hội chúng (sabhā).
2006
Ukkā sephālikā sikkā, salākā vālikā sikhā;
Ukkā, sephālikā, sikkā, salākā, vālikā, sikhā;
Đuốc (ukkā), hoa lài (sephālikā), lưới (sikkā), que (salākā), cát (vālikā), chỏm tóc (sikhā);
2007
Kāraṇā visikhā sākhā, vacā vañjhā jaṭā ghaṭā.
Kāraṇā, visikhā, sākhā, vacā, vañjhā, jaṭā, ghaṭā.
Lý do (kāraṇā), đường phố (visikhā), cành cây (sākhā), lời nói (vacā), vô sinh (vañjhā), búi tóc (jaṭā), bình (ghaṭā).
2008
Pīḷā soṇḍā vitaṇḍā ca, karuṇā vanitā latā;
Pīḷā, soṇḍā, vitaṇḍā, and karuṇā, vanitā, latā;
Sự áp bức (pīḷā), vòi voi (soṇḍā), ngụy biện (vitaṇḍā) và, lòng bi mẫn (karuṇā), phụ nữ (vanitā), dây leo (latā);
2009
Kathā nindā sudhā rādhā, vāsanā siṃsapā papā.
Kathā, nindā, sudhā, rādhā, vāsanā, siṃsapā, papā.
Câu chuyện (kathā), lời chê bai (nindā), mật hoa (sudhā), Rādha (rādhā), khuynh hướng (vāsanā), cây sissapā (siṃsapā), quán nước (papā).
2010
Pabhā sīmā khamā ejā,
Pabhā, sīmā, khamā, ejā,
Ánh sáng (pabhā), ranh giới (sīmā), sự kiên nhẫn (khamā), sự rung động (ejā),
2011
Khattiyā sakkharā surā;
Khattiyā, sakkharā, surā;
Nữ Sát-đế-lợi (khattiyā), sỏi (sakkharā), rượu (surā);
2012
Dolā tulā silā līlā,
Dolā, tulā, silā, līlā,
Cái võng (dolā), cái cân (tulā), tảng đá (silā), sự vui đùa (līlā),
2013
Lāle’ḷā mekhalā kalā.
Lāle, eḷā, mekhalā, kalā.
Lāle, ḷā, dây thắt lưng (mekhalā), nghệ thuật (kalā).
2014
Vaḷavā suṇisā mūsā, mañjūsā sulasā disā;
Vaḷavā, suṇisā, mūsā, mañjūsā, sulasā, disā;
Ngựa cái (vaḷavā), con dâu (suṇisā), chuột (mūsā), cái rương (mañjūsā), cây tulasi (sulasā), phương hướng (disā);
2015
Nāsā juṇhā guhā īhā, lasikā parisā nisā;
Nāsā, juṇhā, guhā, īhā, lasikā, parisā, nisā;
Mũi (nāsā), ánh trăng (juṇhā), hang động (guhā), sự cố gắng (īhā), dịch bạch huyết (lasikā), hội chúng (parisā), đêm (nisā);
2016
Mātikiccādayo ceva, bhāvikāpadasādisā.
And mātikiccādayo, are similar to the word bhāvikā.
Các từ như mātikicca v.v. cũng tương tự như từ bhāvikā.
2017
Ammannambā ca tātā ca, kiñcideva samā siyuṃ;
Ammā, nambā, and tātā may be somewhat similar;
Ammā, nambā và tātā có thể giống nhau ở một số điểm;
2018
Mātā dhītā panattādī, puthageva ito siyuṃ.
Mātā, dhītā, panattā, etc., are distinct from these.
Mātā, dhītā, panattā v.v. thì khác biệt.
2019
Parisāsaddassa pana sattamīṭhāne ‘‘parisāya, parisāyaṃ, parisati, parisāsū’’ti yojetabbaṃ ‘‘ekamidaṃ bho gotama samayaṃ todeyyassa brāhmaṇassa parisati parūpārambhaṃ vattentī’’ti pāḷidassanato.
For the word parisā, in the locative case, forms such as "parisāya, parisāyaṃ, parisati, parisāsu" should be applied, based on the Pali text "ekamidaṃ bho gotama samayaṃ todeyyassa brāhmaṇassa parisati parūpārambhaṃ vattentī" (At one time, O Gotama, in the assembly of the brahmin Todeyya, slander was being uttered).
Đối với từ parisā, ở vị trí vị trí cách thứ bảy, phải kết hợp ‘‘parisāya, parisāyaṃ, parisati, parisāsu’’ – do thấy đoạn Pāḷi ‘‘ekamidaṃ bho gotama samayaṃ todeyyassa brāhmaṇassa parisati parūpārambhaṃ vattentī’’ (Này Gotama, một thời, trong hội chúng của Bà-la-môn Todeyya, họ nói lời chỉ trích lẫn nhau).
Ammādīnaṃ pana ‘‘ammā, ammā, ammāyo’’tiādinā kaññānayena vatvā avasāne ‘‘bhoti amma, bhoti ammā, bhotiyo ammā, ammāyo’’tiādinā yojetabbaṃ.
For ammā and similar words, one should first use the kaññā pattern, such as "ammā, ammā, ammāyo," and then finally apply forms such as "bhoti amma, bhoti ammā, bhotiyo ammā, ammāyo."
Còn đối với các từ như ammā v.v., sau khi nói theo cách của kaññā như ‘‘ammā, ammā, ammāyo’’ v.v., ở cuối phải kết hợp như ‘‘bhoti amma, bhoti ammā, bhotiyo ammā, ammāyo’’ v.v.
2020
Mātā, mātā, mātaro.
Mātā, mātā, mātaro.
Mātā (số ít chủ cách), mātā (số nhiều chủ cách), mātaro (số nhiều chủ cách).
Mātaraṃ, mātaro.
Mātaraṃ, mātaro.
Mātaraṃ (số ít đối cách), mātaro (số nhiều đối cách).
Mātarā, mātuyā, matyā, mātūhi, mātūbhi.
Mātarā, mātuyā, matyā, mātūhi, mātūbhi.
Mātarā (số ít công cụ cách), mātuyā (số ít công cụ cách), matyā (số ít công cụ cách), mātūhi (số nhiều công cụ cách), mātūbhi (số nhiều công cụ cách).
Mātu, mātuyā, matyā, mātarānaṃ, mātānaṃ, mātūnaṃ.
Mātu, mātuyā, matyā, mātarānaṃ, mātānaṃ, mātūnaṃ.
Mātu (số ít tặng cách), mātuyā (số ít tặng cách), matyā (số ít tặng cách), mātarānaṃ (số nhiều tặng cách), mātānaṃ (số nhiều tặng cách), mātūnaṃ (số nhiều tặng cách).
Mātarā, mātuyā, matyā, mātūhi, mātūbhi.
Mātarā, mātuyā, matyā, mātūhi, mātūbhi.
Mātarā (số ít xuất xứ cách), mātuyā (số ít xuất xứ cách), matyā (số ít xuất xứ cách), mātūhi (số nhiều xuất xứ cách), mātūbhi (số nhiều xuất xứ cách).
Mātu, mātuyā, matyā, mātarānaṃ, mātānaṃ, mātūnaṃ.
Mātu, mātuyā, matyā, mātarānaṃ, mātānaṃ, mātūnaṃ.
Mātu (số ít sở hữu cách), mātuyā (số ít sở hữu cách), matyā (số ít sở hữu cách), mātarānaṃ (số nhiều sở hữu cách), mātānaṃ (số nhiều sở hữu cách), mātūnaṃ (số nhiều sở hữu cách).
Mātari, mātuyā, matyā, mātuyaṃ, matyaṃ, mātūsu.
Mātari, mātuyā, matyā, mātuyaṃ, matyaṃ, mātūsu.
Mātari (số ít vị trí cách), mātuyā (số ít vị trí cách), matyā (số ít vị trí cách), mātuyaṃ (số ít vị trí cách), matyaṃ (số ít vị trí cách), mātūsu (số nhiều vị trí cách).
Bhoti mātā, bhotiyo mātā, mātaro.
Bhoti mātā, bhotiyo mātā, mātaro.
Bhoti mātā (số ít hô cách), bhotiyo mātā (số nhiều hô cách), mātaro (số nhiều hô cách).
2021
Ettha pana yasmā pāḷiyaṃ itthiliṅgānaṃ sakārantāni rūpāni ehi ebhi esukārantādīni ca enantādīni ca na dissanti, tasmā kehici vuttānipi ‘‘mātussa mātarehī’’tiādīni na vuttāni, esa nayo itaresupi.
Here, since forms ending in sa for feminine words, and forms ending in ehi, ebhi, esu, and forms ending in ena etc., are not seen in the Pali canon, forms like "mātussa, mātarehī," etc., although mentioned by some, are not included; the same method applies to others.
Ở đây, vì trong Pāḷi không thấy các dạng số ít tận cùng bằng sa và các dạng tận cùng bằng ehi, ebhi, esu v.v. và các dạng tận cùng bằng ena v.v. của các từ giống cái, nên những gì một số người đã nói như ‘‘mātussa, mātarehī’’ v.v. không được nói đến, cách này cũng áp dụng cho các từ khác.
‘‘Yaṃkiñcitthikataṃ puññaṃ, mayhañca mātuyā ca te.
However, based on the Pali text "Whatever merit is done by a woman, both for me and for your mother. I have been permitted by my mother," the words "mātuyā, matyā" are stated in the instrumental, dative, ablative, genitive, and locative cases, because these cases follow a similar declension pattern for feminine words.
Tuy nhiên, do thấy đoạn Pāḷi ‘‘Yaṃkiñcitthikataṃ puññaṃ, mayhañca mātuyā ca te.
Anuññāto ahaṃ matyā’’ti pāḷidassanato pana karaṇasampadānanissakkasāmibhummavacanaṭṭhāne ‘‘mātuyā, matyā’’ti ca vuttaṃ itthiliṅgaṭṭhāne samānagatikattā tesaṃ vacanānaṃ.
Thus, in the Ummādantijātaka, the word "matyā" appears in the fifth and third singular cases, just as the word "khattiyā" becomes "khatyā" by the elision of the middle vowel, so too the word "mātuyā mātuya" becomes "matyā, matya"; this method is not applicable to the word dhītu and similar words.
Anuññāto ahaṃ matyā’’ (Bất cứ phước gì đã làm, của tôi và của mẹ cô. Tôi được mẹ cho phép), nên ở vị trí công cụ cách, tặng cách, xuất xứ cách, sở hữu cách, vị trí cách, các từ ‘‘mātuyā, matyā’’ cũng được nói đến vì các cách này có sự biến đổi giống nhau ở giống cái.
Tathā hi ummādantijātake ‘‘matyā’’ti padaṃ pañcamītatiyekavacanavasena āgataṃ, yathā pana ‘‘khattiyā’’ti padaṃ majjhasaralopavasena ‘‘khatyā’’ti bhavati, tathā ‘‘mātuyā mātuya’’nti ca padaṃ ‘‘matyā, matya’’nti bhavati, ayaṃ nayo dhītusaddādīsu na labbhati.
Dhītā, dhītā, dhītaro.
Thật vậy, trong Ummādantijātaka, từ ‘‘matyā’’ xuất hiện theo cách số ít thứ năm và thứ ba; giống như từ ‘‘khattiyā’’ trở thành ‘‘khatyā’’ do sự lược bỏ nguyên âm giữa, từ ‘‘mātuyā, mātuya’’ cũng trở thành ‘‘matyā, matya’’, cách này không được dùng cho các từ như dhītu v.v.
2022
Dhītā, dhītā, dhītaro.
Dhītaṃ, dhītaraṃ, dhītaro.
Dhītā (số ít chủ cách), dhītā (số nhiều chủ cách), dhītaro (số nhiều chủ cách).
Dhītaṃ, dhītaraṃ, dhītaro.
Dhītuyā, dhītūhi, dhītūbhi.
Dhītaṃ (số ít đối cách), dhītaraṃ (số ít đối cách), dhītaro (số nhiều đối cách).
Dhītuyā, dhītūhi, dhītūbhi.
Dhītu, dhītuyā, dhītarānaṃ, dhītānaṃ, dhītūnaṃ.
Dhītuyā (số ít công cụ cách), dhītūhi (số nhiều công cụ cách), dhītūbhi (số nhiều công cụ cách).
Dhītu, dhītuyā, dhītarānaṃ, dhītānaṃ, dhītūnaṃ.
Dhītarā, dhītuyā, dhītūhi, dhītūbhi.
Dhītu (số ít tặng cách), dhītuyā (số ít tặng cách), dhītarānaṃ (số nhiều tặng cách), dhītānaṃ (số nhiều tặng cách), dhītūnaṃ (số nhiều tặng cách).
Dhītarā, dhītuyā, dhītūhi, dhītūbhi.
Dhītu, dhītuyā, dhītarānaṃ, dhītānaṃ, dhītūnaṃ.
Dhītarā (số ít xuất xứ cách), dhītuyā (số ít xuất xứ cách), dhītūhi (số nhiều xuất xứ cách), dhītūbhi (số nhiều xuất xứ cách).
Dhītu, dhītuyā, dhītarānaṃ, dhītānaṃ, dhītūnaṃ.
Dhītari, dhītuyā, dhītuyaṃ, dhītūsu.
Dhītu (số ít sở hữu cách), dhītuyā (số ít sở hữu cách), dhītarānaṃ (số nhiều sở hữu cách), dhītānaṃ (số nhiều sở hữu cách), dhītūnaṃ (số nhiều sở hữu cách).
Dhītari, dhītuyā, dhītuyaṃ, dhītūsu.
Bhoti dhītu, bhoti dhītā, bhotiyo dhītā, dhītaro.
Dhītari (số ít vị trí cách), dhītuyā (số ít vị trí cách), dhītuyaṃ (số ít vị trí cách), dhītūsu (số nhiều vị trí cách).
Bhoti dhītu, bhoti dhītā, bhotiyo dhītā, dhītaro.
Here, however.
Bhoti dhītu (số ít hô cách), bhoti dhītā (số ít hô cách), bhotiyo dhītā (số nhiều hô cách), dhītaro (số nhiều hô cách).
Ettha pana.
"Jālī, Kaṇhājina, my daughter,
Ở đây, thì.
2023
‘‘Jāliṃ kaṇhājinaṃ dhītaṃ, maddideviṃ patibbataṃ;
Maddīdevī, the devoted wife;
‘‘Jāliṃ Kaṇhājinaṃ dhītaṃ, Maddidevīṃ patibbataṃ;
2024
Cajamāno na cintesiṃ, bodhiyāyeva kāraṇā’’ti
I did not think of abandoning them, solely for the sake of awakening,"
Cajamāno na cintesiṃ, bodhiyāyeva kāraṇā’’ti
2025
Pāḷiyaṃ ‘‘dhīta’’nti dassanato upayogavacanaṭṭhāne ‘‘dhīta’’nti vuttaṃ, tasmā idaṃ sārato gahetabbaṃ, tathā pāḷiyaṃ ‘‘assamaṇī hoti asakyadhītarā’’ti samāsapadassa dassanato tatiyekavacanantapadasadisaṃ ‘‘seṭṭhidhītarā’’tiādikaṃ paṭhamekavacanantampi samāsapadaṃ gahetabbameva, niruttipiṭake pana ‘‘mātā dhītā’’ti padadvayaṃ saddhānaye pakkhitta, tamamhehi ‘‘saddhāyā’’ti padassa viya ‘‘mātāyā’’tiādīnaṃ pāḷiādīsu byāse adassanato visuṃ gahitaṃ samāseyeva hi īdisiṃ saddagatiṃ passāma ‘‘rājamātāya rājadhītāya seṭṭhidhītāyā’’ti.
In this Pali text, the word "dhīta" is used in the accusative case, due to the observation of "dhītaṃ"; therefore, this should be taken as essential. Similarly, from the observation of the compound word "assamaṇī hoti asakyadhītarā" in the Pali canon, compound words like "seṭṭhidhītarā" etc., which are similar to the third singular case, should also be accepted as first singular case compound words. In the Niruttipiṭaka, however, the two words "mātā, dhītā" are included in the saddhā pattern. But because we do not see "mātāyā" and similar forms widely in Pali texts, unlike "saddhāyā," we have taken them separately, as we only observe such word forms in compounds like "rājamātāya, rājadhītāya, seṭṭhidhītāyā."
Trong Pāḷi, do thấy từ ‘‘dhītaṃ’’ ở vị trí đối cách, nên từ ‘‘dhītaṃ’’ được nói đến ở vị trí đối cách, do đó điều này phải được hiểu một cách cốt lõi; tương tự, do thấy từ ‘‘assamaṇī hoti asakyadhītarā’’ là một từ ghép trong Pāḷi, nên từ ghép ‘‘seṭṭhidhītarā’’ v.v. tương tự như từ số ít thứ ba cũng phải được hiểu là số ít thứ nhất; còn trong Niruttipiṭaka, hai từ ‘‘mātā, dhītā’’ được đưa vào cách của saddhā, nhưng chúng tôi đã tách riêng ra vì không thấy các từ như ‘‘mātāyā’’ v.v. trong Pāḷi v.v. khi phân tích, chỉ trong từ ghép chúng tôi mới thấy sự biến đổi ngữ âm như vậy: ‘‘rājamātāya, rājadhītāya, seṭṭhidhītāyā’’.
Evaṃ kaññānayopi ekadesena labbhati, tathā ‘‘acchariyaṃ nandamāte, abbhutaṃ nandamāte’’ti pāḷiyaṃ ‘‘nandamāte’’ti dassanato ‘‘bhoti rājamāte, bhoti rājadhīte’’ti evamādinayopi labbhati, tatra nandamāteti nandassa mātā nandamātā, bhoti nandamāte, evaṃ samāseyeva īdisī saddagati hoti, tasmā samāsapadatte ‘‘mātu dhītu duhitu’’iccetesaṃ pakatirūpānaṃ dve koṭṭhāsā gahetabbā paṭhamaṃ dassitarūpakoṭṭhāso ca kaññānayo rūpakoṭṭhāso cāti.
Thus, the kaññā method is also found in some parts. Likewise, because the Pali "nandamāte" is seen in "Amazing, Nandamātā! Wonderful, Nandamātā!", the method like "O royal mother, O royal daughter" is also found. There, Nandamātā means the mother of Nanda, Nandamātā; "O Nandamātā!" Such a verbal formation occurs only in compounds. Therefore, regarding compound words, two portions of the natural forms of "mātu, dhītu, duhitu" should be taken: the form portion shown first and the kaññā method form portion.
Tương tự, cách của kaññā cũng được dùng một phần; và do thấy từ ‘‘nandamāte’’ trong Pāḷi ‘‘acchariyaṃ nandamāte, abbhutaṃ nandamāte’’ (Thật kỳ diệu, này mẹ Nanda! Thật phi thường, này mẹ Nanda!), nên cách như ‘‘bhoti rājamāte, bhoti rājadhīte’’ v.v. cũng được dùng; ở đó, nandamāte là mẹ của Nanda, tức Nandamātā, bhoti nandamāte; sự biến đổi ngữ âm như vậy chỉ xảy ra trong từ ghép, do đó, khi là từ ghép, phải hiểu hai phần của các dạng nguyên thể ‘‘mātu, dhītu, duhitu’’: phần dạng đã chỉ ra trước đó và phần dạng theo cách của kaññā.
Nattādīni padāni na kevalaṃ pulliṅgāniyeva honti, atha kho itthiliṅgānipi.
The words Nattā and so forth are not only masculine but also feminine.
Các từ như nattā không chỉ là giống đực mà còn là giống cái.
Tathā hi ‘‘visākhāya nattā kālaṅkatā hoti.
Thus, usages like “Visākhā’s granddaughter passed away.
Thật vậy, “cháu gái của Visākhā đã qua đời.
Catasso mūsikā gādhaṃ kattā, no vasitā’’tiādīni payogāni sāsane dissanti.
Four mice made a ford, they did not stay,” are seen in the Sāsana.
Bốn con chuột cái đã làm nơi ẩn náu, nhưng không ở lại” và các cách dùng khác được thấy trong Giáo pháp.
2026
Nattā, nattā, nattāro.
Nattā, nattā, nattāro.
Nattā, nattā, nattāro.
Nattaṃ, nattāraṃ, nattāro.
Nattaṃ, nattāraṃ, nattāro.
Nattaṃ, nattāraṃ, nattāro.
Nattārā, nattuyā, nattūhi, nattūbhi.
Nattārā, nattuyā, nattūhi, nattūbhi.
Nattārā, nattuyā, nattūhi, nattūbhi.
Nattu, nattuyā, nattārānaṃ nattānaṃ, nattūnaṃ.
Nattu, nattuyā, nattārānaṃ, nattānaṃ, nattūnaṃ.
Nattu, nattuyā, nattārānaṃ, nattānaṃ, nattūnaṃ.
Nattārā, nattuyā, nattūhi, nattūbhi.
Nattārā, nattuyā, nattūhi, nattūbhi.
Nattārā, nattuyā, nattūhi, nattūbhi.
Nattu, nattuyā, nattārānaṃ, nattānaṃ, nattūnaṃ.
Nattu, nattuyā, nattārānaṃ, nattānaṃ, nattūnaṃ.
Nattu, nattuyā, nattārānaṃ, nattānaṃ, nattūnaṃ.
Nattari, nattuyā, nattuyaṃ, nattūsu.
Nattari, nattuyā, nattuyaṃ, nattūsu.
Nattari, nattuyā, nattuyaṃ, nattūsu.
Bhoti natta, bhoti nattā, bhotiyo nattā, nattāro.
Bhoti natta, bhoti nattā, bhotiyo nattā, nattāro.
Bhoti natta, bhoti nattā, bhotiyo nattā, nattāro.
2027
Evaṃ ‘‘kattā vasitā bhāsitā’’ iccādīsupi samāsapadatte pana ‘‘rājamātāya nandamāte’’tiādīni viya ‘‘rājanattāya, rājanatte’’tiādīni rūpāni bhavanti.
Similarly, in words like "kattā, vasitā, bhāsitā", when they are compound words, forms like "rājanattāya, rājanatte" occur, just as in "rājamātāya, nandamāte" and so on.
Tương tự, trong các từ như “kattā, vasitā, bhāsitā” v.v., khi là từ ghép, các dạng như “rājanattāya, rājanatte” v.v. xuất hiện, giống như “rājamātāya, nandamāte” v.v.
2028
Savinicchayoyaṃ ākāra ntukārantitthiliṅgānaṃ pakatirūpassa nāmikapadamālāvibhāgo.
This is the analyzed declension of the natural forms of feminine nouns ending in and -tu.
Đây là sự phân loại các chuỗi từ danh từ của dạng cơ bản của các từ giống cái tận cùng bằng ā được xác định rõ ràng.
2029
Ākāra ntukārantatāpakatikaṃ
Ākāranta and Tukāranta feminine nouns with natural forms
Ākārantatāpakatikaṃ (Dạng cơ bản tận cùng bằng ā)
2030
Ākārantitthiliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
Feminine nouns ending in -ā are finished.
Ākārantitthiliṅgaṃ niṭṭhitaṃ. (Giống cái tận cùng bằng ā đã hoàn tất.)
2031
Idāni bhūmipadādīnaṃ nāmikapadamālaṃ vakkhāma pubbācariyamataṃ purecaraṃ katvā –
Now we will explain the declension of words like bhūmi, taking the opinion of ancient teachers as our guide –
Bây giờ chúng ta sẽ trình bày chuỗi từ danh từ của các từ như bhūmi, theo ý kiến của các vị thầy cổ xưa:
2032
Ratti, rattī, rattiyo.
Ratti, rattī, rattiyo.
Ratti, rattī, rattiyo.
Rattiṃ, rattī, rattiyo.
Rattiṃ, rattī, rattiyo.
Rattiṃ, rattī, rattiyo.
Rattiyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, rattiyaṃ, rattīsu.
Rattiyā, rattiyaṃ, rattīsu.
Rattiyā, rattiyaṃ, rattīsu.
Bhoti ratti, bhotiyo rattiyo.
Bhoti ratti, bhotiyo rattiyo.
Bhoti ratti, bhotiyo rattiyo.
Yamakamahātheramataṃ.
The opinion of Yamakamahāthera.
Ý kiến của Yamakamahāthera.
2033
‘‘Bhūmi, bhūmī, bhūmiyo.
"Bhūmi, bhūmī, bhūmiyo.
“Bhūmi, bhūmī, bhūmiyo.
Bhūmiṃ, bhūmī, bhūmiyo’’ti sabbaṃ neyyaṃ.
Bhūmiṃ, bhūmī, bhūmiyo," everything should be understood similarly.
Bhūmiṃ, bhūmī, bhūmiyo” – tất cả nên được hiểu tương tự.
Evaṃ ‘‘bhūti satti patti vutti mutti kitti khanti titti siddhi iddhi vuddhi suddhi buddhi bodhi pīti nandi mati asani vasani sati gati vuḍḍhi yuvati aṅguli bondi diṭṭhi tuṭṭhi nābhi’’ iccādīnampi nāmikapadamālā yojetabbā.
In this way, the noun declension for "bhūti, satti, patti, vutti, mutti, kitti, khanti, titti, siddhi, iddhi, vuddhi, suddhi, buddhi, bodhi, pīti, nandi, mati, asani, vasani, sati, gati, vuḍḍhi, yuvati, aṅguli, bondi, diṭṭhi, tuṭṭhi, nābhi" and so on, should be applied.
Tương tự, chuỗi từ danh từ của “bhūti, satti, patti, vutti, mutti, kitti, khanti, titti, siddhi, iddhi, vuddhi, suddhi, buddhi, bodhi, pīti, nandi, mati, asani, vasani, sati, gati, vuḍḍhi, yuvati, aṅguli, bondi, diṭṭhi, tuṭṭhi, nābhi” v.v. cũng nên được áp dụng.
Apica ‘‘ratyo amoghā gacchanti.
Furthermore, since usages like "Unfailing nights go.
Hơn nữa, vì các cách dùng như “ratyo amoghā gacchanti.
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ.
Those who collect tribute by day and night.
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ.
Na bhūmyā caturaṅgulo.
Not four finger-breadths from the earth.
Na bhūmyā caturaṅgulo.
Seti bhūmyā anutthunaṃ.
He lies lamenting on the ground.
Seti bhūmyā anutthunaṃ.
Bhūmyā so patitaṃ pāsaṃ.
From the ground, the fallen snare.
Bhūmyā so patitaṃ pāsaṃ.
Gīvāya paṭimuñcati.
He puts it on his neck.
Gīvāya paṭimuñcati.
Imā ca nabhyo satarājicittitā.
And these navels are adorned with a hundred rows.
Imā ca nabhyo satarājicittitā.
Sateratā vijjurivappabhāsare’’ti evamādīnaṃ payogānaṃ dassanato ratti bhūmi nābhisaddādīnaṃ ayampi nāmikapadamālāviseso veditabbo.
Decorated with a hundred, shining like lightning," are seen in the Pāḷi, this specific noun declension of words like ratti, bhūmi, nābhi and so on, should be understood.
Sateratā vijjurivappabhāsare” được thấy, nên một chuỗi từ danh từ đặc biệt này cũng nên được hiểu cho các từ như ratti, bhūmi, nābhi.
Kathaṃ?
How?
Như thế nào?
2034
Ratti, rattī, rattiyo, ratyo.
Ratti, rattī, rattiyo, ratyo.
Ratti, rattī, rattiyo, ratyo.
Rattiṃ, rattī, rattiyo, ratyo.
Rattiṃ, rattī, rattiyo, ratyo.
Rattiṃ, rattī, rattiyo, ratyo.
Rattiyā, ratyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, ratyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, ratyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, ratyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, ratyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, ratyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, ratyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, ratyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, ratyā, rattīhi, rattībhi.
Rattiyā, ratyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, ratyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, ratyā, rattīnaṃ.
Rattiyā, ratyā, rattiyaṃ ratyaṃ, ratto, rattīsu.
Rattiyā, ratyā, rattiyaṃ, ratyaṃ, ratto, rattīsu.
Rattiyā, ratyā, rattiyaṃ, ratyaṃ, ratto, rattīsu.
Bhoti ratti, bhotiyo rattī, rattiyo, ratyo.
Bhoti ratti, bhotiyo rattī, rattiyo, ratyo.
Bhoti ratti, bhotiyo rattī, rattiyo, ratyo.
2035
Ettha ‘‘ratto’’ti rūpanayaṃ vajjetvā ‘‘bhūmi, bhūmī, bhūmiyo, bhūmyo’’ti sabbaṃ neyyaṃ.
Here, except for the form "ratto", everything else like "bhūmi, bhūmī, bhūmiyo, bhūmyo" should be understood.
Ở đây, ngoại trừ dạng “ratto”, tất cả nên được hiểu tương tự như “bhūmi, bhūmī, bhūmiyo, bhūmyo”.
2036
Nābhi, nābhī, nābhiyo, nabhyo.
Nābhi, nābhī, nābhiyo, nabhyo.
Nābhi, nābhī, nābhiyo, nabhyo.
Nābhiṃ, nābhī, nābhiyo, nabhyo.
Nābhiṃ, nābhī, nābhiyo, nabhyo.
Nābhiṃ, nābhī, nābhiyo, nabhyo.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīhi, nābhībhi.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīhi, nābhībhi.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīhi, nābhībhi.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīnaṃ.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīnaṃ.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīnaṃ.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīhi, nābhībhi.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīhi, nābhībhi.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīhi, nābhībhi.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīnaṃ.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīnaṃ.
Nābhiyā, nabhyā, nābhīnaṃ.
Nābhiyā, nabhyā, nābhiyaṃ, nabhyaṃ, nābhīsu.
Nābhiyā, nabhyā, nābhiyaṃ, nabhyaṃ, nābhīsu.
Nābhiyā, nabhyā, nābhiyaṃ, nabhyaṃ, nābhīsu.
Bhoti nābhi, bhotiyo nābhī, nābhiyo, nabhyo.
Bhoti nābhi, bhotiyo nābhī, nābhiyo, nabhyo.
Bhoti nābhi, bhotiyo nābhī, nābhiyo, nabhyo.
2037
Bodhi, bodhī, bodhiyo, bojjho.
Bodhi, bodhī, bodhiyo, bojjho.
Bodhi, bodhī, bodhiyo, bojjho.
Bodhiṃ, bodhiyaṃ, bojjhaṃ, bodhī, bodhiyo, bojjho.
Bodhiṃ, bodhiyaṃ, bojjhaṃ, bodhī, bodhiyo, bojjho.
Bodhiṃ, bodhiyaṃ, bojjhaṃ, bodhī, bodhiyo, bojjho.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīhi, bodhībhi.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīhi, bodhībhi.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīhi, bodhībhi.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīnaṃ.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīnaṃ.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīnaṃ.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīhi, bodhībhi.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīhi, bodhībhi.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīhi, bodhībhi.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīnaṃ.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīnaṃ.
Bodhiyā, bojjhā, bodhīnaṃ.
Bodhiyā, bojjhā, bodhiyaṃ, bojjhaṃ, bodhīsu.
Bodhiyā, bojjhā, bodhiyaṃ, bojjhaṃ, bodhīsu.
Bodhiyā, bojjhā, bodhiyaṃ, bojjhaṃ, bodhīsu.
Bhoti bodhi, bhotiyo bodhī, bodhiyo, bojjho.
Bhoti bodhi, bhotiyo bodhī, bodhiyo, bojjho.
Bhoti bodhi, bhotiyo bodhī, bodhiyo, bojjho.
2038
Ettha pana ‘‘bujjhassu jina bodhiyaṃ.
Here, a varied noun declension is given due to seeing varied Pāḷi usages like "O Victor, awaken to bodhi.
Ở đây, chuỗi từ danh từ với nhiều cách khác nhau đã được trình bày vì các cách dùng đa dạng trong Pāḷi như “bujjhassu jina bodhiyaṃ.
Aññatra bojjhā tapasā’’ti vicitrapāḷinayadassanato vicitranayā nāmikapadamālā vuttā.
Through asceticism, apart from bodhi."
Aññatra bojjhā tapasā” được thấy.
Sabbopi cāyaṃ nayo aññatthāpi yathārahaṃ yojetabbo.
All of this method should be applied appropriately elsewhere as well.
Tất cả các cách này cũng nên được áp dụng ở những nơi khác một cách thích hợp.
2039
Savinicchayoyaṃ ikārantitthiliṅgānaṃ pakatirūpassa nāmikapadamālāvibhāgo.
This is the analyzed declension of the natural forms of feminine nouns ending in -i.
Đây là sự phân loại các chuỗi từ danh từ của dạng cơ bản của các từ giống cái tận cùng bằng i được xác định rõ ràng.
2040
Ikārantatāpakatikaṃ ikārantitthiliṅgaṃ
Feminine nouns ending in -i with natural forms
Ikārantatāpakatikaṃ ikārantitthiliṅgaṃ (Dạng cơ bản tận cùng bằng i, giống cái tận cùng bằng i)
2041
Niṭṭhitaṃ.
Finished.
Đã hoàn tất.
2042
Idāni bhūrīsaddādīnaṃ nāmikapadamālaṃ vakkhāma pubbācariyamataṃ purecaraṃ katvā –
Now we will explain the noun declension of words like bhūrī, taking the opinion of ancient teachers as our guide –
Bây giờ chúng ta sẽ trình bày chuỗi từ danh từ của các từ như bhūrī, theo ý kiến của các vị thầy cổ xưa:
2043
Itthī, itthī, itthiyo.
Itthī, itthī, itthiyo.
Itthī, itthī, itthiyo.
Itthiṃ, itthī, itthiyo.
Itthiṃ, itthī, itthiyo.
Itthiṃ, itthī, itthiyo.
Itthiyā, itthīhi, itthībhi.
Itthiyā, itthīhi, itthībhi.
Itthiyā, itthīhi, itthībhi.
Itthiyā, itthīnaṃ.
Itthiyā, itthīnaṃ.
Itthiyā, itthīnaṃ.
Itthiyā, itthīhi, itthībhi.
Itthiyā, itthīhi, itthībhi.
Itthiyā, itthīhi, itthībhi.
Itthiyā, itthīnaṃ.
Itthiyā, itthīnaṃ.
Itthiyā, itthīnaṃ.
Itthiyā, itthiyaṃ, itthīsu.
Itthiyā, itthiyaṃ, itthīsu.
Itthiyā, itthiyaṃ, itthīsu.
Bhoti itthi, bhotiyo itthiyo.
Bhoti itthi, bhotiyo itthiyo.
Bhoti itthi, bhotiyo itthiyo.
Yamakamahātheramataṃ.
The opinion of Yamakamahāthera.
Ý kiến của Yamakamahāthera.
2044
‘‘Bhūrī, bhūrī, bhūriyo.
"Bhūrī, bhūrī, bhūriyo.
“Bhūrī, bhūrī, bhūriyo.
Bhūriṃ, bhūrī, bhūri yo’’ti itthiyā samaṃ.
Bhūriṃ, bhūrī, bhūriyo" are like itthi.
Bhūriṃ, bhūrī, bhūriyo” – tương tự như itthi.
Evaṃ bhūtī bhotī vibhāvinī iccādīnaṃ bhūdhātumayānaṃ aññesañca īkārantasaddānaṃ nāmikapadamālā yojetabbā.
In this way, the noun declension for "bhūtī, bhotī, vibhāvinī" and other nouns formed from the root bhū, as well as other words ending in , should be applied.
Tương tự, chuỗi từ danh từ của các từ tận cùng bằng ī khác, được tạo từ gốc bhū như bhūtī, bhotī, vibhāvinī v.v. cũng nên được áp dụng.
Etthaññe īkārantasaddā nāma –
Here, other words ending in are –
Ở đây, các từ tận cùng bằng ī khác là:
2045
‘‘Mātulānī ca bhaginī, bhikkhunī sāmugī ajī;
"Mātulānī and bhaginī, bhikkhunī, sāmugī, ajī;
“Mātulānī và bhaginī, bhikkhunī, sāmugī, ajī;
2046
Vāpī pokkharaṇī devī, nāgī yakkhinī rājinī.
Vāpī, pokkharaṇī, devī, nāgī, yakkhinī, rājinī.
Vāpī, pokkharaṇī, devī, nāgī, yakkhinī, rājinī.
2047
Dāsī ca brāhmaṇī muṭṭha-ssatinī sīghayāyinī;
Dāsī and brāhmaṇī, muṭṭhassatinī, sīghayāyinī;
Dāsī và brāhmaṇī, muṭṭhassatinī, sīghayāyinī;
2048
Sākiyānī’’ti cādīni, payogāni bhavanti hi.
Sākiyānī" and so on, indeed, these usages occur.
Sākiyānī” v.v. là các cách dùng.
2049
Tatra ‘‘pokkharaṇī dāsī, brāhmaṇi’’ccādinaṃ gati;
There, the usage of "pokkharaṇī, dāsī, brāhmaṇī" and so on;
Ở đó, cách dùng của “pokkharaṇī, dāsī, brāhmaṇi” v.v.;
2050
Aññathāpi siyā gāthā-cuṇṇiyesu yathārahaṃ.
May also be otherwise in verses and prose where appropriate.
cũng có thể khác trong các bài kệ và văn xuôi tùy theo trường hợp.
2051
‘‘Kusāvatī’’tiādīnaṃ, gāthāsveva visesato;
The forms for "Kusāvatī" and so on, especially in verses;
Các dạng của “Kusāvatī” v.v., đặc biệt trong các bài kệ;
2052
Rūpāni aññathā honti, ekavacanato vade.
Are different; one should say in the singular.
có thể khác ở số ít.
2053
‘‘Kāsī avantī’’iccādī, bahuvacanato vade;
"Kāsī, Avantī" and so on, one should say in the plural;
“Kāsī, avantī” v.v., ở số nhiều;
2054
‘‘Candavatī’’tiādīni, payogassānurūpato.
"Candavatī" and so on, according to the usage.
“Candavatī” v.v. tùy theo cách dùng.
2055
Tathā hi ‘‘pokkharañño sumāpitā.
Thus, since Pāḷi passages like "The ponds were well-made.
Thật vậy, vì các đoạn Pāḷi như “pokkharañño sumāpitā.
Tā ca sattasatā bhariyā, dāsyo sattasatāni ca.
And those seven hundred wives, and seven hundred female slaves.
Tā ca sattasatā bhariyā, dāsyo sattasatāni ca.
Dārake ca ahaṃ nessaṃ, brāhmaṇyā paricārake.
I will lead the children, servants for the brāhmaṇī.
Dārake ca ahaṃ nessaṃ, brāhmaṇyā paricārake.
Najjo sandanti.
Rivers flow.
Najjo sandanti.
Najjā nerañjarāya tīre.
On the bank of the Nerañjarā river.
Najjā nerañjarāya tīre.
Lakkhyā bhava nivesanaṃ.
May your abode be fortunate.
Lakkhyā bhava nivesanaṃ.
2056
Bārāṇasyaṃ mahārāja, kākarājā nivāsako;
O great king, the king of crows, dwelling in Bārāṇasī;
Bārāṇasyaṃ mahārāja, kākarājā nivāsako;
2057
Asītiyā sahassehi, supatto parivārito.
Accompanied by eighty thousand well-feathered ones.
Asītiyā sahassehi, supatto parivārito.
2058
Rājā yathā vessavaṇo naḷiñña’’nti
The king is like Vessavaṇa in the Nalinī forest,"
Rājā yathā vessavaṇo naḷiñña” được thấy,
2059
Evamādīnaṃ pāḷīnaṃ dassanato pokkharaṇī iccādīnaṃ nāmikapadamālāyo savisesā yojetabbā.
and so on, are seen, the special noun declensions for pokkharaṇī and so on should be applied.
nên các chuỗi từ danh từ của pokkharaṇī v.v. với các đặc điểm riêng biệt nên được áp dụng.
Kathaṃ?
How?
Như thế nào?
‘Pokkharaṇī, pokkharaṇī, pokkharaṇiyo, pokkharañño.
After saying ‘Pokkharaṇī, pokkharaṇī, pokkharaṇiyo, pokkharañño.
Sau khi nói “Pokkharaṇī, pokkharaṇī, pokkharaṇiyo, pokkharañño.
Pokkharaṇi’’ntiādinā vatvā karaṇasampadānanissakkasāmivacanaṭṭhāne ‘‘pokkharaṇiyā, pokkharaññā’’ti ekavacanāni vattabbāni.
Pokkharaṇi’ and so on, in the places for instrumental, dative, ablative, and genitive singular, "pokkharaṇiyā, pokkharaññā" should be stated.
Pokkharaṇi” v.v., ở vị trí của các cách cách công cụ, cách tặng cách, cách xuất xứ và cách sở hữu, các dạng số ít “pokkharaṇiyā, pokkharaññā” nên được nói.
Bhummavacanaṭṭhāne pana ‘‘pokkharaṇiyā, pokkharaññā, pokkharaṇiyaṃ, pokkharañña’’nti ca ekavacanāni vattabbāni.
In the place for the locative singular, "pokkharaṇiyā, pokkharaññā, pokkharaṇiyaṃ, pokkharañña" should also be stated.
Còn ở vị trí của cách vị trí, các dạng số ít “pokkharaṇiyā, pokkharaññā, pokkharaṇiyaṃ, pokkharañña” nên được nói.
Sabbattha ca padāni paripuṇṇāni kātabbāni.
And the words should be made complete in all cases.
Và ở tất cả các trường hợp, các từ nên được hoàn chỉnh.
Tathā ‘‘dāsī, dāsī, dāsiyo, dāsyo.
Similarly, after saying "dāsī, dāsī, dāsiyo, dāsyo.
Tương tự, sau khi nói “dāsī, dāsī, dāsiyo, dāsyo.
Dāsiṃ, dāsiyaṃ, dāsī, dāsiyo, dāsyo’’ti vatvā karaṇavacanaṭṭhānādīsu ‘‘dāsiyā, dāsyā’’ti ekavacanāni vattabbāni.
Dāsiṃ, dāsiyaṃ, dāsī, dāsiyo, dāsyo", in the places for instrumental and other singulars, "dāsiyā, dāsyā" should be stated.
Dāsiṃ, dāsiyaṃ, dāsī, dāsiyo, dāsyo”, ở vị trí của cách công cụ v.v., các dạng số ít “dāsiyā, dāsyā” nên được nói.
Bhummavacanaṭṭhāne pana ‘‘dāsiyā, dāsyā, dāsiyaṃ, dāsya’’nti ca ekavacanāni vattabbāni.
In the place for the locative singular, "dāsiyā, dāsyā, dāsiyaṃ, dāsya" should also be stated.
Còn ở vị trí của cách vị trí, các dạng số ít “dāsiyā, dāsyā, dāsiyaṃ, dāsya” nên được nói.
Sabbattha padāni paripuṇṇāni kātabbāni.
The words should be made complete in all cases.
Ở tất cả các trường hợp, các từ nên được hoàn chỉnh.
Ettha pana ‘‘yaṭṭhiyā paṭikoṭeti, ghare jātaṃva dāsiyaṃ.
Here, however, "She strikes with a stick, like a female slave born in the house.
Tuy nhiên, ở đây, “yaṭṭhiyā paṭikoṭeti, ghare jātaṃva dāsiyaṃ.
Phusissāmi vimuttiya’’nti payogānaṃ dassanato aṃvacanassa yamādesavasena ‘‘dāsiya’’nti vuttaṃ.
In the usage of expressions like "Phusissāmi vimuttiya" (I will attain liberation), the word "dāsiya" is used due to the substitution of ya for aṃ.
‘‘Phusissāmi vimuttiya’’ (Tôi sẽ chạm đến sự giải thoát) là những cách dùng được nói đến là ‘‘dāsiya’’ do sự thay thế aṃ-vacaṇa bằng ya.
Tesu ca ‘‘ghare jātaṃva dāsiya’’nti ettha aṃvacanassa yamādesato aññopi saddanayo labbhati.
And among those, in the phrase "ghare jātaṃva dāsiya" (like a female slave born in the house), besides the substitution of ya for aṃ, another grammatical method is also possible.
Trong số đó, ở chỗ ‘‘ghare jātaṃva dāsiya’’ (như người nữ tì sinh trong nhà), một cách ngữ pháp khác cũng được chấp nhận từ sự thay thế aṃ-vacaṇa bằng ya.
Kathaṃ?
How?
Thế nào?
Yathā daharī eva ‘‘dahariyā’’ti vuccati, evaṃ dāsī eva ‘‘dāsiyā’’ti.
Just as daharī (a young woman) is called dahariyā, so too dāsī (a female slave) is called dāsiyā.
Giống như một người nữ trẻ (daharī) được gọi là ‘‘dahariyā’’, tương tự, một người nữ tì (dāsī) được gọi là ‘‘dāsiyā’’.
2060
Ettha pana ‘‘passāmi vohaṃ dahariṃ, kumāriṃ cārudassana’’nti ca ‘‘ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu, evaṃ dahariyaṃ sati’’nti ca pāḷi nidassanaṃ, upayogavacanicchāya ‘‘dāsiya’’nti vuttaṃ, imasmiṃ panādhippāye ‘‘dāsiyā, dāsiyā, dāsiyāyo.
Here, however, the Pāli texts "Passāmi vohaṃ dahariṃ, kumāriṃ cārudassana" (I see a young woman, a charming maiden) and "ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu, evaṃ dahariyaṃ sati" (those who brought her to the old man, when she was thus a young woman) are examples, and "dāsiya" is spoken with the intention of using it as a case ending. With this intention, the nominal declension would be "dāsiyā, dāsiyā, dāsiyāyo
Ở đây, các đoạn Pāḷi ‘‘passāmi vohaṃ dahariṃ, kumāriṃ cārudassana’’ (Tôi thấy một cô gái trẻ, một thiếu nữ có dung mạo khả ái) và ‘‘ye taṃ jiṇṇassa pādaṃsu, evaṃ dahariyaṃ sati’’ (Những ai đã ban cho người già này, như vậy khi còn trẻ) là những ví dụ. ‘‘Dāsiya’’ được nói đến theo ý nghĩa của cách dùng. Tuy nhiên, trong ý nghĩa này, chuỗi danh từ là ‘‘dāsiyā, dāsiyā, dāsiyāyo.
Dāsiyaṃ, dāsiyā, dāsiyāyo.
Dāsiyaṃ, dāsiyā, dāsiyāyo
Dāsiyaṃ, dāsiyā, dāsiyāyo.
Dāsiyāyā’’ti kaññānayeneva nāmikapadamālā bhavati ‘‘kumāriyā’’ti saddasseva.
Dāsiyāyā" following the pattern of kaññā, just like the word "kumāriyā".
Dāsiyāyā’’ theo kiểu của kaññā, giống như từ ‘‘kumāriyā’’.
Tathā hi ‘‘kumāriye upaseniye’’ti pāḷi dissati.
Indeed, the Pāli phrase "kumāriye upaseniye" is found.
Thật vậy, đoạn Pāḷi ‘‘kumāriye upaseniye’’ (Hỡi thiếu nữ Upasenī) được thấy.
Tathā ‘‘pupphavatiyā, pupphavatiyaṃ, pupphavatiyāya, pupphavatiyāyaṃ, bhoti pupphavatiye’’ti kaññānayanissitena ekavacananayena nāmikapadamālā bhavati.
Similarly, the nominal declension for the singular case would be "pupphavatiyā, pupphavatiyaṃ, pupphavatiyāya, pupphavatiyāyaṃ, bhoti pupphavatiye", following the kaññā pattern.
Tương tự, chuỗi danh từ là ‘‘pupphavatiyā, pupphavatiyaṃ, pupphavatiyāya, pupphavatiyāyaṃ, bhoti pupphavatiye’’ theo cách số ít dựa trên kiểu kaññā.
2061
Ettha pana ‘‘atīte ayaṃ bārāṇasī pupphavatiyā nāma ahosi.
Here, the Pāli texts "Atīte ayaṃ Bārāṇasī Pupphavatiyā nāma ahosi" (In the past, this Bārāṇasī was named Pupphavatī),
Ở đây, đoạn Pāḷi ‘‘atīte ayaṃ bārāṇasī pupphavatiyā nāma ahosi.
Rājāsi luddakammo, ekarājā pupphavatiyāyaṃ.
"Rājāsi luddakammo, ekarājā Pupphavatiyāyaṃ" (There was a king of cruel deeds, a sole king in Pupphavatī),
Rājāsi luddakammo, ekarājā pupphavatiyāyaṃ.
Uyyassu pubbena pupphavatiyāyā’’ti pāḷi ca aṭṭhakathāpāṭho ca nidassanaṃ.
and the Aṭṭhakathā passage "Uyyassu pubbena Pupphavatiyāyā" (Go forth to the east of Pupphavatī) are examples.
Uyyassu pubbena pupphavatiyāyā’’ (Trong quá khứ, Bārāṇasī này có tên là Pupphavatī. Vua là người có nghiệp ác, một vị vua ở Pupphavatī. Hãy rời đi về phía đông của Pupphavatī) và văn bản chú giải là những ví dụ.
Aparo nayo – ‘‘dāsiyā dahariyā kumāriyā’’tiādīsu kakārassa yakārādesopi daṭṭhabbo.
Another method: in words like "dāsiyā, dahariyā, kumāriyā", the substitution of ya for the letter ka should also be noted.
Một cách khác – sự thay thế ka-kāra bằng ya-kāra cũng nên được thấy trong các từ như ‘‘dāsiyā dahariyā kumāriyā’’ (của người nữ tì, của người nữ trẻ, của thiếu nữ).
Brāhmaṇīsaddassa tu ‘‘brāhmaṇī, brāhmaṇī, brāhmaṇiyo, brāhmaṇyo.
For the word brāhmaṇī, after stating "brāhmaṇī, brāhmaṇī, brāhmaṇiyo, brāhmaṇyo,
Đối với từ brāhmaṇī (nữ Bà-la-môn), sau khi nói các dạng như ‘‘brāhmaṇī, brāhmaṇī, brāhmaṇiyo, brāhmaṇyo.
Brāhmaṇi’’ntiādīni vatvā karaṇavacanaṭṭhānādīsu ‘‘brāhmaṇiyā, brāhmaṇyā’’ti ekavacanāni vattabbāni, sabbattha ca padāni paripuṇṇāni kātabbāni.
brāhmaṇi", etc., the singular forms "brāhmaṇiyā, brāhmaṇyā" should be stated in the instrumental case and other such places, and all words should be made complete.
Brāhmaṇi’’, các dạng số ít ‘‘brāhmaṇiyā, brāhmaṇyā’’ nên được nói ở vị trí cách công cụ và các cách khác, và tất cả các từ nên được làm cho hoàn chỉnh.
Nadīsaddassa ‘‘nadī, nadī, nadiyo, najjo.
For the word nadī, after stating "nadī, nadī, nadiyo, najjo,
Đối với từ nadī (sông), sau khi nói các dạng như ‘‘nadī, nadī, nadiyo, najjo.
Nadi’’ntiādinā vatvā ‘‘nadiyā, najjā’’ti ca ‘‘nadiyaṃ, najja’’nti ca vattabbaṃ, sabbattha ca padāni paripuṇṇāni kātabbāni.
nadi", etc., "nadiyā, najjā" and "nadiyaṃ, najja" should be stated, and all words should be made complete.
Nadi’’, ‘‘nadiyā, najjā’’ và ‘‘nadiyaṃ, najja’’ nên được nói, và tất cả các từ nên được làm cho hoàn chỉnh.
Itthiliṅgesu hi paccattabahuvacane diṭṭheyeva upayogabahuvacanaṃ anāgatampi diṭṭhameva hoti, tathā upayogabahuvacane diṭṭheyeva paccattabahuvacanaṃ anāgatampi diṭṭhameva hoti, karaṇasampadānanissakkasāmibhummavacanānampi aññatarasmiṃ diṭṭheyeva aññataraṃ diṭṭhameva hoti.
Indeed, in feminine nouns, when the accusative plural is seen, the locative plural, though not present, is also considered as seen. Similarly, when the locative plural is seen, the accusative plural, though not present, is also considered as seen. And when one of the instrumental, dative, ablative, genitive, or locative cases is seen, the others, though not present, are also considered as seen.
Trong các từ giống cái, khi thấy cách chủ cách số nhiều, cách đối cách số nhiều chưa được thấy cũng được xem là đã thấy; tương tự, khi thấy cách đối cách số nhiều, cách chủ cách số nhiều chưa được thấy cũng được xem là đã thấy; và khi thấy một trong các cách công cụ, tặng cách, xuất xứ cách, sở hữu cách, vị trí cách, cách khác cũng được xem là đã thấy.
Tathā hi ‘‘dāsā ca dāsyo anujīvino cā’’ti ettha ‘‘dāsyo’’ti paccattabahuvacane diṭṭheyeva aparampi ‘‘dāsyo’’ti upayogabahuvacanaṃ taṃsadisattā diṭṭhameva hoti.
Thus, in "dāsā ca dāsyo anujīvino cā" (male slaves and female slaves and dependents), when "dāsyo" is seen in the accusative plural, the other "dāsyo" in the locative plural, being similar, is also considered as seen.
Thật vậy, ở chỗ ‘‘dāsā ca dāsyo anujīvino cā’’ (các nô lệ nam và các nô lệ nữ và những người phục vụ), khi ‘‘dāsyo’’ được thấy ở cách chủ cách số nhiều, cách đối cách số nhiều ‘‘dāsyo’’ khác cũng được xem là đã thấy vì sự tương tự.
2062
‘‘Sakko ca me varaṃ dajjā, so ca labbhetha me varo;
"If Sakka would grant me a boon, and that boon would be obtained by me;
‘‘Nếu Sakka ban cho tôi một điều ước, và điều ước đó được tôi chấp nhận;
2063
Ekarattaṃ dvirattaṃ vā, bhaveyyaṃ abhipārako;
For one night or two nights, may I be a protector;
Trong một đêm hoặc hai đêm, tôi sẽ là người vượt qua;
2064
Ummādantyā ramitvāna, sivirājā tato siya’’nti
Having sported with Ummādantī, then I would be King Sivi,"
Sau khi vui vẻ với Ummādantī, vua Sivi sẽ ở đó’’ –
2065
Ettha ‘‘ummādantyā’’ti karaṇavacane diṭṭheyeva taṃsadisāni sampadānanissakkasāmibhummavacanānipi diṭṭhāniyeva honti.
Here, when "ummādantyā" is seen in the instrumental case, the similar dative, ablative, genitive, and locative cases are also considered as seen.
Ở đây, khi ‘‘ummādantyā’’ được thấy ở cách công cụ, các cách tương tự như tặng cách, xuất xứ cách, sở hữu cách, vị trí cách cũng được xem là đã thấy.
‘‘Brāhmaṇyā paricārake’’ti ettha ‘‘brāhmaṇyā’’ti sāmivacane diṭṭheyeva taṃsadisāni karaṇasampadānanissakkabhummavacanānipi diṭṭhāniyeva honti.
In "brāhmaṇyā paricārake" (servants of the brāhmaṇī), when "brāhmaṇyā" is seen in the genitive case, the similar instrumental, dative, ablative, and locative cases are also considered as seen.
Ở chỗ ‘‘brāhmaṇyā paricārake’’ (người phục vụ của nữ Bà-la-môn), khi ‘‘brāhmaṇyā’’ được thấy ở cách sở hữu, các cách tương tự như công cụ, tặng cách, xuất xứ cách, vị trí cách cũng được xem là đã thấy.
‘‘Seti bhūmyā anutthuna’’nti ettha ‘‘pathabyā cārupubbaṅgī’’ti ettha ca ‘‘bhūmyā, pathabyā’’ti sattamiyā ekavacane diṭṭheyeva taṃsadisāni karaṇasampadānanissakkasāmivacanānipi diṭṭhāniyeva honti.
In "seti bhūmyā anutthuna" (he sleeps lamenting on the ground) and "pathabyā cārupubbaṅgī" (of the earth, having beautiful fore-parts), when "bhūmyā, pathabyā" is seen in the singular locative case, the similar instrumental, dative, ablative, and genitive cases are also considered as seen.
Ở chỗ ‘‘seti bhūmyā anutthuna’’ (nằm trên đất than thở) và ở chỗ ‘‘pathabyā cārupubbaṅgī’’ (người đẹp nhất trên trái đất), khi ‘‘bhūmyā, pathabyā’’ được thấy ở cách vị trí số ít, các cách tương tự như công cụ, tặng cách, xuất xứ cách, sở hữu cách cũng được xem là đã thấy.
‘‘Bārāṇasyaṃ mahārājā’’ti ettha ‘‘bārāṇasya’’nti bhummavacane diṭṭheyeva taṃsadisāni aññānipi ‘‘brāhmaṇyaṃ ekādasyaṃ pañcamya’’ntiādīni bhummavacanāni diṭṭhāniyeva honti.
In "Bārāṇasyaṃ mahārājā" (the great king in Bārāṇasī), when "Bārāṇasyaṃ" is seen in the locative case, other similar locative cases like "brāhmaṇyaṃ, ekādasyaṃ, pañcamyaṃ" are also considered as seen.
Ở chỗ ‘‘bārāṇasyaṃ mahārājā’’ (đại vương ở Bārāṇasī), khi ‘‘bārāṇasyaṃ’’ được thấy ở cách vị trí, các cách vị trí tương tự khác như ‘‘brāhmaṇyaṃ ekādasyaṃ pañcamya’’ (ở nữ Bà-la-môn, ở thứ mười một, ở thứ năm) cũng được xem là đã thấy.
2066
Gaṇhanti ca tādisāni rūpāni pubbācariyāsabhāpi gāthābhisaṅkharaṇavasena.
And such forms are accepted by the former venerable teachers also in the composition of verses.
Và các vị đạo sư xưa cũng chấp nhận các dạng như vậy khi tạo các bài kệ.
Sāsanepi pana etādisāni rūpāni yebhuyyena gāthāsu sandissanti.
Moreover, in the Dispensation, such forms are mostly found in verses.
Trong giáo pháp, các dạng như vậy chủ yếu được tìm thấy trong các bài kệ.
2067
Kusāvatī.
Kusāvatī.
Kusāvatī.
Kusāvatiṃ.
Kusāvatiṃ.
Kusāvatiṃ.
Kusāvatiyā, kusāvatyā.
Kusāvatiyā, kusāvatyā.
Kusāvatiyā, kusāvatyā.
Kusāvatiyaṃ, kusāvatyaṃ.
Kusāvatiyaṃ, kusāvatyaṃ.
Kusāvatiyaṃ, kusāvatyaṃ.
Bhoti kusāvati.
Bhoti kusāvati.
Bhoti kusāvati.
2068
Bārāṇasī.
Bārāṇasī.
Bārāṇasī.
Bārāṇasiṃ.
Bārāṇasiṃ.
Bārāṇasiṃ.
Bārāṇasiyā, bārāṇasyā.
Bārāṇasiyā, bārāṇasyā.
Bārāṇasiyā, bārāṇasyā.
Bārāṇasiyaṃ, bārāṇasyaṃ, bārāṇassaṃ iccapi, bhoti bārāṇasi.
Bārāṇasiyaṃ, bārāṇasyaṃ, bārāṇassaṃ, bhoti Bārāṇasi.
Bārāṇasiyaṃ, bārāṇasyaṃ, bārāṇassaṃ, bhoti bārāṇasi.
2069
Naḷinī.
Naḷinī.
Naḷinī.
Naḷiniṃ.
Naḷiniṃ.
Naḷiniṃ.
Naḷiniyā, naḷiññā.
Naḷiniyā, naḷiññā.
Naḷiniyā, naḷiññā.
Naḷiniyaṃ, naḷiññaṃ.
Naḷiniyaṃ, naḷiññaṃ.
Naḷiniyaṃ, naḷiññaṃ.
Bhoti naḷini.
Bhoti naḷini.
Bhoti naḷini.
Aññānipi yojetabbāni.
Others also should be combined.
Các từ khác cũng nên được kết hợp.
2070
Gāthāvisayaṃ pana patvā ‘‘kusāvatimhi, bārāṇasimhi, naḷinimhī’’tiādinā saddarūpānipiyojetabbāni.
However, upon reaching the realm of verse, word forms like "kusāvatimhi, bārāṇasimhi, naḷinimhi" and so on, should also be employed.
Tuy nhiên, khi nói đến phạm vi của các bài kệ, các dạng từ như ‘‘kusāvatimhi, bārāṇasimhi, naḷinimhī’’ nên được kết hợp.
Tathā hi pāḷiyaṃ ‘‘kusāvatimhi’’ādīni mhiyantāni itthiliṅgarūpāni gāthāsuyeva paññāyanti, na cuṇṇiyapadaracanāyaṃ.
Indeed, in Pāli, such feminine forms ending in mhi like "kusāvatimhi" and so on, appear only in verses, not in prose compositions.
Thật vậy, trong Pāḷi, các dạng giống cái kết thúc bằng mhi như ‘‘kusāvatimhi’’ chỉ được tìm thấy trong các bài kệ, không phải trong văn xuôi.
Akkharasamaye pana tādisāni rūpāni anivāritāni ‘‘nadimhā cā’’tiādidassanato.
However, in grammar, such forms are not prohibited, as seen in "nadimhā cā" and so on.
Tuy nhiên, trong ngữ pháp (akkharasamaye), các dạng như vậy không bị cấm vì có thể thấy ‘‘nadimhā cā’’.
Yaṃ pana aṭṭhakathāsu cuṇṇiyapadaracanāyaṃ ‘‘sammādiṭṭhimhī’’tiādikaṃ itthiliṅgarūpaṃ dissati, taṃ akkharavipallāsavasena vuttanti daṭṭhabbaṃ cuṇṇiyapadaṭṭhāne ‘‘sammādiṭṭhiyaṃ paṭisandhiyaṃ sugatiyaṃ duggatiya’’ntiādidassanato.
But when a feminine form like "sammādiṭṭhimhi" and so on, appears in the Aṭṭhakathā's prose compositions, it should be understood as stated due to a change of letters, given that in prose positions, "sammādiṭṭhiyaṃ, paṭisandhiyaṃ, sugatiyaṃ, duggatiyaṃ" and so on are seen.
Tuy nhiên, dạng giống cái như ‘‘sammādiṭṭhimhī’’ được thấy trong văn xuôi của các chú giải nên được hiểu là do lỗi chính tả, vì có thể thấy ‘‘sammādiṭṭhiyaṃ paṭisandhiyaṃ sugatiyaṃ duggatiya’’ ở vị trí văn xuôi.
Ayaṃ panettha niyamo sugatasāsane gāthāyaṃ cuṇṇiyapadaṭṭhāne ca ‘‘kaññā ratti itthī yāgu vadhū’’ti evaṃ pañcantehi itthiliṅgehi saddhiṃ nā sa smā smiṃ mhā mhiiccete saddā sarūpato parattaṃ na yanti.
The rule here in the Buddha's Dispensation is that in verses and in prose positions, the words , sa, smā, smiṃ, mhā, mhi do not change their form when following feminine nouns ending in a, i, ī, u, ū, such as kaññā, ratti, itthī, yāgu, vadhū.
Đây là quy tắc trong giáo pháp của Đức Phật: trong các bài kệ và ở vị trí văn xuôi, các từ nā, sa, smā, smiṃ, mhā, mhi không đi sau các từ giống cái kết thúc bằng kaññā, ratti, itthī, yāgu, vadhū (nghĩa là năm loại từ giống cái này).
Mhisaddo pana gāthāyaṃ ivaṇṇantehi itthiliṅgehi saddhiṃ parattaṃ yāti.
However, the word mhi does change form in verses when following feminine nouns ending in i.
Tuy nhiên, từ mhi đi sau các từ giống cái kết thúc bằng i-vanna trong các bài kệ.
Tatridaṃ vuccati –
Concerning this, it is said:
Về điều này, có câu nói:
2071
‘‘Gāthāyaṃ cuṇṇiye cāpi, nā sasmādī sarūpato;
"In verse and also in prose,
‘‘Trong bài kệ và văn xuôi, các từ nā, smā và các từ tương tự theo đúng dạng;
2072
kārantaivaṇṇanta-itthīti parataṃ gatā.
and smā, etc., which follow feminine nouns ending in a and ī have not changed form.
Đi sau các từ giống cái kết thúc bằng āi.
2073
Mhisaddo pana gāthāyaṃ, ivaṇṇantitthibhī saha;
But the word mhi in verse, with feminine nouns ending in i,
Tuy nhiên, từ mhi trong bài kệ, cùng với các từ giống cái kết thúc bằng i-vanna;
2074
Ya’to parattametassa, payogāni bhavanti hi.
because it follows them, these are indeed its usages.
Vì vậy, các cách dùng của nó xuất hiện sau đó.
2075
Yathā balākayonimhi, na vijjati pumo sadā;
Just as in the stork species, no male is ever found;
Như trong loài cò, không bao giờ có con đực;
2076
Kusāvabhimhi nagare, rājā āsi mahīpatī’’ti.
In the city of Kusāvabhimhi, there was a great king."
Trong thành phố Kusāvatī, có một vị vua trị vì’’.
2077
Evaṃ kusāvatī iccādīni aññathā bhavanti, nagaranāmattā panekavacanānipi, na janapadanāmāni viya bahuvacanāni.
Thus, "kusāvatī" and so on, appear differently; but being names of cities, they are singular, not plural like names of provinces.
Như vậy, các từ ‘‘kusāvatī’’ và các từ tương tự có thể khác đi, nhưng vì là tên thành phố nên chúng là số ít, không phải số nhiều như tên các quốc gia.
‘‘Kāsī, kāsiyo.
"Kāsī, kāsiyo.
‘‘Kāsī, kāsiyo.
Kāsīhi, kāsībhi.
Kāsīhi, kāsībhi.
Kāsīhi, kāsībhi.
Kāsīnaṃ.
Kāsīnaṃ.
Kāsīnaṃ.
Kāsīsu.
Kāsīsu.
Kāsīsu.
Bhotiyo kāsiyo.
Bhotiyo kāsiyo."
Bhotiyo kāsiyo.
Evaṃ avantī avantiyo’’tiādināpi nāmikapadamālā yojetabbā.
Similarly, the nominal declension "Avanti, avantiyo" and so on, should be applied.
Tương tự, chuỗi danh từ ‘‘avantī avantiyo’’ cũng nên được kết hợp.
Aññānipi padāni gahetabbāni.
Other words should also be included.
Các từ khác cũng nên được lấy.
Evaṃ kāsīiccādīni janapadanāmattā rūḷhīvasena bahuvacanāneva bhavanti atthassa ekattepi.
Thus, "Kāsī" and so on, being names of provinces, are conventionally always plural, even when referring to a single entity.
Như vậy, các từ ‘‘kāsī’’ và các từ tương tự, vì là tên quốc gia, theo quy ước, chúng luôn ở dạng số nhiều ngay cả khi ý nghĩa là số ít.
2078
Candavatī, candavatiṃ, candavatiyā, candavatiyaṃ, bhoti candavati, evaṃ ekavacanavasena vā, candavatiyo, candavatiyo, candavatīhi, candavatībhi, candavatīnaṃ, candavatīsu, bhotiyo candavatiyo, evaṃ bahuvacanavasena vā nāmikapadamālā veditabbā, aññānipi padāni yojetabbāni.
Candavatī, candavatiṃ, candavatiyā, candavatiyaṃ, bhoti candavati, thus in the singular form; or candavatiyo, candavatiyo, candavatīhi, candavatībhi, candavatīnaṃ, candavatīsu, bhotiyo candavatiyo, thus in the plural form, the nominal declension should be understood, and other words should also be combined.
Candavatī, candavatiṃ, candavatiyā, candavatiyaṃ, bhoti candavati, chuỗi danh từ có thể được hiểu là số ít, hoặc candavatiyo, candavatiyo, candavatīhi, candavatībhi, candavatīnaṃ, candavatīsu, bhotiyo candavatiyo, theo dạng số nhiều, các từ khác cũng nên được kết hợp.
‘‘Candavatī’’iccādīni hi ekissā bahūnañcitthīnaṃ paṇṇattibhāvato payogānurūpena ekavacanavasena vā bahuvacanavasena vā yojetabbāni bhavanti.
Indeed, words like "Candavatī" are designations for one or many women, so they should be combined in either singular or plural form according to the context of the usage.
Thật vậy, các từ ‘‘Candavatī’’ và các từ tương tự, vì là tên gọi của một hoặc nhiều phụ nữ, nên được kết hợp theo dạng số ít hoặc số nhiều tùy theo cách dùng.
Esa nayo aññatrāpi.
The same method applies elsewhere.
Nguyên tắc này cũng áp dụng ở những nơi khác.
2079
Savinicchayoyaṃ īkārantitthiliṅgānaṃ pakatirūpassa nāmikapadamālāvibhāgo.
This is the detailed explanation of the nominal declension for the inherent forms of feminine nouns ending in ī.
Đây là sự phân loại chuỗi danh từ của các dạng tự nhiên của các từ giống cái kết thúc bằng ī-kāra, kèm theo sự quyết định.
2080
Īkārantatāpakatikaṃ īkārantitthiliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
The feminine nouns ending in ī, which are the basis (of formation), are concluded.
Phần danh từ giống cái tận cùng bằng Ī theo quy tắc tự nhiên đã hoàn tất.
2081
Idāni bhūdhātumayānaṃ ukārantitthiliṅgānaṃ appasiddhattā aññena ukārantitthiliṅgena nāmikapadamālaṃ pūressāma –
Now, as the feminine nouns ending in u formed from the root bhū are not well-known, we shall complete the nominal declension series with another feminine noun ending in u
Bây giờ, vì các danh từ giống cái tận cùng bằng U có gốc từ bhū không phổ biến, chúng ta sẽ hoàn thành bảng biến cách danh từ bằng một danh từ giống cái tận cùng bằng U khác –
2082
Yāgu, yāgū, yāguyo.
Yāgu, yāgū, yāguyo.
Yāgu, yāgū, yāguyo.
Yāguṃ, yāgū, yāguyo.
Yāguṃ, yāgū, yāguyo.
Yāguṃ, yāgū, yāguyo.
Yāguyā, yāgūhi, yāgūbhi.
Yāguyā, yāgūhi, yāgūbhi.
Yāguyā, yāgūhi, yāgūbhi.
Yāguyā, yāgūnaṃ.
Yāguyā, yāgūnaṃ.
Yāguyā, yāgūnaṃ.
Yāguyā, yāgūhi, yāgūbhi.
Yāguyā, yāgūhi, yāgūbhi.
Yāguyā, yāgūhi, yāgūbhi.
Yāguyā, yāgūnaṃ.
Yāguyā, yāgūnaṃ.
Yāguyā, yāgūnaṃ.
Yāguyā, yāguyaṃ, yāgūsu.
Yāguyā, yāguyaṃ, yāgūsu.
Yāguyā, yāguyaṃ, yāgūsu.
Bhoti yāgu, bhotiyo yāgū, yāguyo.
Bhoti yāgu, bhotiyo yāgū, yāguyo.
Bhoti yāgu, bhotiyo yāgū, yāguyo.
2083
Evaṃ ‘‘dhātu dhenu kāsu daddu kaṇḍu kacchu rajju’’iccādīni.
Thus, words like "dhātu, dhenu, kāsu, daddu, kaṇḍu, kacchu, rajju" (etc.) should be declined.
Tương tự như vậy là các từ ‘‘dhātu, dhenu, kāsu, daddu, kaṇḍu, kacchu, rajju’’ v.v.
Tatra dhātusaddo rasarudhiramaṃsamedanhāruaṭṭhiaṭṭhimiñjasukkasaṅkhātadhātuvācako pulliṅgo, sabhāvavācako pana sugatādīnaṃ sārīrikavācako lokadhātuvācako ca cakkhādivācako ca itthiliṅgo, bhū hū karapacādisaddavācako itthiliṅgoceva pulliṅgo ca.
Among these, the word dhātu referring to the constituents of the body, namely essence, blood, flesh, fat, sinews, bones, bone-marrow, and semen, is masculine; but when it refers to nature, the bodily relics of a Sugata and others, or the world-elements (lokadhātu), or the eye and other sense-bases, it is feminine; and when it refers to the roots like bhū, hū, kara, paca (etc.), it is both feminine and masculine.
Trong đó, từ dhātu là giống đực khi chỉ các yếu tố như tinh chất, máu, thịt, mỡ, gân, xương, tủy xương và tinh dịch; là giống cái khi chỉ bản chất, khi chỉ các yếu tố vật lý của Chư Phật và các vị Sugata khác, khi chỉ các thế giới (loka-dhātu), và khi chỉ các giác quan như mắt v.v.; và là cả giống cái lẫn giống đực khi chỉ các từ gốc như bhū, hū, kara, paca v.v.
Atra panitthiliṅgo adhippeto.
Here, however, the feminine gender is intended.
Ở đây, giống cái được dự định.
2084
Savinicchayoyaṃ ukārantitthiliṅgānaṃ nāmikapadamālāvibhāgo.
This detailed exposition of the nominal declension series for feminine nouns ending in u is concluded.
Đây là phần phân tích bảng biến cách danh từ giống cái tận cùng bằng U với quyết định.
2085
Ukārantatāpakatikaṃ ukārantitthiliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
The feminine nouns ending in u, which are the basis (of formation), are concluded.
Phần danh từ giống cái tận cùng bằng U theo quy tắc tự nhiên đã hoàn tất.
2086
Idāni bhūsaddādīnaṃ nāmikapadamālaṃ vakkhāma pubbācariyamataṃ purecaraṃ katvā –
Now we shall explain the nominal declension series for words like bhū, taking the opinion of previous teachers as our guide –
Bây giờ, chúng ta sẽ trình bày bảng biến cách danh từ của các từ như bhū v.v., lấy quan điểm của các bậc thầy tiền bối làm kim chỉ nam –
2087
Jambū, jambū, jambuyo.
Jambū, jambū, jambuyo.
Jambū, jambū, jambuyo.
Jambuṃ, jambū, jambuyo.
Jambuṃ, jambū, jambuyo.
Jambuṃ, jambū, jambuyo.
Jambuyā, jambūhi, jambūbhi.
Jambuyā, jambūhi, jambūbhi.
Jambuyā, jambūhi, jambūbhi.
Jambuyā, jambūnaṃ.
Jambuyā, jambūnaṃ.
Jambuyā, jambūnaṃ.
Jambuyā, jambūhi, jambūbhi.
Jambuyā, jambūhi, jambūbhi.
Jambuyā, jambūhi, jambūbhi.
Jambuyā, jambūnaṃ.
Jambuyā, jambūnaṃ.
Jambuyā, jambūnaṃ.
Jambuyā, jambuyaṃ, jambūsu.
Jambuyā, jambuyaṃ, jambūsu.
Jambuyā, jambuyaṃ, jambūsu.
Bhoti jambu, bhotiyo jambū, jambuyo.
Bhoti jambu, bhotiyo jambū, jambuyo.
Bhoti jambu, bhotiyo jambū, jambuyo.
Yamakamahātheramataṃ.
The opinion of Yamaka Mahāthera.
Quan điểm của Đại Trưởng lão Yamaka.
2088
Ettha jambūsaddassa itthiliṅgattaṃ ‘‘ambā sālā ca jambuyo’’tiādinā pasiddhaṃ.
Here, the feminine gender of the word jambū is well-known from usages like "ambā sālā ca jambuyo" (mangoes, sāla trees, and jambu trees).
Ở đây, việc từ jambū là giống cái đã được biết đến qua câu ‘‘ambā sālā ca jambuyo’’ v.v.
‘‘Ime te jambukā rukkhā’’ti ettha pana rukkhasaddaṃ apekkhitvā ‘‘jambukā’’ti pulliṅganiddeso katoti daṭṭhabbaṃ.
However, in "ime te jambukā rukkhā" (these jambu trees), it should be understood that the masculine form "jambukā" is used in relation to the word rukkha (tree), which is masculine.
Trong câu ‘‘Ime te jambukā rukkhā’’, cần hiểu rằng từ ‘‘jambukā’’ được dùng ở giống đực vì nó phụ thuộc vào từ rukkha (cây).
Tathā hi jambūti kathetabbāti jambukā.
Indeed, those that are to be called jambū are jambukā.
Thật vậy, những gì được gọi là jambū thì là jambukā.
Ke re ge saddeti dhātu.
And the root is in words like ke re ge.
Ke, re, ge là các từ gốc.
Atha vā itthiliṅgavasena jambū eva jambukā, jambukā ca tā rukkhā cāti jambukārukkhā, yathā laṅkādīpo, pulliṅgapakkhe vā samāsavasena ‘‘jambukarukkhā’’ti vattabbe gāthāvisayattā chandānurakkhaṇatthaṃ dīghaṃ katvā ‘‘jambukārukkhā’’ti vuttaṃ ‘‘saraṇāgamane kañcī’’ti ettha viya.
Alternatively, in the feminine sense, jambū itself is jambukā; and jambukā (trees) plus rukkhā (trees) becomes jambukārukkhā, just like laṅkādīpo (the island of Lanka); or, in the masculine context, where it should be "jambukarukkhā" in a compound, it is said "jambukārukkhā" by lengthening for the sake of preserving the meter in a verse, just as in "saraṇāgamane kañcī".
Hoặc, theo giống cái, jambū chính là jambukā; và jambukā đó là rukkhā nên là jambukārukkhā, giống như laṅkādīpo (đảo Lanka). Hoặc, trong trường hợp giống đực, đáng lẽ phải là ‘‘jambukarukkhā’’ theo cách ghép từ, nhưng vì là trong một bài kệ và để phù hợp với vần điệu, nó được kéo dài thành ‘‘jambukārukkhā’’, giống như trong câu ‘‘saraṇāgamane kañcī’’.
2089
Bhū, bhū, bhuyo.
Bhū, bhū, bhuyo.
Bhū, bhū, bhuyo.
Bhuṃ, bhū, bhuyo.
Bhuṃ, bhū, bhuyo.
Bhuṃ, bhū, bhuyo.
Bhuyā, bhūhi, bhūbhi.
Bhuyā, bhūhi, bhūbhi.
Bhuyā, bhūhi, bhūbhi.
Bhuyā, bhūnaṃ.
Bhuyā, bhūnaṃ.
Bhuyā, bhūnaṃ.
Bhuyā, bhūhi, bhūbhi.
Bhuyā, bhūhi, bhūbhi.
Bhuyā, bhūhi, bhūbhi.
Bhuyā, bhūnaṃ.
Bhuyā, bhūnaṃ.
Bhuyā, bhūnaṃ.
Bhuyā, bhuyaṃ, bhūsu.
Bhuyā, bhuyaṃ, bhūsu.
Bhuyā, bhuyaṃ, bhūsu.
Bhoti bhu, bhotiyo bhū, bhuyo.
Bhoti bhu, bhotiyo bhū, bhuyo.
Bhoti bhu, bhotiyo bhū, bhuyo.
2090
Evaṃ ‘‘abhū, abhū, abhuyo.
Thus, it should be connected with "abhū, abhū, abhuyo.
Tương tự, cần kết hợp với ‘‘abhū, abhū, abhuyo.
Abhuṃ, abhū, abhuyo.
Abhuṃ, abhū, abhuyo.
Abhuṃ, abhū, abhuyo.
Abhuyā’’tiādinā yojetabbā.
Abhuyā" (etc.).
Abhuyā’’ v.v.
Atra ‘‘abhuṃ me kathaṃ nu bhaṇasi, pāpakaṃ vata bhāsasī’’ti nidassanapadaṃ.
Here, the exemplary phrase is "abhuṃ me kathaṃ nu bhaṇasi, pāpakaṃ vata bhāsasī" (Why do you speak ill of me? Truly you speak evil).
Ở đây, câu ‘‘abhuṃ me kathaṃ nu bhaṇasi, pāpakaṃ vata bhāsasī’’ (Sao ngươi lại nói với ta như vậy, ngươi thật đã nói điều ác) là một ví dụ.
2091
‘‘Vadhū ca sarabhū ceva, sarabū sutanū camū;
"Vadhū, and sarabhū, and sarabū, sutanū, camū;
‘‘Vadhū ca sarabhū ceva, sarabū sutanū camū;
2092
Vāmūrū nāganāsūrū’’, iccādī jambuyā samā.
Vāmūrū, nāganāsūrū," (etc.) are similar to jambū.
Vāmūrū nāganāsūrū’’, v.v., tương tự như jambū.
2093
Idaṃ pana sukhumaṃ ṭhānaṃ suṭṭhu manasi kātabbaṃ.
This subtle point should be noted very carefully.
Đây là một điểm tinh tế cần được ghi nhớ kỹ lưỡng.
‘‘Vadaññū, vadaññū, vadaññuyo.
"Vadaññū, vadaññū, vadaññuyo.
Cần kết hợp ‘‘Vadaññū, vadaññū, vadaññuyo.
Vadaññuṃ, vadaññū, vadaññuyo.
Vadaññuṃ, vadaññū, vadaññuyo.
Vadaññuṃ, vadaññū, vadaññuyo.
Vadaññuyā’’ti jambūsamaṃ yojetabbaṃ.
Vadaññuyā" (etc.) should be connected similarly to jambū.
Vadaññuyā’’ tương tự như jambū.
Evaṃ ‘‘maggaññū dhammaññū kataññū’’iccādīsupi.
Similarly for "maggaññū, dhammaññū, kataññū" (etc.).
Tương tự như vậy đối với ‘‘maggaññū, dhammaññū, kataññū’’ v.v.
2094
Nanu ca bho –
But, sir –
Này chư vị, chẳng phải là –
2095
‘‘Sohaṃ nūna ito gantvā, yoniṃ laddhāna mānusiṃ;
"Having gone from here, and having obtained a human birth,
‘‘Sohaṃ nūna ito gantvā, yoniṃ laddhāna mānusiṃ;
2096
Vadaññū sīlasampanno, kāhāmi kusalaṃ bahu’’nti
Being vadaññū (benevolent) and endowed with sīla, I shall perform much merit" –
Vadaññū sīlasampanno, kāhāmi kusalaṃ bahu’’
2097
Evamādippayogadassanato vadaññūsaddādīnaṃ pulliṅgabhāvo pasiddho, evaṃ sante kasmā idha itthiliṅganayo dassitoti?
Since usages like this indicate the masculine gender of the word vadaññū and similar words, why is the feminine declension shown here?
Vì các cách dùng như vậy cho thấy rõ ràng các từ như vadaññū là giống đực, vậy tại sao ở đây lại trình bày theo cách giống cái?
Vadaññūiccādīnaṃ ekantapulliṅgabhāvābhāvato dviliṅgāni tesaṃ vāccaliṅgattā.
Because words like vadaññū are not exclusively masculine; they are of two genders, as their gender follows that of the referent.
Vì các từ như vadaññū v.v. không phải hoàn toàn là giống đực, chúng là lưỡng tính (dviliṅga) do chúng mang ý nghĩa của giống được chỉ định.
Tathā hi –
Indeed –
Thật vậy –
2098
‘‘Sāhaṃ gantvā manussattaṃ, vadaññū vītamaccharā;
"I, having gone to human existence, being vadaññū (benevolent) and free from avarice,
‘‘Sāhaṃ gantvā manussattaṃ, vadaññū vītamaccharā;
2099
Saṅghe dānāni dassāmi, appamattā punappuna’’nti ca,
Shall repeatedly give gifts to the Saṅgha, being diligent" –
Saṅghe dānāni dassāmi, appamattā punappuna’’ và
2100
‘‘Kodhanā akataññū cā’’ti ca itthiliṅgapayogikā bahū pāḷiyo dissanti, tasmā evaṃ nīti amhehi ṭhapitā.
And "kodhanā akataññū cā" (and angry, ungrateful ones) – many such Pali passages using the feminine gender are seen, therefore this rule has been established by us.
‘‘Kodhanā akataññū cā’’ có nhiều đoạn Pāḷi được sử dụng ở giống cái, do đó quy tắc này đã được chúng tôi thiết lập.
2101
Savinicchayoyaṃ ūkārantitthiliṅgānaṃ pakatirūpassa nāmikapadamālāvibhāgo.
This detailed exposition of the nominal declension series for words that are the basic form of feminine nouns ending in ū is concluded.
Đây là phần phân tích bảng biến cách danh từ giống cái tận cùng bằng Ū theo dạng tự nhiên với quyết định.
2102
Ūkārantatāpakatikaṃ ūkārantitthiliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
The feminine nouns ending in ū, which are the basis (of formation), are concluded.
Phần danh từ giống cái tận cùng bằng Ū theo quy tắc tự nhiên đã hoàn tất.
2103
Okārantapadaṃ bhūdhātumayaṃ itthiliṅgamappasiddhaṃ, aññaṃ panokārantaṃ itthiliṅgaṃ pasiddhaṃ.
The feminine noun ending in o formed from the root bhū is not well-known, but another feminine noun ending in o is well-known.
Danh từ tận cùng bằng O có gốc từ bhū là giống cái không phổ biến, nhưng có những danh từ giống cái tận cùng bằng O khác phổ biến.
2104
Okārantaṃ itthiliṅgaṃ, gosaddoti vibhāvaye;
One should know that the feminine noun ending in o is the word go.
Hãy hiểu rằng danh từ giống cái tận cùng bằng O là từ go.
2105
Gosaddasseva pulliṅge, rūpamassāhu kecana;
Some say its forms are like those of the masculine word go itself.
Một số người cho rằng hình thái của từ go ở giống cái giống như ở giống đực.
2106
Tathā hi keci ‘‘go, gāvo, gavo.
Indeed, some desire the forms of the feminine word go to be like the forms of the masculine word go, which are expressed in ways such as "go, gāvo, gavo.
Thật vậy, một số người muốn các hình thái của từ go giống cái cũng như các hình thái của từ go giống đực đã được trình bày theo cách như ‘‘go, gāvo, gavo. Gāvu’’ v.v. Theo quan điểm của họ, việc xác định từ go là giống cái không thể chấp nhận được vì không có sự khác biệt về hình thái, giống như không có sự khác biệt về màu sắc giữa các đồng tiền vàng bị vỡ.
Gāvu’’ntiādinā nayena vuttāni pulliṅgassa gosaddassa rūpāni viya itthiliṅgassa gosaddassa rūpāni icchanti, tesaṃ mate majjhe bhinnasuvaṇṇānaṃ vaṇṇavisesābhāvo viya rūpavisesābhāvato gosaddassa itthiliṅgabhāvapaṭipādanaṃ anijjhānakkhamaṃ.
Gāvu" (etc.); according to their view, because there is no distinction in form, just as there is no distinction in the color of mixed gold, the assertion of the feminine gender for the word go is not suitable for consideration.
Việc xác định từ go là giống cái không thể chấp nhận được.
Kasmāti ce?
Why so?
Tại sao vậy?
Yasmā mātugāmasaddassa ‘‘mātugāmo, mātugāmā.
Because this statement appears to us like the statement that, after making two declension series for the word mātugāma (woman) in ways such as "mātugāmo, mātugāmā.
Bởi vì điều này giống như câu nói của chúng tôi rằng từ mātugāma có hai bảng biến cách theo cách như ‘‘mātugāmo, mātugāmā.
Mātugāma’’ntiādinā nayena dve padamālā katvā ekā pulliṅgassa padamālā, ekā itthiliṅgapadamālāti vuttavacanaṃ viya idaṃ vacanaṃ amhe paṭibhāti, tasmā anijjhānakkhamaṃ.
Mātugāma" (etc.), one series is for the masculine gender and one for the feminine gender; therefore, it is not suitable for consideration.
Mātugāma’’ v.v., một bảng biến cách cho giống đực và một bảng biến cách cho giống cái. Do đó, nó không thể chấp nhận được.
2107
Apica itthiliṅgassa gosaddassa rūpesu pulliṅgassa gosaddassa rūpehi samesu santesu kathaṃ gosaddassa itthiliṅgabhāvo siyā?
Furthermore, if the forms of the feminine word go are the same as the forms of the masculine word go, how can the word go be of feminine gender?
Hơn nữa, nếu các hình thái của từ go giống cái giống hệt với các hình thái của từ go giống đực, thì làm sao từ go có thể là giống cái?
Rūpamālāvisesābhāvato.
Because there is no distinction in the declension series.
Vì không có sự khác biệt trong bảng hình thái.
Yathā hi ratti aggi aṭṭhisaddānaṃ ikārantabhāvena samattepi itthiliṅgapumanapuṃsakaliṅgalakkhaṇabhūto rūpamālāviseso dissati.
Just as, even though the words ratti, aggi, aṭṭhi are the same in having an i-ending, a distinction in the declension series characteristic of feminine, masculine, and neuter genders is seen.
Thật vậy, mặc dù các từ ratti, aggi, aṭṭhi đều tận cùng bằng I, nhưng vẫn có sự khác biệt về bảng hình thái đặc trưng cho giống cái, giống đực và giống trung.
Yathā pana dvinnaṃ dhātusaddānaṃ pumitthiliṅgapariyāpannānaṃ rūpamālāviseso dissati, na tathā tehācariyehi abhimatassa itthiliṅgassa gosaddassa rūpamālāviseso dissati.
Just as a distinction in the declension series is seen for the two words dhātu belonging to the masculine and feminine genders, no such distinction in the declension series is seen for the feminine word go that is accepted by those teachers.
Tuy nhiên, sự khác biệt về bảng hình thái của hai từ dhātu thuộc giống đực và giống cái là rõ ràng, nhưng sự khác biệt về bảng hình thái của từ go giống cái mà các bậc thầy đó chấp nhận thì không rõ ràng như vậy.
Yathā pana dvinnaṃ dhātusaddānaṃ pumitthiliṅgapariyāpannānaṃ rūpamālāviseso bhavati, yathā dvinnaṃ gosaddānaṃ pumitthiliṅgapariyāpannānaṃ rūpamālāvisesena bhavitabbaṃ, yathā ca dvinnaṃ āyusaddānaṃ punnapuṃsakaliṅgapariyāpannānaṃ rūpamālāviseso dissati, tathā dvinnaṃ gosaddānaṃ pumitthiliṅgapariyāpannānaṃ rūpamālāvisesena bhavitabbaṃ.
Just as a distinction in the declension series occurs for the two words dhātu belonging to the masculine and feminine genders, so too there should be a distinction in the declension series for the two words go belonging to the masculine and feminine genders; and just as a distinction in the declension series is seen for the two words āyu belonging to the masculine and neuter genders, so too there should be a distinction in the declension series for the two words go belonging to the masculine and feminine genders.
Nếu có sự khác biệt về bảng hình thái của hai từ dhātu thuộc giống đực và giống cái, thì cũng phải có sự khác biệt về bảng hình thái của hai từ go thuộc giống đực và giống cái. Và nếu có sự khác biệt về bảng hình thái của hai từ āyu thuộc giống đực và giống trung, thì cũng phải có sự khác biệt về bảng hình thái của hai từ go thuộc giống đực và giống cái.
Avisesatte sati kathaṃ tesaṃ pumitthiliṅgavavatthānaṃ siyā, kathañca visadāvisadākāravohāratā siyā.
If there is no distinction, how can there be a clear determination of their masculine and feminine genders, and how can there be clear and unclear forms of usage?
Nếu không có sự khác biệt, thì làm sao có thể phân biệt chúng là giống đực hay giống cái, và làm sao có thể có sự phân biệt trong cách dùng rõ ràng hay không rõ ràng?
Idaṃ ṭhānaṃ atīva saṇhasukhumaṃ paramagambhīraṃ mahāgahanaṃ na sakkā sabbasattānaṃ mūlabhāsābhūtāya sabbaññujineritāya māgadhikāya sabhāvaniruttiyā nayaṃ sammā ajānantena akatañāṇasambhārena kenaci ajjhogāhetuṃ vā vijaṭetuṃ vā, amhākaṃ pana mate dvinnaṃ gosaddānaṃ rūpamālāviseso ceva dissati, pumitthiliṅgavavatthānañca dissati, visadāvisadākāravohāratā ca dissati, napuṃsakaliṅgassa tadubhayamuttākāravohāratā ca dissatīti daṭṭhabbaṃ.
This point is extremely subtle, profound, and greatly intricate; it cannot be fathomed or unravelled by anyone who does not properly understand the method of the Magadhan natural language, which is the root language of all beings and was spoken by the Omniscient Conqueror, or by anyone who lacks the accumulation of knowledge. However, in our view, a distinction in the declension series is indeed seen for the two words go, and a determination of masculine and feminine genders is also seen, and clear and unclear forms of usage are seen, and for the neuter gender, a usage that transcends both (masculine and feminine) is also seen. This should be understood.
Vấn đề này vô cùng tinh tế, vi diệu, tối thượng thâm sâu, cực kỳ phức tạp, không thể nào cho bất kỳ ai không thấu hiểu đúng đắn phương pháp của ngôn ngữ Māgadhikā, là ngôn ngữ căn bản của tất cả chúng sinh do bậc Toàn Giác Chánh Đẳng Giác thuyết giảng, và không có đủ vốn liếng trí tuệ, có thể thâm nhập hay gỡ rối được. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, cần phải thấy rằng: đối với hai từ go, sự khác biệt trong bảng biến cách được thấy rõ, sự phân định giống đực và giống cái cũng được thấy rõ, cách dùng theo dạng rõ ràng và không rõ ràng cũng được thấy rõ, và cách dùng của giống trung tính, vốn thoát khỏi cả hai dạng trên, cũng được thấy rõ.
2108
Idāni imassatthassa āvibhāvatthaṃ imasmiṃ ṭhāne imaṃ nītiṃ ṭhapessāma.
Now, in order to reveal the meaning of this, we will present this grammar here.
Bây giờ, để làm rõ ý nghĩa này, chúng ta sẽ thiết lập quy tắc này tại đây.
Evañhi sati pariyattisāsane paṭipannakā nikkaṅkhabhāvena na kilamissanti.
Thus, those who engage in the teaching of learning will not be wearied by doubt.
Như vậy, những người thực hành giáo pháp học sẽ không gặp khó khăn vì không còn hoài nghi.
Ettha tāva atthaggahaṇe viññūnaṃ kosalluppādanatthaṃ tisso nāmikapadamālāyo kathessāma – seyyathidaṃ?
Here, first, to produce skill in the wise regarding the grasping of meaning, we will declare three nominal declension tables – namely:
Ở đây, trước hết, để phát triển sự thành thạo cho những người có trí tuệ trong việc nắm bắt ý nghĩa, chúng ta sẽ trình bày ba bảng biến cách danh từ – đó là:
2109
Gāvī, gāvī, gāviyo.
Gāvī, gāvī, gāviyo.
Gāvī, gāvī, gāviyo.
Gāviṃ, gāvī, gāviyo.
Gāviṃ, gāvī, gāviyo.
Gāviṃ, gāvī, gāviyo.
Gāviyā, gāvīhi, gāvībhi.
Gāviyā, gāvīhi, gāvībhi.
Gāviyā, gāvīhi, gāvībhi.
Gāviyā, gāvīnaṃ.
Gāviyā, gāvīnaṃ.
Gāviyā, gāvīnaṃ.
Gāviyā, gāvīhi, gāvībhi.
Gāviyā, gāvīhi, gāvībhi.
Gāviyā, gāvīhi, gāvībhi.
Gāviyā, gāvīnaṃ.
Gāviyā, gāvīnaṃ.
Gāviyā, gāvīnaṃ.
Gāviyā, gāviyaṃ, gāvīsu.
Gāviyā, gāviyaṃ, gāvīsu.
Gāviyā, gāviyaṃ, gāvīsu.
Bhoti gāvi, bhotiyo gāvī, gāviyo.
Bhoti gāvi, bhotiyo gāvī, gāviyo.
Bhoti gāvi, bhotiyo gāvī, gāviyo.
2110
Ayaṃ gosaddato vihitassa īpaccayassa vasena nipphannassa itthivācakassa īkārantitthiliṅgassa gāvīsaddassa nāmikapadamālā.
This is the nominal declension table of the feminine word gāvī, which ends in ī and denotes a female, derived from the word go by means of the ī-suffix.
Đây là bảng biến cách danh từ của từ gāvī thuộc giống cái, tận cùng bằng nguyên âm ī, được hình thành do hậu tố ī từ từ go dùng để chỉ giống cái.
2111
Go, gāvo, gavo.
Go, gāvo, gavo.
Go, gāvo, gavo.
Gāvuṃ, gāvaṃ, gavaṃ, gāvo, gavo.
Gāvuṃ, gāvaṃ, gavaṃ, gāvo, gavo.
Gāvuṃ, gāvaṃ, gavaṃ, gāvo, gavo.
Gāvena, gavena, gohi, gobhi.
Gāvena, gavena, gohi, gobhi.
Gāvena, gavena, gohi, gobhi.
Gāvassa, gavassa, gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gāvassa, gavassa, gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gāvassa, gavassa, gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gāvā, gāvasmā, gāvamhā, gavā, gavasmā, gavamhā, gohi, gobhi.
Gāvā, gāvasmā, gāvamhā, gavā, gavasmā, gavamhā, gohi, gobhi.
Gāvā, gāvasmā, gāvamhā, gavā, gavasmā, gavamhā, gohi, gobhi.
Gāvassa, gavassa, gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gāvassa, gavassa, gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gāvassa, gavassa, gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gāve, gāvasmiṃ, gāvamhi, gave, gavasmiṃ, gavamhi, gāvesu, gavesu, gosu.
Gāve, gāvasmiṃ, gāvamhi, gave, gavasmiṃ, gavamhi, gāvesu, gavesu, gosu.
Gāve, gāvasmiṃ, gāvamhi, gave, gavasmiṃ, gavamhi, gāvesu, gavesu, gosu.
Bho go, bhavanto gāvo, gavo.
Bho go, bhavanto gāvo, gavo.
Bho go, bhavanto gāvo, gavo.
2112
Ayaṃ pumavācakassa okārantapulliṅgassa gosaddassa nāmikapadamālā.
This is the nominal declension table of the masculine word go, which ends in o and denotes a male.
Đây là bảng biến cách danh từ của từ go thuộc giống đực, tận cùng bằng nguyên âm o, dùng để chỉ giống đực.
2113
Go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo.
Go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo.
Go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo.
Gāvaṃ, gavaṃ, gāviṃ, gāvo, gāvī gavo.
Gāvaṃ, gavaṃ, gāviṃ, gāvo, gāvī gavo.
Gāvaṃ, gavaṃ, gāviṃ, gāvo, gāvī gavo.
Gohi, gobhi.
Gohi, gobhi.
Gohi, gobhi.
Gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gohi, gobhi.
Gohi, gobhi.
Gohi, gobhi.
Gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Gosu.
Gosu.
Gosu.
Bhoti go, bhotiyo gāvo, gāvī, gavo.
Bhoti go, bhotiyo gāvo, gāvī, gavo.
Bhoti go, bhotiyo gāvo, gāvī, gavo.
Ayaṃ pumitthivācakassa okārantassitthipulliṅgassa gosaddanāmikapadamālā.
This is the nominal declension table of the word go, which ends in o and denotes both male and female.
Đây là bảng biến cách danh từ của từ go thuộc giống cái và giống đực, tận cùng bằng nguyên âm o, dùng để chỉ cả giống đực và giống cái.
2114
Ettha pana ‘‘gāvu’’nti padaṃ ekantapumavācakattā na vuttanti daṭṭhabbaṃ, ekantapumavācakattañcassa āhaccapāḷiyā ñāyati ‘‘idha pana bhikkhave vassūpagataṃ bhikkhuṃ itthī nimantesi ‘ehi bhante, hiraññaṃ vā te demi, suvaṇṇaṃ vā te demi, khettaṃ vā te demi, vatthuṃ vā te demi, gāvuṃ vā te demi, gāviṃ vā te demi.
Here, the word “gāvuṃ” should be understood as not stated because it exclusively refers to a male. Its exclusive male reference is known from the direct Pali text: “Here, bhikkhus, a woman invited a bhikkhu who had entered the Rains retreat, saying, ‘Come, Venerable Sir, I will give you either money, or gold, or a field, or a dwelling, or a male cow (gāvuṃ), or a female cow (gāviṃ).
Ở đây, cần phải hiểu rằng từ ‘‘gāvuṃ’’ không được đề cập vì nó chỉ hoàn toàn dùng để chỉ giống đực; việc nó chỉ hoàn toàn dùng để chỉ giống đực được biết qua kinh điển trực tiếp: ‘‘Ở đây này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu đã an cư mùa mưa, một người phụ nữ mời: ‘Thưa Bhante, hãy đến, tôi sẽ cho ngài vàng, hoặc tôi sẽ cho ngài bạc, hoặc tôi sẽ cho ngài ruộng đất, hoặc tôi sẽ cho ngài bất động sản, hoặc tôi sẽ cho ngài một con bò đực, hoặc tôi sẽ cho ngài một con bò cái.
Dāsaṃ vā te demi, dāsiṃ vā te demi, dhītaraṃ vā te demi bhariyatthāya, ahaṃ vā te bhariyā homi, aññaṃ vā te bhariyaṃ ānemī’ti’’ evaṃ āhaccapāḷiyā ñāyati.
I will give you a male slave, or a female slave, or I will give you a daughter for a wife, or I will be your wife, or I will bring you another wife.’” It is known thus from the direct Pali text.
Tôi sẽ cho ngài một nô lệ nam, tôi sẽ cho ngài một nô lệ nữ, tôi sẽ cho ngài một người con gái làm vợ, hoặc tôi sẽ làm vợ ngài, hoặc tôi sẽ mang đến cho ngài một người vợ khác’”. Điều này được biết qua kinh điển trực tiếp như vậy.
2115
Ettha hi ‘‘gāvu’’nti vacanena pumā vutto, ‘‘gāvi’’nti vacanena itthī, yaṃ pana imissaṃ okārantitthiliṅgapadamālāyaṃ ‘‘gāvī’’ti padaṃ catukkhattuṃ vuttaṃ, taṃ ‘‘kaññā’’ti padaṃ viya itthiliṅgassa avisadākāravohāratāviññāpane samatthaṃ hoti.
Here, a male is spoken of by the word “gāvuṃ”, and a female by the word “gāviṃ”. The word “gāvī”, which is stated four times in this declension table of the feminine word ending in o, is capable of signifying the unspecific nature of usage for the feminine gender, like the word “kaññā”.
Ở đây, từ ‘‘gāvuṃ’’ dùng để chỉ giống đực, từ ‘‘gāviṃ’’ dùng để chỉ giống cái. Còn từ ‘‘gāvī’’ được nhắc đến bốn lần trong bảng biến cách giống cái tận cùng bằng nguyên âm o này, thì nó có khả năng biểu thị sự không rõ ràng trong cách dùng của giống cái, giống như từ ‘‘kaññā’’.
Na hi itaresu liṅgesu samānasutikabhāvena catukkhattuṃ āgatapadaṃ ekampi atthi, ‘‘gāvī gāvi’’nti ca imesaṃ saddānaṃ katthaci ṭhāne itthipumesu sāmaññavasena pavattiṃ upari kathayissāma.
Indeed, there is not even a single word in other genders that appears four times with the same sound. And we will explain later the usage of these words “gāvī gāvī” in some places in common reference to both females and males.
Thật vậy, không có từ nào trong các giống khác xuất hiện bốn lần với âm thanh tương tự. Và chúng ta sẽ nói về việc các từ ‘‘gāvī gāvi’’ này đôi khi được dùng chung cho cả giống cái và giống đực ở phần sau.
Yā panamhehi okārantitthiliṅgassa ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo.
In the declension table that we have made for the feminine word ending in o, following the method of “go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo.
Còn về bảng biến cách giống cái tận cùng bằng nguyên âm o mà chúng ta đã làm theo cách ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo.
Gāvaṃ, gavaṃ, gāvi’’ntiādinā nayena padamālā katā, tattha gosaddato siyonaṃ īkārādeso aṃvacanassa ca iṃkārādeso bhavati, tena okārantitthiliṅgassa ‘‘gāvī gāvī gāvi’’nti rūpāni dassitāni.
Gāvaṃ, gavaṃ, gāviṃ,” etc., the ī-termination occurs as a substitute for the siyo case ending of the word go, and the iṃ-termination as a substitute for the aṃ case ending. Therefore, the forms “gāvī gāvī gāviṃ” are shown for the feminine word ending in o.
Gāvaṃ, gavaṃ, gāvi’’ v.v., ở đó, từ từ go, có sự thay thế nguyên âm ī cho siyo và sự thay thế nguyên âm iṃ cho aṃ-vacana. Do đó, các hình thái ‘‘gāvī gāvī gāvi’’ đã được trình bày cho giống cái tận cùng bằng nguyên âm o.
Tathā hi mukhamattadīpaniyaṃ saddasatthavidunā vajirabuddhācariyena niruttinaye kosallavasena gosaddato yona kārādeso vutto.
Thus, in the Mukhamattadīpanī, the grammarian Vajirabuddhācariya, out of skill in the science of etymology, stated the ī-termination as a substitute for the yo case ending of the word go.
Thật vậy, trong Mukhamattadīpanī, bậc đạo sư Vajirabuddha, một nhà ngữ pháp học, đã nói về sự thay thế nguyên âm ī cho yo từ từ go theo nguyên tắc ngữ pháp.
Yathā pana gosaddato yona kārādeso bhavati, tathā sissīkārādeso aṃvacanassa ca iṃkārādeso bhavati.
Just as the ī-termination occurs as a substitute for the yo case ending of the word go, so too the sissī-termination occurs as a substitute, and the iṃ-termination for the aṃ case ending.
Cũng như có sự thay thế nguyên âm ī cho yo từ từ go, cũng có sự thay thế nguyên âm ī cho và sự thay thế nguyên âm iṃ cho aṃ-vacana.
Atrimā nayaggāhaparidīpaniyo gāthā –
Here are the verses that illustrate these grammatical points:
Những câu kệ làm rõ nguyên tắc nắm bắt này là –
2116
Īpaccayā siddhesvapi, ‘‘gāvī gāvī’’tiādisu;
Even when forms like "gāvī gāvī" are established by the ī-suffix,
Mặc dù đã hoàn thành với hậu tố ī, trong các từ như ‘‘gāvī gāvī’’ v.v.;
2117
Paṭhamekavacanādi-antesu jinasāsane.
in the first singular and other endings in the Buddha's dispensation,
Trong giáo pháp của Đức Phật, ở các vị trí đầu tiên của số ít v.v. cho đến cuối cùng.
2118
Vadatā yonamīkāraṃ, gosaddassitthiyaṃ pana;
our preference is for the method that states the ī-termination as a substitute for the yo case ending of the word go in the feminine gender,
Khi nói về sự thay thế nguyên âm ī cho yo của từ go trong giống cái;
2119
Avisadattamakkhātuṃ, nayo dinnoti no ruci.
to indicate its unspecific nature.
Chúng tôi thích nguyên tắc được đưa ra để biểu thị sự không rõ ràng.
2120
Kiñca bhiyyo aṭṭhakathāsu ca –
Furthermore, in the Commentaries too –
Hơn nữa, trong các Aṭṭhakathā (Chú giải) cũng –
2121
‘‘Gāvo’’ti vatvā ‘‘gāvi’’nti-vacanena panitthiyaṃ;
having said "gāvo", our preference is for the method that, by the word "gāvī",
Sau khi nói ‘‘gāvo’’, khi nói ‘‘gāvi’’ trong giống cái;
2122
Avisadattamakkhātuṃ, nayo dinnoti no ruci.
indicates the unspecific nature in the feminine gender.
Chúng tôi thích nguyên tắc được đưa ra để biểu thị sự không rõ ràng.
2123
Tathā hi samantapāsādikādīsu aṭṭhakathāsu ‘‘cheko hi gopālako sakkharāyo ucchaṅgena gahetvā rajjudaṇḍahattho pātova vajaṃ gantvā gāvo piṭṭhiyaṃ paharitvā palighathambhamatthake nisinno dvāraṃ pattaṃ pattaṃ gāviṃ ‘eko dve’ti sakkharaṃ khipitvā gaṇetī’’ti imasmiṃ padese ‘‘gāvo’’ti vatvā ‘‘gāvi’’nti vacanena itthipumavācakassa okārantitthiliṅgassa gosaddassa avisadākāravohāratā vihitā.
Thus, in the commentaries such as the Samantapāsādikā, in the passage, “Indeed, a skilled cowherd, taking pebbles in his lap, with a rope and stick in hand, goes to the cow pen early in the morning, strikes the cows on their backs, and sitting atop a doorpost, counts each cow that comes to the gate, throwing a pebble for each one, saying ‘one, two’”, in this passage, by saying “gāvo” and then “gāvī”, the unspecific nature of the usage of the word go (ending in o and denoting both female and male) in the feminine gender is established.
Thật vậy, trong các Aṭṭhakathā như Samantapāsādikā v.v., trong đoạn văn này: ‘‘Người chăn bò khéo léo cầm sỏi trong vạt áo, cầm gậy và dây thừng, sáng sớm đi đến chuồng bò, đánh vào lưng các con bò, ngồi trên đầu cột rào, đếm từng con bò đến cổng bằng cách ném một viên sỏi: ‘một, hai’”, ở đây, sau khi nói ‘‘gāvo’’, việc dùng từ ‘‘gāvi’’ đã biểu thị sự không rõ ràng trong cách dùng từ go thuộc giống cái tận cùng bằng nguyên âm o, dùng để chỉ cả giống đực và giống cái.
‘‘Gāvo’’ti hi iminā sāmaññato itthipumabhūtā goṇā gahitā, tathā ‘‘gāvi’’nti imināpi itthibhūto pumabhūto ca goṇo.
Indeed, by “gāvo,” both female and male cattle are taken in general; similarly, by “gāvī,” both female and male cattle are taken.
Thật vậy, với ‘‘gāvo’’ này, các con bò, cả đực và cái, được lấy một cách chung chung; tương tự, với ‘‘gāvi’’ này, con bò, cả cái và đực, cũng được lấy.
Evaṃ ‘‘gāvo’’ti ca ‘‘gāvi’’nti ca ime saddā saddasatthavidūhi aṭṭhakathācariyehi niruttinayakusalatāya samānaliṅgavasena ekasmiṃyeva pakaraṇe ekasmiṃyeva vākye piṇḍīkatā.
Thus, these words, “gāvo” and “gāvī”, have been collected by grammarians and commentators, skilled in the science of etymology, in the same gender in the same context, in the same sentence.
Như vậy, các từ ‘‘gāvo’’ và ‘‘gāvi’’ này đã được các nhà ngữ pháp học và các bậc đạo sư Aṭṭhakathā, nhờ sự thành thạo trong ngữ pháp, kết hợp lại trong cùng một đoạn văn, trong cùng một câu, theo cách dùng cùng một giống.
Yadi hi itthiliṅge vattamānassa itthipumavācakassa okārantitthiliṅgassa gosaddassa padamālāyaṃ ‘‘gāvī gāvi’’miccetāni rūpāni na labbheyyuṃ, aṭṭhakathāyaṃ ‘‘gāvo’’ti vatvā ‘‘gāva’’nticceva vattabbaṃ siyā, ‘‘gāvi’’nti pana na vattabbaṃ.
If, indeed, in the declension table of the word go (ending in o and denoting both female and male) which occurs in the feminine gender, these forms “gāvī gāvī” were not found, then in the commentary, after saying “gāvo,” only “gāva” should have been said, but not “gāvī.”
Nếu các hình thái ‘‘gāvī gāvi’’ này không được tìm thấy trong bảng biến cách của từ go thuộc giống cái tận cùng bằng nguyên âm o, dùng để chỉ cả giống đực và giống cái, thì trong Aṭṭhakathā, sau khi nói ‘‘gāvo’’, lẽ ra chỉ nên nói ‘‘gāva’’ mà thôi, chứ không nên nói ‘‘gāvi’’.
Yathā ca pana aṭṭhakathācariyehi ‘‘gāvo’’ti itthipumavasena sabbesaṃ gunnaṃ saṅgāhakavacanaṃ vatvā teyeva gāvo sandhāya puna ‘‘dvāraṃ pattaṃ pattaṃ gāvi’’nti saddaracanaṃ kubbiṃsu, tasmā ‘‘gāvi’’nti idampi sabbasaṅgāhakavacanamevāti daṭṭhabbaṃ.
And just as the commentators, after stating “gāvo” as a collective word for all cattle, referring to both female and male, then used the construction “each cow (gāviṃ) that comes to the gate” with reference to those same cattle, therefore it should be understood that “gāviṃ” is also a collective word.
Và vì các bậc đạo sư Aṭṭhakathā, sau khi dùng từ ‘‘gāvo’’ là một từ bao hàm tất cả các con bò, cả đực và cái, đã dùng lại cấu trúc từ ‘‘dvāraṃ pattaṃ pattaṃ gāvi’’ để chỉ chính những con bò đó, nên cần phải hiểu rằng ‘‘gāvi’’ này cũng là một từ bao hàm tất cả.
Asabbasaṅgāhakavacanaṃ idaṃ gāvīsaddena itthiyāyeva gahetabbattāti ce?
If it is said, “This is not a collective word because only females are to be understood by the word gāvī?”
Nếu nói rằng đây là một từ không bao hàm tất cả, vì từ gāvī chỉ nên được hiểu là chỉ giống cái?
Na, pakaraṇavasena atthantarassa viditattā.
No, because a different meaning is known based on the context.
Không, vì ý nghĩa khác đã được biết qua bối cảnh.
Na hi sabbavajesu ‘‘itthiyoyeva vasanti, na pumāno’’ti ca, ‘‘pumānoyeva vasanti, na itthiyo’’ti ca sakkā vattuṃ.
Indeed, it is not possible to say that “only females live in all cow pens, not males” or “only males live, not females.”
Thật vậy, không thể nói rằng ‘‘chỉ có bò cái sống trong tất cả các chuồng bò, không có bò đực’’ hoặc ‘‘chỉ có bò đực sống, không có bò cái’’.
Apica ‘‘gāvimpi disvā palāyanti ‘bhikkhū’ti maññamānā’’ti pāḷi dissati, etthāpi ‘‘gāvi’’nti vacanena itthibhūto pumabhūto ca sabbo go gahitoti daṭṭhabbaṃ.
Moreover, the Pali text states, “Seeing a cow (gāviṃ), they flee, thinking ‘a bhikkhu’.” Here too, it should be understood that by the word “gāviṃ,” all cattle, both male and female, are included.
Hơn nữa, có một đoạn kinh điển nói: ‘‘Thấy cả bò cái cũng bỏ chạy, nghĩ rằng ‘đó là các Tỳ-khưu’”, ở đây cũng cần phải hiểu rằng từ ‘‘gāvi’’ đã bao hàm tất cả các con bò, cả cái và đực.
Itarathā ‘‘itthibhūtoyeva go bhikkhūti maññitabbo’’ti āpajjati.
Otherwise, it would follow that “only a female cow is to be mistaken for a bhikkhu.”
Nếu không thì sẽ dẫn đến việc ‘‘chỉ có con bò cái mới được nghĩ là Tỳ-khưu’’.
Iti pāḷinayena itthiliṅge vattamānamhā itthipumavācakasmā gosaddato aṃvacanassa iṃkārādeso hotīti viññāyati.
Thus, according to the Pali method, it is understood that the iṃ-termination occurs as a substitute for the aṃ case ending from the word go (denoting both female and male) which occurs in the feminine gender.
Như vậy, theo nguyên tắc kinh điển, từ từ go thuộc giống cái, dùng để chỉ cả giống đực và giống cái, có sự thay thế nguyên âm iṃ cho aṃ-vacana.
2124
Vajirabuddhācariyenapi gosaddato īpaccaye kātabbepi akatvā yonamīkārādeso kato.
Even Vajirabuddhācariya, instead of making the ī-suffix for the word go, made the ī-termination as a substitute for the yo case ending.
Bậc đạo sư Vajirabuddha cũng đã thực hiện sự thay thế nguyên âm ī cho yo mà không thực hiện hậu tố ī cho từ go.
Tassādhippāyo evaṃ siyā gosaddato īpaccaye kate sati īpaccayavasena ‘‘gāvī’’ti nipphannasaddo yattha katthaci visaye ‘‘migī morī kukkuṭī’’iccādayo viya itthivācakoyeva siyā, na katthacipi itthipumavācako, tasmā sāsanānukūlappayogavasena yona kārādeso kātabboti.
His intention might be like this: when the suffix ī is applied to the word go, the word gāvī thus formed, due to the ī suffix, would in some contexts, like migī, morī, kukkuṭī, etc., denote only a female, and not in any context denote both male and female. Therefore, for usage consistent with the scriptures, the yo should be replaced with ī.
Ý định của ông ấy có lẽ là như thế này: khi hậu tố ī được thêm vào từ go, từ được hình thành là ‘‘gāvī’’ do hậu tố ī này, ở bất cứ ngữ cảnh nào, nó chỉ nên là từ chỉ giống cái, giống như ‘‘migī, morī, kukkuṭī’’ v.v., chứ không phải là từ chỉ cả giống cái và giống đực. Do đó, theo cách sử dụng phù hợp với giáo pháp, sự thay thế yo bằng īkāra nên được thực hiện.
Iti vajirabuddhācariyamate gosaddato yonaṃ īkārādeso hotīti ñāyati.
Thus, it is understood that, according to the view of Acariya Vajirabuddha, the yo of the word go is replaced by ī.
Như vậy, theo quan điểm của Đại sư Vajirabuddha, từ từ go, sự thay thế yo bằng īkāra xảy ra.
2125
Kiñca bhiyyo – yasmā aṭṭhakathācariyehi ‘‘gāvo piṭṭhiyaṃ paharitvā’’tiādinā nayena racitāya ‘‘dvāraṃ pattaṃ pattaṃ gāviṃ ‘eko dve’ti sakkharaṃ khipitvā gaṇetī’’ti vacanapariyosānāya saddaracanāyaṃ ‘‘eko gāvī, dve gāvī’’ti atthayojanānayo vattabbo hoti, ‘‘gāvi’’nti upayogavacanañca dissati.
Furthermore, since the Aṭṭhakathā teachers, in the grammatical construction that begins with "striking the cows on the back" and concludes with "counting the cows that arrive at the door, one by one, by throwing pebbles*", composed such a usage, the method of explaining the meaning as "one cow (gāvī), two cows (gāvī)" must be stated. Also, the expression "gāviṃ" is seen in use.
Hơn nữa, vì các vị Đại sư Chú giải đã tạo ra cấu trúc từ ngữ ‘‘dvāraṃ pattaṃ pattaṃ gāviṃ ‘eko dve’ti sakkharaṃ khipitvā gaṇetī’’ (đếm con bò cái đã đến cửa bằng cách ném sỏi ‘một, hai’), được tạo ra theo cách như ‘‘gāvo piṭṭhiyaṃ paharitvā’’ (những con bò cái bị đánh vào lưng) v.v., trong đó cách giải thích ý nghĩa ‘‘một con bò cái, hai con bò cái’’ phải được nói, và từ sử dụng ‘‘gāviṃ’’ cũng được thấy.
Iti aṭṭhakathācariyānaṃ mate gosaddato siyonamīkārādeso aṃvacanassa iṃkārādeso hotīti ñāyati.
Thus, it is understood that, according to the Aṭṭhakathā teachers' view, the si and yo of the word go are replaced by ī, and the aṃ case ending is replaced by iṃ.
Như vậy, theo quan điểm của các vị Đại sư Chú giải, từ từ go, sự thay thế siyo bằng īkāra, và sự thay thế aṃ bằng iṃkāra xảy ra.
Tasmāyevamhehi yā sā okārantatāpakatikassa itthiliṅgassa gosaddassa ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo, gāvaṃ, gāvi’’ntiādinā nayena padamālā ṭhapitā, sā pāḷinayānukūlā aṭṭhakathānayānukūlā kaccāyanācariyamataṃ gahetvā padanipphattijanakassa garuno ca matānukūlā, ‘‘gāvī’’ti padassa catukkhattuṃ āgatattā pana okārantitthiliṅgassa gosaddassa avisadākāravohārattañca sādheti.
Therefore, the declension table of the feminine noun go, which is naturally o-ending, that we have established in the manner of "go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo, gāvaṃ, gāvi", is consistent with the Pāḷi method, consistent with the Aṭṭhakathā method, consistent with the view of Acariya Kaccāyana, and also consistent with the view of the venerable one who produced the formation of the words. And because the word "gāvī" appears four times, it also clarifies the indistinct usage of the o-ending feminine noun go.
Chính vì vậy, chúng tôi đã đặt ra chuỗi từ cho từ go giống cái có tận cùng là okāra theo cách như ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo, gāvaṃ, gāvi’’ v.v., là phù hợp với phương pháp Pali, phù hợp với phương pháp Chú giải, và phù hợp với quan điểm của Đại sư Kaccāyana, người tạo ra các từ, đồng thời cũng chứng minh rằng từ go giống cái có tận cùng là okāra có cách dùng không rõ ràng do từ ‘‘gāvī’’ xuất hiện bốn lần.
Iccesā pāḷinayādīsu ñāṇena sammā upaparikkhiyamānesu atīva yujjati, natthettha appamattakopi doso.
This fits extremely well when examined properly with knowledge of the Pāḷi method and so on; there is not the slightest fault here.
Điều này, khi được xem xét kỹ lưỡng bằng trí tuệ trong các phương pháp Pali v.v., thì rất phù hợp, không có một lỗi nhỏ nào ở đây.
Ettha pana paccattopayogālapanānaṃ bahuvacanaṭṭhāne ‘‘gāviyo’’ti padañca karaṇasampadānanissakkasāmīnamekavacanaṭṭhāne ‘‘gāviyā’’ti padañca karaṇanissakkānaṃ bahuvacanaṭṭhāne ‘‘gāvīhi gāvībhī’’ti padāni ca sampadānasāmīnaṃ bahuvacanaṭṭhāne ‘‘gāvīna’’nti padañca bhummavacanaṭṭhāne ‘‘gāviyā, gāviyaṃ, gāvīsū’’ti padāni cāti imāni vitthārato soḷasa padāni ekantena īpaccayavasena siddhattā ekantitthivācakattā ca na vuttānīti daṭṭhabbaṃ.
However, it should be noted that the following sixteen words, which are plural in the nominative and vocative cases (gāviyo), singular in the instrumental, dative, ablative, and genitive cases (gāviyā), plural in the instrumental and ablative cases (gāvīhi, gāvībhi), plural in the dative and genitive cases (gāvīnaṃ), and in the locative case (gāviyā, gāviyaṃ, gāvīsū), are not mentioned in detail because they are exclusively formed by the ī suffix and therefore exclusively denote females.
Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng ở đây, mười sáu từ được mở rộng này như từ ‘‘gāviyo’’ ở vị trí số nhiều của cách trực tiếp và cách hô cách, từ ‘‘gāviyā’’ ở vị trí số ít của cách công cụ, cách tặng cách, cách xuất xứ, cách sở hữu, từ ‘‘gāvīhi, gāvībhi’’ ở vị trí số nhiều của cách công cụ và cách xuất xứ, từ ‘‘gāvīnaṃ’’ ở vị trí số nhiều của cách tặng cách và cách sở hữu, và các từ ‘‘gāviyā, gāviyaṃ, gāvīsū’’ ở vị trí cách định sở, không được đề cập vì chúng chắc chắn được hình thành do hậu tố ī và chắc chắn chỉ giống cái.
2126
Ayaṃ panettha nicchayo vuccate sotūnaṃ nikkaṅkhabhāvāya – itthiliṅgapadesu hi ‘‘gāvī gāvi’’nti imāni īpaccayavasena vā īkāriṃkārādesavasena vā sijjhanti.
Here, a conclusive explanation is given for the sake of the listeners' clarity: in feminine words, "gāvī, gāvi" are formed either by the ī suffix or by the substitution of ī and iṃ.
Ở đây, một quyết định được nói ra để thính giả không còn nghi ngờ: trong các từ giống cái, các từ ‘‘gāvī, gāvi’’ được hình thành do hậu tố ī hoặc do sự thay thế īkāraiṃkāra.
Etesu pacchimanayo idhādhippeto, pubbanayo aññattha.
Among these, the latter method is intended here; the former method is elsewhere.
Trong số này, phương pháp sau được áp dụng ở đây, phương pháp trước ở nơi khác.
Tathā ‘‘gāvī gāvi’’nti imāni īpaccayavasenapi siddhattā yebhuyyena itthivācakāni bhavanti īkāriṃkārādesavasenapi siddhattā.
Likewise, the words "gāvī, gāvi" are predominantly feminine because they are formed by the ī suffix, and also because they are formed by the substitution of ī and iṃ.
Tương tự, các từ ‘‘gāvī, gāvi’’ này, vì chúng cũng được hình thành do hậu tố ī, nên chủ yếu là từ chỉ giống cái, và vì chúng cũng được hình thành do sự thay thế īkāraiṃkāra.
Katthaci ekakkhaṇeyeva sabbasaṅgāhakavasena itthipumavācakāni bhavanti.
In some instances, they denote both male and female in a single moment, encompassing all cases.
Ở một số nơi, chúng là từ chỉ cả giống cái và giống đực trong cùng một khoảnh khắc, bao gồm tất cả.
Etesupi pacchimoyeva nayo idhādhippeto, pubbanayo aññattha.
Among these too, the latter method is intended here; the former method is elsewhere.
Trong số này, phương pháp sau được áp dụng ở đây, phương pháp trước ở nơi khác.
‘‘Gāviyo.
However, the words "gāviyo,
‘‘Gāviyo.
Gāviyā, gāvīhi, gāvībhi.
gāviyā, gāvīhi, gāvībhi,
Gāviyā, gāvīhi, gāvībhi.
Gāvīnaṃ.
gāvīnaṃ,
Gāvīnaṃ.
Gāviyaṃ, gāvīsū’’ti etāni pana īpaccayavaseneva siddhattā sabbathāpi itthīnaṃyeva vācakāni bhavanti.
gāviyaṃ, gāvīsū" always denote only females, as they are formed exclusively by the ī suffix.
Gāviyaṃ, gāvīsū’’ — những từ này, vì chúng chỉ được hình thành do hậu tố ī, nên chúng luôn luôn là từ chỉ riêng cho giống cái.
Itthibhūtesveva godabbesu lokasaṅketavasena visesato pavattattā ekantato itthidabbesu pavattāni ‘‘migī morī kukkuṭī’’iccādīni padāni viya.
This is like words such as migī, morī, kukkuṭī, etc., which are used exclusively for female beings, due to their specific usage in the world for female cattle.
Chúng được dùng đặc biệt trong các vật thể bò cái theo quy ước thế gian, giống như các từ ‘‘migī, morī, kukkuṭī’’ v.v., được dùng hoàn toàn cho các vật thể giống cái.
Kiñcāpi pana ‘‘nadī mahī’’iccādīnipi itthiliṅgāni īpaccayavaseneva siddhāni, tathāpi tāni aviññāṇakattā tadatthānaṃ itthidabbesu vattantīti vattuṃ na yujjati.
Although words like nadī, mahī, etc., are also feminine and formed by the ī suffix, since they are inanimate, it is not appropriate to say that their meanings refer to female beings.
Mặc dù các từ ‘‘nadī, mahī’’ v.v. cũng là giống cái và được hình thành do hậu tố ī, nhưng vì chúng là vô tri, nên không thể nói rằng các ý nghĩa của chúng được dùng cho các vật thể giống cái.
Itthipumanapuṃsakabhāvarahitā hi tadatthā.
Their meanings are devoid of male, female, or neuter gender.
Thật vậy, các ý nghĩa của chúng không có trạng thái giống cái, giống đực hay trung tính.
Yasmā pana itthiliṅge gosadde enayogo esukāro ca na labbhati, tasmā ‘‘gāvena gavena gāvesu gavesū’’ti padāni na vuttāni.
However, since the use of ena and the ending esu are not found in the feminine word go, the words "gāvena, gavena, gāvesu, gavesu" are not mentioned.
Vì trong từ go giống cái, sự kết hợp enaesukāra không được chấp nhận, nên các từ ‘‘gāvena, gavena, gāvesu, gavesu’’ không được đề cập.
Yasmā ca itthiliṅgena gosaddena saddhiṃ sasmāsmiṃvacanāni sarūpato parattaṃ na yanti, tasmā ‘‘gāvassa gavassa gāvasmā gavasmā gāvasmiṃ gavasmi’’nti padāni na vuttāni.
And since the case endings sasmā and smiṃ do not align morphologically with the feminine word go, the words "gāvassa, gavassa, gāvasmā, gavasmā, gāvasmiṃ, gavasmiṃ" are not mentioned.
Và vì các từ sasmāsmiṃ không thể trực tiếp đi sau từ go giống cái, nên các từ ‘‘gāvassa, gavassa, gāvasmā, gavasmā, gāvasmiṃ, gavasmiṃ’’ không được đề cập.
Yasmā ca tattha smāvacanassa ādesabhūto ākāro ca mhākāro ca na labbhati, tasmā ‘‘gāvā gavā gāvamhā gavamhā’’ti padāni na vuttāni.
And since the substitutes ā and mhā for the smā ending are not found there, the words "gāvā, gavā, gāvamhā, gavamhā" are not mentioned.
Và vì ākāramhākāra là các thay thế của từ smā không được chấp nhận ở đó, nên các từ ‘‘gāvā, gavā, gāvamhā, gavamhā’’ không được đề cập.
Yasmā ca smiṃvacanassa ādesabhūto ekāro ca mhikāro ca na labbhati, tasmā ‘‘gāve gave gāvamhi gavamhī’’ti padāni na vuttāni.
And since the substitutes e and mhi for the smiṃ ending are not found, the words "gāve, gave, gāvamhi, gavamhi" are not mentioned.
Và vì ekāramhīkāra là các thay thế của từ smiṃ không được chấp nhận, nên các từ ‘‘gāve, gave, gāvamhi, gavamhī’’ không được đề cập.
Apica ‘‘yāya tāyā’’tiādīhi samānādhikaraṇapadehi yojetuṃ ayuttattāpi ‘‘gāvena gavenā’’tiādīni itthiliṅgaṭṭhāne na vuttāni.
Furthermore, words like "gāvena, gavenā" are not mentioned in the feminine context because they are unsuitable for combination with coreferential words like "yāya, tāyā."
Hơn nữa, các từ ‘‘gāvena, gavenā’’ v.v. không được đề cập ở vị trí giống cái vì không phù hợp để kết hợp với các từ đồng vị ngữ như ‘‘yāya tāyā’’ v.v.
Tathā hi ‘‘yāya tāya’’iccādīhi saddhiṃ ‘‘gāvena gavenā’’tiādīni na yojetabbāni ekantapulliṅgarūpattā.
Indeed, words like "gāvena, gavenā" should not be combined with "yāya, tāya", etc., because they are exclusively masculine forms.
Thật vậy, các từ ‘‘gāvena, gavenā’’ v.v. không nên được kết hợp với ‘‘yāya tāya’’ v.v. vì chúng là các dạng hoàn toàn giống đực.
2127
Keci panettha vadeyyuṃ – yā tumhehi okārantatāpakatikassa itthiliṅgassa gosaddassa ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo’’tiādinā nayena padamālā ṭhapitā, sā ‘‘mātugāmo itthī mātugāmā itthiyo’’ti vuttasadisā ca hotīti?
Some might argue here: "Is the declension table of the o-ending feminine word go that you have established in the manner of 'go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo' similar to what is said about 'mātugāmo itthī, mātugāmā itthiyo'?"
Một số người có thể nói ở đây rằng: chuỗi từ mà quý vị đã đặt ra cho từ go giống cái có tận cùng là okāra theo cách như ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo’’ v.v., cũng giống như đã nói ‘‘mātugāmo itthī, mātugāmā itthiyo’’ phải không?
Tanna.
That is not the case.
Không phải vậy.
Mātugāmaitthīsaddā hi nānāliṅgā pumitthiliṅgabhāvena, nānādhātukā ca gamu isudhātuvasena, imasmiṃ pana ṭhāne go gāvīsaddā ekaliṅgā itthi liṅgabhāvena, ekadhātukā ca gamudhātuvasenāti.
For the words mātugāma and itthī are of different genders, being masculine and feminine, and derived from different roots, gamu and isu verbs. However, in this context, the words go and gāvī are of a single gender, being feminine, and derived from a single root, the gamu verb.
Các từ mātugāmaitthī có giống khác nhau theo trạng thái giống đực và giống cái, và có gốc từ khác nhau theo gốc gamuisu. Nhưng ở trường hợp này, các từ gogāvī có cùng một giống theo trạng thái giống cái, và có cùng một gốc từ theo gốc gamu.
Yajjevaṃ goṇasaddassa gosaddassādesavasena kaccāyanena vuttattā tadādesattaṃ ekadhātukattañcāgamma tenāpi saddhiṃ missetvā padamālā vattabbāti?
If that is so, since goṇa is said by Kaccāyana to be a substitute for the word go, then, by virtue of it being a substitute and having a single root, should the declension table also be combined with it?
Nếu vậy, vì Kaccāyana đã nói từ goṇa là thay thế cho từ go, nên dựa vào việc đó là thay thế và có cùng một gốc từ, chuỗi từ cũng nên được nói cùng với nó phải không?
Na, goṇasaddassa accantapulliṅgattā akārantatāpakatikattā ca.
No, because the word goṇa is exclusively masculine and naturally a-ending.
Không, vì từ goṇa hoàn toàn là giống đực và có tận cùng là akāra.
Tathā hi so visuṃ pulliṅgaṭṭhāne uddiṭṭho.
Thus, it is listed separately in the masculine section.
Thật vậy, nó đã được đề cập riêng ở vị trí giống đực.
Ayaṃ pana ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo’’tiādikā padamālā okārīkārantapadāni missetvā katāti na sallakkhetabbā, atha kho vikappena gosaddato paresaṃ si yo aṃvacanānaṃ īriṃkārādesavasena vuttapadavantattā okārantitthiliṅgapadamālā icceva sārato paccetabbā.
However, this declension table of "go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo" and so on should not be understood as having been made by mixing o-ending and ī-ending words; rather, it should be fundamentally accepted as an o-ending feminine declension table, due to the words expressed alternately by the ī and iṃ substitutions for the si, yo, aṃ case endings after the word go.
Tuy nhiên, chuỗi từ ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo’’ v.v. này không nên được xem là được tạo ra bằng cách trộn lẫn các từ tận cùng okāraīkāra, mà thay vào đó, nó phải được hiểu một cách cốt yếu là chuỗi từ giống cái tận cùng okāra, vì nó chứa các từ được nói ra do sự thay thế īkāraiṃkāra cho các từ si, yo, aṃ sau từ go theo lựa chọn.
2128
Idāni gosaddassa itthiliṅgabhāvasādhakāni suttapadāni lokikappayogāni ca kathayāma – ‘‘seyyathāpi bhikkhave vassānaṃ pacchime māse saradasamaye kiṭṭhasambādhe gopālako gāvo rakkheyya, tā gāvo tato tato daṇḍena ākoṭeyya.
Now we shall explain the Sutta passages and worldly usages that prove the feminine nature of the word go: "Just as, bhikkhus, in the last month of the rainy season, in autumn, when the crops are dense, a cowherd would tend his cows, and he would drive those cows from here and there with a stick.
Bây giờ chúng tôi sẽ nói về các từ trong kinh điển và các cách dùng thông thường chứng minh trạng thái giống cái của từ go – ‘‘Này các Tỳ-kheo, ví như vào tháng cuối mùa mưa, trong mùa thu, khi lúa đã chín rộ, người chăn bò bảo vệ đàn bò, ông ta sẽ dùng gậy đánh chúng từ chỗ này đến chỗ khác.
2129
Annadā baladā cetā, vaṇṇadā sukhadā ca tā;
They are givers of food, givers of strength,
Chúng là những kẻ ban thức ăn, ban sức mạnh, ban sắc đẹp và ban hạnh phúc;
2130
Etamatthaṃ vasaṃ ñatvā, nāssu gāvo haniṃsu te.
And givers of beauty, givers of happiness.
Biết được ý nghĩa này, họ đã không giết những con bò cái đó.
2131
Sabbā gāvo samāharati.
Understanding this matter, they did not harm cows. He gathers all the cows. 'Bhante, the cows longing for their calves will go.'" These are Sutta passages.
Tập hợp tất cả những con bò cái.
Gamissanti bhante gāvo vacchagiddhiniyo’’ti imāni suttapadāni.
"Sir, the cows, yearning for their calves, will go" – these are the words of the Sutta.
Thưa Đại đức, những con bò cái đang thèm khát bê con sẽ đi.’’ — đây là những từ trong kinh điển.
‘‘Gosu duyhamānāsu gato’’tiādīni pana lokikappayogāni.
And "gosu duyhamānāsu gato" and so on are worldly usages.
Còn ‘‘Gosu duyhamānāsu gato’’ (đi khi những con bò đang được vắt sữa) v.v. là những cách dùng thông thường.
Iti gosaddassa itthiliṅgabhāvopi pulliṅgabhāvo viya sārato paccetabbo.
Thus, the feminine nature of the word go should also be fundamentally accepted, just like its masculine nature.
Như vậy, trạng thái giống cái của từ go cũng phải được hiểu một cách cốt yếu như trạng thái giống đực.
2132
Tatra ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo’’tiādīni kiñcāpi itthiliṅgabhāvena vuttāni, tathāpi yathāpayogaṃ ‘‘pajā devatā’’tipadāni viya itthipurisavācakāneva bhavanti, tasmā itthiliṅgavasena ‘‘sā go’’ti vā ‘‘tā gāvo’’ti vā vutte itthipumabhūtā sabbepi goṇā gahitāti veditabbā.
There, although words like "go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo" are stated in the feminine gender, they become terms denoting both female and male, depending on their usage, just like the words "pajā" and "devatā". Therefore, when expressed in the feminine gender as "sā go" or "tā gāvo", it should be understood that all cattle, both female and male, are included.
Ở đây, mặc dù các từ như ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo’’ được nói theo giống cái, nhưng tùy theo cách sử dụng, chúng cũng có thể chỉ cả giống cái và giống đực, giống như các từ ‘‘pajā, devatā’’. Do đó, cần hiểu rằng khi nói ‘‘sā go’’ (con bò cái đó) hoặc ‘‘tā gāvo’’ (những con bò cái đó) theo giống cái, thì tất cả các loài bò, cả đực lẫn cái, đều được bao hàm.
Na hi īdise ṭhāne ekantato liṅgaṃ padhānaṃ, atthoyeva padhāno.
Indeed, in such instances, gender is not primarily important; the meaning itself is paramount.
Thật vậy, trong trường hợp như thế này, giống không phải là yếu tố tuyệt đối chính yếu, mà chỉ có nghĩa mới là chính yếu.
‘‘Vajegāvo duhantī’’ti vutte kiñcāpi ‘‘gāvo’’ti ayaṃ saddo pumepi vattati, tathāpi duhanakriyāya pume asambhavato atthavasena itthiyo ñāyante.
When "Vajegāvo duhantī" is said, even though the word "gāvo" applies to males, due to the impossibility of the act of milking for males, females are understood by the meaning.
Khi nói ‘‘Vajegāvo duhantī’’ (những con bò đang vắt sữa), mặc dù từ ‘‘gāvo’’ này cũng được dùng cho giống đực, nhưng vì hành động vắt sữa không thể xảy ra ở giống đực, nên theo nghĩa, người ta hiểu là giống cái.
‘‘Gāvī duhantī’’ti vutte pana liṅgavasena atthavasena ca vacanato ko saṃsayamāpajjissati viññū.
But when "Gāvī duhantī" is said, who among the discerning will fall into doubt, as it is stated both in terms of gender and meaning?
Tuy nhiên, khi nói ‘‘Gāvī duhantī’’ (con bò cái đang vắt sữa), thì người trí nào lại còn nghi ngờ gì nữa, vì đã nói rõ theo cả giống và nghĩa.
‘‘Tā gāvo carantī’’ti vutte itthiliṅgavasena vacanato kadāci kassaci saṃsayo siyā ‘‘nanu itthiyo’’ti, pulliṅgavasena pana ‘‘te gāvo carantī’’ti vutte saṃsayo natthi, itthiyo ca pumāno ca ñāyante pulliṅgabahuvacanena katthaci itthipumassa gahitattā.
When "Tā gāvo carantī" is said in the feminine gender, someone might sometimes doubt, "Are they not females?" But when "Te gāvo carantī" is said in the masculine gender, there is no doubt, and both females and males are understood because the masculine plural is sometimes used to include both sexes.
Khi nói ‘‘Tā gāvo carantī’’ (những con bò cái đó đang ăn cỏ) theo giống cái, đôi khi ai đó có thể nghi ngờ ‘‘chẳng phải đó là những con cái sao?’’, nhưng khi nói ‘‘Te gāvo carantī’’ (những con bò đực đó đang ăn cỏ) theo giống đực thì không có nghi ngờ gì, vì cả con cái và con đực đều được hiểu, do ở một số trường hợp, số nhiều giống đực bao hàm cả giống cái và giống đực.
‘‘Athettha sīhā byagghā cā’’tiādīsu viya ‘‘gāvī caratī’’ti ca ‘‘gāviṃ passatī’’ti ca vutte itthī viññāyate gāvīsaddena itthiyā gahetabbattā.
Just as in "Athettha sīhā byagghā cā" and so on, when "Gāvī caratī" and "Gāviṃ passatī" are said, a female is understood because the word gāvī is to be taken as referring to a female.
Giống như trong các trường hợp ‘‘Athettha sīhā byagghā cā’’ (ở đây có sư tử và hổ) v.v., khi nói ‘‘gāvī caratī’’ (con bò cái đang ăn cỏ) và ‘‘gāviṃ passatī’’ (nhìn thấy con bò cái), thì con cái được hiểu, vì từ gāvī phải được hiểu là con cái.
Lokikappayogesu hi sāsanikappayogesu ca gāvīsaddena itthī gayhati.
Indeed, in both worldly and canonical usages, the word gāvī refers to a female.
Thật vậy, trong các cách dùng thông thường và trong các cách dùng của giáo pháp, từ gāvī được hiểu là con cái.
Ekaccaṃ pana sāsanikappayogaṃ sandhāya ‘‘gāvī’’ti, ‘‘gāvi’’nti ca ‘‘itthipurisasādhāraṇavacanamavocumha.
However, with reference to a certain canonical usage, we have stated that "gāvī" and "gāviṃ" are common terms for both female and male.
Tuy nhiên, khi đề cập đến một số cách dùng trong giáo pháp, chúng tôi đã nói rằng ‘‘gāvī’’ và ‘‘gāviṃ’’ là những từ chung cho cả giống cái và giống đực.
Tathā hi ‘‘seyyathāpi bhikkhave dakkho goghātako vā goghātakantevāsī vā gāviṃ vadhitvā catumahāpathe bilaso vibhajitvā nisinno assā’’ti pāḷi dissati.
For example, the Pali passage "Seyyathāpi bhikkhave dakkho goghātako vā goghātakantevāsī vā gāviṃ vadhitvā catumahāpathe bilaso vibhajitvā nisinno assā" is found.
Thật vậy, có một đoạn kinh ghi: ‘‘Này các Tỳ-khưu, ví như một người mổ bò khéo léo hoặc một người học việc của người mổ bò, sau khi giết một con bò cái, ngồi chia thành từng phần tại ngã tư đường lớn.’’
Aṭṭhakathāsu ca ‘‘gāvo’’ti itthipumasādhāraṇaṃ saddaracanaṃ katvā puna tadeva itthipumaṃ sandhāya ‘‘dvāraṃ pattaṃ pattaṃ gāvi’’nti racitā saddaracanā dissati.
And in the commentaries, after forming the word "gāvo" as common to both female and male, a word formation "dvāraṃ pattaṃ pattaṃ gāvi" referring to the same female and male is found.
Và trong các bản Chú giải, sau khi tạo ra cấu trúc từ ‘‘gāvo’’ là chung cho cả giống cái và giống đực, lại có một cấu trúc từ được tạo ra là ‘‘dvāraṃ pattaṃ pattaṃ gāvi’’ (con bò cái đến cửa) để chỉ cùng một con cái và con đực đó.
2133
Ettha hi gojātiyaṃ ṭhitā itthīpi pumāpi ‘‘gāvī’’ti saṅkhaṃ gacchati.
Here, both a female and a male belonging to the bovine species are referred to as "gāvī".
Ở đây, cả con cái và con đực thuộc giống bò đều được gọi là ‘‘gāvī’’.
Visesato pana ‘‘gāvī’’ti idaṃ itthiyā adhivacanaṃ.
Specifically, however, "gāvī" is a designation for a female.
Tuy nhiên, đặc biệt, từ ‘‘gāvī’’ này là danh từ riêng của con cái.
Tathā hi tattha tattha pāḷippadesādīsu ‘‘acirapakkantassa bhagavato bāhiyaṃ dārucīriyaṃ gāvī taruṇavacchā adhipatitvā jīvitā voropesī’’ti, ‘‘gāvuṃ vā te demi, gāviṃ vā te demī’’ti ca ‘‘tiṇasīho kapotavaṇṇagāvīsadiso’’ti ca payogadassanato itthī kathiyatīti vattabbaṃ.
For example, from the usage found in various Pali sections such as "acirapakkantassa bhagavato bāhiyaṃ dārucīriyaṃ gāvī taruṇavacchā adhipatitvā jīvitā voropesī" (a cow with a young calf trampled Bāhiya Dārucīriya, who had recently departed from the Blessed One, depriving him of life), "gāvuṃ vā te demi, gāviṃ vā te demī" (I give you a male cow, or I give you a female cow), and "tiṇasīho kapotavaṇṇagāvīsadiso" (a 'grass-lion' resembling a dove-colored cow), it must be said that a female is spoken of.
Thật vậy, do thấy các cách dùng ở các đoạn kinh khác nhau như ‘‘Sau khi Thế Tôn vừa rời đi không lâu, một con bò cái có con bê non đã xông vào Bāhiya Dārucīriya và cướp đi mạng sống của ông ấy’’, và ‘‘Tôi sẽ cho ông một con bò đực, hoặc tôi sẽ cho ông một con bò cái’’, và ‘‘Sư tử cỏ giống như con bò cái màu bồ câu’’, nên phải nói rằng con cái được đề cập đến.
Gosaddena pana ‘‘goduhanaṃ.
But by the word go, it must be said that both female and male are spoken of, as seen in "goduhanaṃ" (cow-milking),
Tuy nhiên, với từ go, do thấy các cách dùng như ‘‘goduhanaṃ (việc vắt sữa bò),
Gadduhanaṃ.
"gadduhanaṃ" (cow-milking),
Gadduhanaṃ (việc vắt sữa bò),
Gokhīraṃ godhano gorūpāni cā’’ti dassanato itthīpi pumāpi kathiyatīti vattabbaṃ.
"gokhīraṃ godhano gorūpāni cā" (cow's milk, cow wealth, and cattle).
Gokhīraṃ (sữa bò), godhano (gia súc bò), gorūpāni (hình dạng bò) v.v.’’, nên phải nói rằng cả con cái và con đực đều được đề cập đến.
2134
Idāni okārantassa itthiliṅgassa gosaddassa padamālāyaṃ pāḷinayādinissito atthayuttinayo vuccate viññūnaṃ kosallajananatthaṃ –
Now, for the sake of generating skill in the discerning, the method of meaningful connections, based on the Pali system, is stated in the paradigm of the feminine noun go ending in o
Bây giờ, để tạo sự thành thạo cho người trí, chúng tôi sẽ trình bày cách dùng theo ngữ pháp Pali và cách dùng hợp lý của từ go tận cùng bằng nguyên âm o thuộc giống cái trong bảng biến cách từ –
2135
Sā go gacchati, sā gāvī gacchati, tā gāvo, gāvī, gavo gacchanti.
That cow goes, that gāvī goes, those gāvo, gāvī, gavo go.
Sā go gacchati (con bò cái đó đi), sā gāvī gacchati (con bò cái đó đi), tā gāvo (những con bò cái đó), gāvī (những con bò cái đó), gavo (những con bò cái đó) gacchanti (đi).
Taṃ gāvaṃ, gāviṃ, gavaṃ passati, tā gāvo, gāvī, gavo passati.
He sees that gāvaṃ, gāviṃ, gavaṃ; he sees those gāvo, gāvī, gavo.
Taṃ gāvaṃ (nhìn thấy con bò cái đó), gāviṃ (nhìn thấy con bò cái đó), gavaṃ (nhìn thấy con bò cái đó) passati (nhìn thấy), tā gāvo (nhìn thấy những con bò cái đó), gāvī (nhìn thấy những con bò cái đó), gavo (nhìn thấy những con bò cái đó) passati (nhìn thấy).
Tāhi gohi, gobhi kataṃ.
Done by those gohi, gobhi.
Tāhi gohi (do những con bò cái đó), gobhi (do những con bò cái đó) kataṃ (đã làm).
Tāsaṃ gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ deti.
He gives to those gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Tāsaṃ gavaṃ (cho những con bò cái đó), gunnaṃ (cho những con bò cái đó), gonaṃ (cho những con bò cái đó) deti (cho).
Tāhi gohi, gobhi apeti.
He departs from those gohi, gobhi.
Tāhi gohi (từ những con bò cái đó), gobhi (từ những con bò cái đó) apeti (rời đi).
Tāsaṃ gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ siṅgāni.
Horns of those gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ.
Tāsaṃ gavaṃ (sừng của những con bò cái đó), gunnaṃ (sừng của những con bò cái đó), gonaṃ (sừng của những con bò cái đó) siṅgāni (những cái sừng).
Tāsu gosu patiṭṭhitaṃ.
Established in those gosu.
Tāsu gosu (trên những con bò cái đó) patiṭṭhitaṃ (được đặt).
Bhoti go tvaṃ tiṭṭha, bhotiyo gāvo gāvī, gavā tumhe tiṭṭhatha.
O cow, you stand! O gāvo, gāvī, gavā, you all stand!
Bhoti go tvaṃ tiṭṭha (này con bò cái, ngươi hãy đứng), bhotiyo gāvo (này những con bò cái), gāvī (này những con bò cái), gavā (này những con bò cái) tumhe tiṭṭhatha (các ngươi hãy đứng).
2136
Aparopi vuccate –
Another is stated –
Một cách dùng khác được trình bày –
2137
Sā go nadiṃ tarantī gacchati, sā gāvī nadiṃ tarantī gacchati, tā gāvo, gāvī, gavo nadiṃ tarantīyo gacchanti.
That cow, crossing the river, goes; that gāvī, crossing the river, goes; those gāvo, gāvī, gavo, crossing the river, go.
Sā go nadiṃ tarantī gacchati (con bò cái đó đang băng qua sông mà đi), sā gāvī nadiṃ tarantī gacchati (con bò cái đó đang băng qua sông mà đi), tā gāvo (những con bò cái đó), gāvī (những con bò cái đó), gavo (những con bò cái đó) nadiṃ tarantīyo gacchanti (đang băng qua sông mà đi).
Taṃ gāvaṃ, gāviṃ, gavaṃ nadiṃ tarantiṃ passati, tā gāvo, gāvī, gavo nadiṃ tarantiyo passati.
He sees that gāvaṃ, gāviṃ, gavaṃ, crossing the river; he sees those gāvo, gāvī, gavo, crossing the river.
Taṃ gāvaṃ (nhìn thấy con bò cái đó), gāviṃ (nhìn thấy con bò cái đó), gavaṃ (nhìn thấy con bò cái đó) nadiṃ tarantiṃ passati (đang băng qua sông), tā gāvo (nhìn thấy những con bò cái đó), gāvī (nhìn thấy những con bò cái đó), gavo (nhìn thấy những con bò cái đó) nadiṃ tarantiyo passati (đang băng qua sông).
Tāhi gohi, gobhi nadiṃ tarantīhi kataṃ.
Done by those gohi, gobhi, crossing the river.
Tāhi gohi (do những con bò cái đó), gobhi (do những con bò cái đó) nadiṃ tarantīhi kataṃ (đang băng qua sông mà làm).
Tāsaṃ gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ nadiṃ tarantīnaṃ deti.
He gives to those gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ, crossing the river.
Tāsaṃ gavaṃ (cho những con bò cái đó), gunnaṃ (cho những con bò cái đó), gonaṃ (cho những con bò cái đó) nadiṃ tarantīnaṃ deti (đang băng qua sông).
Tāhi gohi, gobhi nadiṃ tarantīhi apeti.
He departs from those gohi, gobhi, crossing the river.
Tāhi gohi (từ những con bò cái đó), gobhi (từ những con bò cái đó) nadiṃ tarantīhi apeti (đang băng qua sông mà rời đi).
Tāsaṃ gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ nadiṃ tarantīnaṃ santakaṃ.
Belonging to those gavaṃ, gunnaṃ, gonaṃ, crossing the river.
Tāsaṃ gavaṃ (thuộc về những con bò cái đó), gunnaṃ (thuộc về những con bò cái đó), gonaṃ (thuộc về những con bò cái đó) nadiṃ tarantīnaṃ santakaṃ (đang băng qua sông).
Tāsu gosu nadiṃ tarantīsu patiṭṭhitanti.
Established in those gosu, crossing the river.
Tāsu gosu (trên những con bò cái đó) nadiṃ tarantīsu patiṭṭhitanti (đang băng qua sông mà được đặt).
2138
Tatra yā sā ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo’’tiādinā okārantassitthiliṅgassa gosaddassa padamālā ṭhapitā, sā ‘‘go, gāvo gavo’’tiādinā vuttassa okārantapulliṅgassa gosaddassa padamālāto savisesā paccattopayogālapanaṭṭhāne catunnaṃ kaññāsaddānaṃ viya gāvīsaddānaṃ vuttattā.
The paradigm of the feminine noun go ending in o, which is presented with "go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo" and so on, is distinct from the paradigm of the masculine noun go ending in o, stated with "go, gāvo, gavo" and so on, because of the inclusion of four gāvī forms, like the four kaññā forms, in the direct vocative case.
Trong đó, bảng biến cách từ của từ go tận cùng bằng nguyên âm o thuộc giống cái, được thiết lập với ‘‘go, gāvī, gāvo, gāvī, gavo’’ v.v., thì khác biệt so với bảng biến cách từ của từ go tận cùng bằng nguyên âm o thuộc giống đực, được nói với ‘‘go, gāvo, gavo’’ v.v., ở chỗ có bốn từ gāvī được nói ở vị trí hô cách và cách dùng riêng, giống như bốn từ kaññā.
Yasmā panāyaṃ viseso, tasmā imassa okārantitthiliṅgassa gosaddassa aññesamitthiliṅgānaṃ viya avisadākāravohāratā sallakkhetabbā, na pulliṅgānaṃ viya visadākāravohāratā, nāpi napuṃsakaliṅgānaṃ viya ubhayamuttākāravohāratā sallakkhetabbā.
Since this is the distinction, the indistinct usage of this feminine noun go ending in o should be recognized, like that of other feminine nouns, and not the distinct usage of masculine nouns, nor the neither-nor usage of neuter nouns.
Vì có sự khác biệt này, nên cần nhận thấy rằng cách dùng của từ go tận cùng bằng nguyên âm o thuộc giống cái này có tính chất không rõ ràng, giống như các từ giống cái khác, chứ không phải có tính chất rõ ràng như các từ giống đực, cũng không phải có tính chất vượt trội cả hai như các từ giống trung.
Ettha nicchayakaraṇī gāthā vuccati –
Here, a verse for making a decision is stated –
Ở đây, một bài kệ quyết định được nói –
2139
Duvinnaṃ dhātusaddānaṃ, yathā dissati nānatā;
Just as a difference is seen between two dhātu nouns,
Giống như sự khác biệt rõ ràng
2140
Gosaddānaṃ tathā dvinnaṃ, icchitabbāva nānatā.
So too, a difference between the two go nouns should be desired.
Giữa hai từ dhātu, thì sự khác biệt giữa hai từ go cũng phải được mong muốn.
2141
Tathā hi pumitthiliṅgavasena dvinnaṃ dhātusaddānaṃ viseso dissati.
Thus, a distinction is seen between two dhātu nouns based on masculine and feminine gender.
Thật vậy, sự khác biệt giữa hai từ dhātu được thấy theo giống đực và giống cái.
Taṃ yathā?
How is that?
Điều đó như thế nào?
2142
Dhātu, dhātū, dhātavo.
Dhātu, dhātū, dhātavo.
Dhātu (nguyên tố), dhātū (các nguyên tố), dhātavo (các nguyên tố).
Dhātuṃ, dhātū, dhātavo.
Dhātuṃ, dhātū, dhātavo.
Dhātuṃ (nguyên tố), dhātū (các nguyên tố), dhātavo (các nguyên tố).
Dhātunā, dhātūhi, dhātūbhi.
Dhātunā, dhātūhi, dhātūbhi.
Dhātunā (bởi nguyên tố), dhātūhi (bởi các nguyên tố), dhātūbhi (bởi các nguyên tố).
Dhātussa, dhātūnaṃ.
Dhātussa, dhātūnaṃ.
Dhātussa (của nguyên tố), dhātūnaṃ (của các nguyên tố).
Dhātusmā, dhātumhā, dhātūhi, dhātūbhi.
Dhātusmā, dhātumhā, dhātūhi, dhātūbhi.
Dhātusmā (từ nguyên tố), dhātumhā (từ nguyên tố), dhātūhi (từ các nguyên tố), dhātūbhi (từ các nguyên tố).
Dhātussa, dhātūnaṃ.
Dhātussa, dhātūnaṃ.
Dhātussa (đối với nguyên tố), dhātūnaṃ (đối với các nguyên tố).
Dhātusmiṃ, dhātumhi, dhātūsu.
Dhātusmiṃ, dhātumhi, dhātūsu.
Dhātusmiṃ (trong nguyên tố), dhātumhi (trong nguyên tố), dhātūsu (trong các nguyên tố).
Ayaṃ pulliṅgaviseso.
This is the masculine distinction.
Đây là sự khác biệt của giống đực.
2143
Dhātu, dhātū, dhātuyo.
Dhātu, dhātū, dhātuyo.
Dhātu (nguyên tố), dhātū (các nguyên tố), dhātuyo (các nguyên tố).
Dhātuṃ, dhātū, dhātuyo.
Dhātuṃ, dhātū, dhātuyo.
Dhātuṃ (nguyên tố), dhātū (các nguyên tố), dhātuyo (các nguyên tố).
Dhātuyā, dhātūhi, dhātūbhi.
Dhātuyā, dhātūhi, dhātūbhi.
Dhātuyā (bởi nguyên tố), dhātūhi (bởi các nguyên tố), dhātūbhi (bởi các nguyên tố).
Dhātuyā, dhātūnaṃ.
Dhātuyā, dhātūnaṃ.
Dhātuyā (của nguyên tố), dhātūnaṃ (của các nguyên tố).
Dhātuyā, dhātūhi, dhātūbhi.
Dhātuyā, dhātūhi, dhātūbhi.
Dhātuyā (từ nguyên tố), dhātūhi (từ các nguyên tố), dhātūbhi (từ các nguyên tố).
Dhātuyā, dhātūnaṃ.
Dhātuyā, dhātūnaṃ.
Dhātuyā (đối với nguyên tố), dhātūnaṃ (đối với các nguyên tố).
Dhātuyā, dhātuyaṃ, dhātūsu.
Dhātuyā, dhātuyaṃ, dhātūsu.
Dhātuyā (trong nguyên tố), dhātuyaṃ (trong nguyên tố), dhātūsu (trong các nguyên tố).
Ayaṃ itthiliṅgassa viseso.
This is the feminine distinction.
Đây là sự khác biệt của giống cái.
2144
Yathā ca dvinnaṃ dhātusaddānaṃ viseso paññāyati, tathā dvinnampi gosaddānaṃ viseso paññāyateva.
Just as a distinction is evident between the two dhātu nouns, so too a distinction is indeed evident between the two go nouns.
Giống như sự khác biệt của hai từ dhātu được nhận thấy, thì sự khác biệt của hai từ go cũng được nhận thấy.
Yathā ca punnapuṃsakaliṅgānaṃ dvinnaṃ āyusaddānaṃ ‘‘āyu, āyū, āyavo’’tiādinā, ‘‘āyu, āyū, āyūnī’’tiādinā ca viseso paññāyati, yathā dvinnampi gosaddānaṃ viseso paññāyateva.
And just as a distinction is evident between the two āyu nouns, masculine and neuter, with "āyu, āyū, āyavo" and so on, and "āyu, āyū, āyūnī" and so on, so too a distinction is indeed evident between the two go nouns.
Và giống như sự khác biệt của hai từ āyu thuộc giống đực và giống trung được nhận thấy qua ‘‘āyu, āyū, āyavo’’ v.v., và ‘‘āyu, āyū, āyūnī’’ v.v., thì sự khác biệt của hai từ go cũng được nhận thấy.
Tathā hi visadākāravohāro pulliṅgaṃ, avisadākāravohāro itthiliṅgaṃ, ubhayamuttākāravohāro napuṃsakaliṅgaṃ.
Thus, a distinct usage is masculine, an indistinct usage is feminine, and a usage that is neither distinct nor indistinct is neuter.
Thật vậy, cách dùng rõ ràng là giống đực, cách dùng không rõ ràng là giống cái, cách dùng vượt trội cả hai là giống trung.
2145
Idāni imamevatthaṃ pākaṭataraṃ katvā saṅkhepato kathayāma – purisoti visadākāravohāro, kaññāti avisadākāravohāro, rūpanti ubhayamuttākāravohāro.
Now, making this very meaning clearer, we will explain it concisely – " purisa" (man) is a clear-form usage, " kaññā" (maiden) is an unclear-form usage, and " rūpa" (form) is a usage that is both (clear and unclear).
Bây giờ, chúng tôi sẽ tóm tắt để làm rõ hơn ý nghĩa này – puriso (người đàn ông) là cách dùng rõ ràng, kaññā (cô gái) là cách dùng không rõ ràng, rūpaṃ (sắc) là cách dùng vượt trội cả hai.
Puriso tiṭṭhati, kaññā tiṭṭhati, kaññā tiṭṭhanti, kaññā passati, bhotiyo kaññā tiṭṭhatha, etthekapadamasamaṃ, cattāri samāni.
A man stands, a maiden stands, maidens stand, a maiden sees, O maidens, stand (you all); here one word is unequal, four are equal.
Puriso tiṭṭhati (người đàn ông đứng), kaññā tiṭṭhati (cô gái đứng), kaññā tiṭṭhanti (những cô gái đứng), kaññā passati (cô gái nhìn thấy), bhotiyo kaññā tiṭṭhatha (này các cô gái, các cô hãy đứng), ở đây một từ không giống, bốn từ giống nhau.
Purisā tiṭṭhanti, purisā nissaṭaṃ, bhavanto purisā gacchatha.
Men stand, men are gone forth, O sirs, men, go forth.
Purisā tiṭṭhanti (những người đàn ông đứng), purisā nissaṭaṃ (những người đàn ông đã rời đi), bhavanto purisā gacchatha (này các quý ông, các quý ông hãy đi).
Kaññāyo tiṭṭhanti, kaññāyo passati, bhotiyo kaññāyo gacchatha, tīṇi tīṇi samāni.
Maidens stand, maidens see, O maidens, go forth; three are equal, three are equal.
Kaññāyo tiṭṭhanti (những cô gái đứng), kaññāyo passati (những cô gái nhìn thấy), bhotiyo kaññāyo gacchatha (này các cô gái, các cô hãy đi), ba từ giống nhau.
Purisaṃ passati, kaññaṃ passati, dve asamāni.
He sees a man, he sees a maiden; two are unequal.
Purisaṃ passati (nhìn thấy người đàn ông), kaññaṃ passati (nhìn thấy cô gái), hai từ không giống nhau.
Purise passati, purise patiṭṭhitaṃ, dve samāni.
He sees men, established in men; two are equal.
Purise passati (nhìn thấy những người đàn ông), purise patiṭṭhitaṃ (được đặt trên những người đàn ông), hai từ giống nhau.
Tena purisena kataṃ, tāya kaññāya kataṃ, tāya kaññāya deti, tāya kaññāya apeti, tāya kaññāya santakaṃ, tāya kaññāya patiṭṭhitaṃ, ekamasamaṃ, pañca samāni.
Done by that man, done by that maiden; gives to that maiden, goes away from that maiden, belonging to that maiden, established in that maiden. One is distinct, five are identical.
Được làm bởi người đàn ông đó, được làm bởi cô gái đó, cho cô gái đó, lấy đi từ cô gái đó, thuộc về cô gái đó, được thiết lập bởi cô gái đó, một không giống nhau, năm giống nhau.
Evaṃ pulliṅgassa visadākāravohāratā dissati, itthiliṅgassa avisadākāravohāratā dissati.
Thus, for the masculine gender, the usage of distinct forms is observed; for the feminine gender, the usage of indistinct forms is observed.
Như vậy, cách dùng từ ngữ rõ ràng được thấy ở giống đực, cách dùng từ ngữ không rõ ràng được thấy ở giống cái.
Napuṃsakaliṅgassa pana ‘‘rūpaṃ, rūpāni, rūpā.
But for the neuter gender, in the three instances of vocative and nominative case usages, namely, ‘‘rūpaṃ, rūpāni, rūpā (Oh form, Oh forms, Oh forms)
Còn đối với giống trung, “rūpaṃ, rūpāni, rūpā.
Rūpaṃ, rūpāni, rūpe.
Rūpaṃ, rūpāni, rūpe (form, forms, forms),
Rūpaṃ, rūpāni, rūpe.
Bho rūpa, bhavanto rūpāni, rūpā’’ti evaṃ tīsu paccattopayogālapanaṭṭhānesu sa nikārāya visesāya rūpamālāya vasena ubhayamuttākāravohāratā dissati, pumitthiliṅgānaṃ tīsu ṭhānesu sa nikārāni rūpāni sabbadā na santi, iti visadākāravohāro pulliṅgaṃ, avisadākāravohāro itthiliṅgaṃ, ubhayamuttākāravohāro napuṃsakaliṅganti veditabbaṃ.
Bho rūpa, bhavanto rūpāni, rūpā (Oh form, Oh forms, Oh forms),’’ the usage of forms that are both clear and unclear is observed by means of the specific and distinct forms of the word 'rūpa'. Since for masculine and feminine genders, there are never distinct forms in these three instances, it should be understood that the masculine gender has distinct forms, the feminine gender has indistinct forms, and the neuter gender has both distinct and indistinct forms.
Bho rūpa, bhavanto rūpāni, rūpā” – như vậy, ở ba trường hợp dùng cách xưng hô trực tiếp này, cách dùng từ ngữ cả hai được thấy do sự đa dạng của các hình thái đặc biệt với âm “ni” (sa nikārāya visesāya rūpamālāya vasena ubhayamuttākāravohāratā dissati). Đối với giống đực và giống cái, các hình thái với âm “ni” không bao giờ có ở ba trường hợp đó. Do đó, cần hiểu rằng cách dùng từ ngữ rõ ràng là giống đực, cách dùng từ ngữ không rõ ràng là giống cái, và cách dùng từ ngữ cả hai là giống trung.
2146
Ayaṃ nayo ‘‘saddhā sati hirī, yā itthī saddhā pasannā, te manussā saddhā pasannā, pahūtaṃ saddhaṃ paṭiyattaṃ, saddhaṃ kula’’ntiādīsu samānasutikasaddesupi padamālāvasena labbhateva.
This method can also be obtained in words with similar sounds, such as ‘‘saddhā sati hirī (faith, mindfulness, shame), yā itthī saddhā pasannā (the woman who is faithful and confident), te manussā saddhā pasannā (those men who are faithful and confident), pahūtaṃ saddhaṃ paṭiyattaṃ (much faith prepared), saddhaṃ kula (a faithful family),’’ by means of word declensions.
Quy tắc này cũng được áp dụng cho các từ có âm tương tự như “saddhā sati hirī, yā itthī saddhā pasannā, te manussā saddhā pasannā, pahūtaṃ saddhaṃ paṭiyattaṃ, saddhaṃ kula” v.v., theo cách sắp xếp từ ngữ.
Yā ca pana itthiliṅgassa avisadākāravohāratā vuttā, sā ekaccesupi saṅkhyāsaddesu labbhati.
And the indistinct usage of feminine gender, as stated, is also found in some numeral words.
Và cách dùng từ ngữ không rõ ràng đã nói đối với giống cái cũng được áp dụng cho một số từ số đếm.
Tathā hi vīsatiādayo navutipariyantā saddā ekavacanantā itthiliṅgāti vuttā, ettha ‘‘vīsatiyā’’ti pañcakkhattuṃ vattabbaṃ, tathā ‘‘tiṃsāyā’’tiādīnaṃ ‘‘navutiyā’’ti padapariyantānaṃ, evaṃ vīsatiādīnaṃ kaññāsaddasseva avisadākāravohāratā labbhatīti avagantabbaṃ.
Thus, words from "vīsati" up to "navuti" are said to be feminine singular. Here, "vīsatiyā" should be said five times, and similarly for "tiṃsāya" and so on, up to "navutiyā". Thus, it should be understood that for "vīsati" and so forth, the indistinct usage, like that of the word "kaññā," is obtained.
Thật vậy, các từ từ “vīsati” trở đi cho đến “navuti” được nói là giống cái, tận cùng bằng số ít. Ở đây, “vīsatiyā” phải được nói năm lần, cũng như các từ từ “tiṃsāyā” cho đến tận “navutiyā”. Như vậy, cần hiểu rằng cách dùng từ ngữ không rõ ràng của “vīsati” v.v. cũng giống như của từ “kaññā”.
Yadi evaṃ ticatusaddesu kathanti?
If so, what about the words "ticatu"?
Nếu vậy, đối với các từ “ticatu” thì sao?
Ticatusaddā pana yasmā ‘‘tayo tisso tīṇi, cattāro caturo catasso cattārī’’ti attano attano rūpāni abhidheyyaliṅgānugabhattā yathāsakaliṅgavasena ‘‘purisā kaññāyo cittānī’’tiādīhi visadāvisadobhayarahitākāravohārasaṅkhātehi saddehi yogaṃ gacchanti, tasmā paccekaliṅgavasena visadāvisadobhayarahitākāravohārāti vattumarahanti.
Because the words "ticatu" (three, four), like ‘‘tayo tisso tīṇi (three m. f. n.), cattāro caturo catasso cattārī (four m. m. f. n.),’’ align with the genders of their referents, they form connections with words like ‘‘purisā kaññāyo cittānī (men, maidens, minds),’’ which have usages that are neither distinct nor indistinct, nor both. Therefore, they can be said to have usages that are neither distinct nor indistinct, nor both, according to each gender.
Các từ “ticatu” thì, bởi vì chúng kết hợp với các từ như “purisā kaññāyo cittānī” v.v., những từ được gọi là cách dùng từ ngữ không rõ ràng, không rõ ràng và cả hai, theo từng giống của chúng, phù hợp với giống của đối tượng được chỉ định của các hình thái riêng của chúng như “tayo tisso tīṇi, cattāro caturo catasso cattārī”, do đó chúng có thể được gọi là cách dùng từ ngữ không rõ ràng, không rõ ràng và cả hai, theo từng giống.
2147
Sabbanāmesupi ayaṃ tividho ākāro labbhati rūpavisesayogato.
This threefold characteristic is also found in pronouns due to the combination of distinct forms.
Ở các đại danh từ cũng có ba loại hình thái này do sự kết hợp của các hình thái đặc biệt.
Kathaṃ?
How?
Như thế nào?
Punnapuṃsakavisaye ‘‘tassa kassa’’ iccādīni sabbāni sabbanāmikarūpāni catutthīchaṭṭhiyantāni bhavanti, itthiliṅgavisaye ‘‘tassā kassā’’ iccādīni sabbanāmikarūpāni tatiyācatutthīpañcamīchaṭṭhīsattamiyantāni bhavanti, tasmā sabbanāmattepi itthiliṅgassa avisadākāravohāratā ekantato sampaṭicchitabbā.
In the masculine and neuter domains, all pronominal forms such as ‘‘tassa kassa’’ end in the fourth and sixth cases. In the feminine gender domain, pronominal forms such as ‘‘tassā kassā’’ end in the third, fourth, fifth, sixth, and seventh cases. Therefore, even in pronouns, the indistinct usage of the feminine gender must be absolutely accepted.
Trong trường hợp giống đực và giống trung, tất cả các hình thái đại danh từ như “tassa kassa” v.v. đều có tận cùng là cách thứ tư và thứ sáu. Trong trường hợp giống cái, các hình thái đại danh từ như “tassā kassā” v.v. đều có tận cùng là cách thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu và thứ bảy. Do đó, ngay cả trong các đại danh từ, cách dùng từ ngữ không rõ ràng của giống cái chắc chắn phải được chấp nhận.
Ettha pana sulabhāni catutthīchaṭṭhīrūpāni anāharitvā sudullabhabhāvena tatiyāpañcamīsattamīrūpāni sāsanato āharitvā dassessāma bhagavato pāvacane nikkaṅkhabhāvena sotūnaṃ paramasaṇhasukhumañāṇādhigamatthaṃ.
Here, instead of bringing forth easily obtainable fourth and sixth case forms, we will present the extremely difficult-to-find third, fifth, and seventh case forms from the Sāsanā, for the sake of the listeners' attainment of supreme, subtle, and profound knowledge, free from doubt in the Buddha’s teaching.
Ở đây, thay vì lấy các hình thái cách thứ tư và thứ sáu dễ tìm, chúng tôi sẽ lấy các hình thái cách thứ ba, thứ năm và thứ bảy rất hiếm từ các giáo điển để trình bày, nhằm mục đích giúp thính giả đạt được trí tuệ vi tế và sâu sắc nhất một cách không nghi ngờ trong lời giáo huấn của Đức Thế Tôn.
Taṃ yathā?
How so?
Ví dụ như thế nào?
‘‘Āyasmā udāyī yena sā kumārikā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā tassā kumārikāya saddhiṃ eko ekāya raho paṭicchanne āsane alaṃkammanīye nisajjaṃ kappesī’’ti.
‘‘Venerable Udāyī approached that maiden. Having approached, he arranged to sit alone with that maiden in a private, secluded, suitable place.’’
“Tôn giả Udāyī đã đến chỗ cô gái trẻ đó, sau khi đến, ngài ngồi một mình với cô gái trẻ đó trên một chỗ ngồi kín đáo, thích hợp cho việc hành động.”
Ettha ‘‘tassā’’ti tatiyāya rūpaṃ, ‘‘tassā’’ti tatiyāya rūpe diṭṭheyeva ‘‘sabbassā katarissā’’tiādīni tatiyārūpāni pāḷiyaṃ anāgatānipidiṭṭhāniyeva nāma tesaṃ aññamaññasamānagatikattā, diṭṭhena ca adiṭṭhassapi yuttassa gahetabbattā.
Here, ‘‘tassā’’ is a third case form. Once the third case form ‘‘tassā’’ is seen, then even if the third case forms like ‘‘sabbassā katarissā’’ are not found in the Pāḷi, they are as good as seen, because they move in the same way as each other, and because what is unseen but implied by what is seen should be understood.
Ở đây, “tassā” là hình thái của cách thứ ba. Khi đã thấy hình thái cách thứ ba “tassā”, thì các hình thái cách thứ ba như “sabbassā katarissā” v.v., dù không xuất hiện trong Pāli, cũng được xem là đã thấy, vì chúng có cùng cách thức hoạt động và vì những gì phù hợp với cái đã thấy cũng phải được chấp nhận cho cái chưa thấy.
‘‘Kassāhaṃ kena hāyāmī’’ti ettha ‘‘kassā’’ti pañcamiyā rūpaṃ, ‘‘kassā’’ti pañcamiyā rūpe diṭṭheyeva ‘‘sabbassā katarissā’’tiādīni pañcamiyā rūpāni pāḷiyaṃ anāgatānipi diṭṭhāniyeva nāma.
In ‘‘Kassāhaṃ kena hāyāmī (By whom am I losing what)?’’ here ‘‘kassā’’ is a fifth case form. Once the fifth case form ‘‘kassā’’ is seen, then even if the fifth case forms like ‘‘sabbassā katarissā’’ are not found in the Pāḷi, they are as good as seen.
Trong “Kassāhaṃ kena hāyāmī” (Tôi bị thiếu hụt bởi ai?), “kassā” là hình thái của cách thứ năm. Khi đã thấy hình thái cách thứ năm “kassā”, thì các hình thái cách thứ năm như “sabbassā katarissā” v.v., dù không xuất hiện trong Pāli, cũng được xem là đã thấy.
‘‘Aññataro bhikkhu vesāliyaṃ mahāvane makkaṭiṃ āmisena upalāpetvā tassā methunaṃ dhammaṃ paṭisevati.
‘‘A certain bhikkhu, in the Mahāvana near Vesālī, enticed a monkey with bait and engaged in sexual misconduct with it.
“Một vị tỳ khưu đã dụ dỗ một con khỉ cái bằng mồi trong khu rừng lớn Vesālī và đã thực hành pháp dâm dục với nó.
Aññataro bhikkhu aññatarissā itthiyā paṭibaddhacitto hotī’’ti ca ettha ‘‘tassā aññatarissā’’ti ca sattamiyā rūpaṃ, tasmiṃ diṭṭheyeva ‘‘sabbassā katarissā’’tiādīni sattamiyā rūpāni pāḷiyaṃ anāgatānipi diṭṭhāniyeva nāmāti.
A certain bhikkhu became infatuated with a certain woman.’’ Here, ‘‘tassā aññatarissā’’ are seventh case forms. Once these are seen, then even if the seventh case forms like ‘‘sabbassā katarissā’’ are not found in the Pāḷi, they are as good as seen.
Một vị tỳ khưu khác đã có tâm quyến luyến với một người phụ nữ khác.” Ở đây, “tassā aññatarissā” là hình thái của cách thứ bảy. Khi đã thấy hình thái đó, thì các hình thái cách thứ bảy như “sabbassā katarissā” v.v., dù không xuất hiện trong Pāli, cũng được xem là đã thấy.
2148
Nanu ca bho ‘‘tassā kumārikāya saddhi’’nti ettha ‘‘tassā’’ti idaṃ vibhattivipallāsena vuttaṃ, ‘‘tāyā’’ti hissa attho, tathā ‘‘kassāhaṃ kena hāyāmī’’ti idampi vibhattivipallāsena vuttaṃ.
But dear sir, in ‘‘tassā kumārikāya saddhiṃ (together with that maiden),’’ this ‘‘tassā’’ is said due to a case inversion. Its meaning is ‘‘tāyā (by/with that).’’ Similarly, ‘‘kassāhaṃ kena hāyāmī (from whom am I losing what)?’’ this too is said due to a case inversion.
Này các vị, chẳng phải “tassā kumārikāya saddhiṃ” ở đây, từ “tassā” này được nói do sự hoán đổi cách (vibhattivipallāsa), ý nghĩa của nó là “tāyā” hay sao? Tương tự, “kassāhaṃ kena hāyāmī” này cũng được nói do sự hoán đổi cách.
‘‘Kāyā’’ti hissa attho.
Its meaning is ‘‘kāyā (from whom).’’
Ý nghĩa của nó là “kāyā”.
‘‘Aññatarissā itthiyā paṭibaddhacitto’’ti etthāpi ‘‘aññatarissā’’ti idaṃ vibhattivipallāsena vuttaṃ.
In ‘‘aññatarissā itthiyā paṭibaddhacitto (infatuated with a certain woman),’’ here too ‘‘aññatarissā’’ is said due to a case inversion.
Trong “aññatarissā itthiyā paṭibaddhacitto” này, từ “aññatarissā” này cũng được nói do sự hoán đổi cách.
‘‘Aññatarissa’’nti hissa atthoti?
Its meaning is ‘‘aññatarissa (with a certain).’’ Is that so?
Ý nghĩa của nó là “aññatarissa” hay sao?
Tanna, īdisesu cuṇṇiyapadavisayesu vibhattivipallāsassa anicchitabbattā.
That is not correct, as case inversion is not desired in such contexts of prose words.
Không phải vậy, vì trong những trường hợp từ ngữ thông thường như thế này, sự hoán đổi cách không được chấp nhận.
Nanu ca bho cuṇṇiyapadavisayepi ‘‘saṅghe gotami dehī’’tiādīsu ‘‘saṅghassā’’ti vibhattivipallāsatthaṃ vadanti garūti?
But dear sir, do the venerable teachers not say that even in prose contexts, as in ‘‘saṅghe gotami dehi (Gotamī, give to the Saṅgha),’’ there is a case inversion for ‘‘saṅghassa (to the Saṅgha)’’?
Này các vị, chẳng phải các bậc thầy nói rằng ngay cả trong trường hợp từ ngữ thông thường, sự hoán đổi cách cũng được chấp nhận cho “saṅghassa” trong “saṅghe gotami dehī” v.v. hay sao?
Saccaṃ, tathāpi tādisesu ṭhānesu dve adhippāyā bhavanti ādhārapaṭiggāhakabhāvena bhummasampadānānamicchitabbattā.
That is true. However, in such instances, there are two intentions, as the locative and dative cases are desired in the sense of 'recipient' and 'support'.
Đúng vậy, tuy nhiên, ở những trường hợp như vậy, có hai ý nghĩa vì cả cách định sở (bhūmma) và cách tặng cách (sampadāna) đều được mong muốn.
Tathā hi ‘‘saṅghassa dethā’’ti vattukāmassa sato ‘‘saṅghe dethā’’ti vacanaṃ na virujjhati, yujjatiyeva.
Thus, for one who intends to say ‘‘saṅghassa dethā (give to the Saṅgha),’’ saying ‘‘saṅghe dethā (give in/to the Saṅgha)’’ is not contradictory; it is indeed appropriate.
Thật vậy, đối với người muốn nói “saṅghassa dethā” (hãy dâng cho Tăng đoàn), việc nói “saṅghe dethā” (hãy dâng vào Tăng đoàn) không mâu thuẫn, mà là hợp lý.
Tathā ‘‘saṅghe dethā’’ti vattukāmassapi sato ‘‘saṅghassa dethā’’ti vacanampi na virujjhati, yujjatiyeva, yathā pana alābu lābusaddesu visuṃ visuṃ vijjamānesupi ‘‘lābūni sīdanti silā plavantī’’ti ettha chandānurakkhaṇatthaṃ akāralopo hotīti akkharalopo buddhiyā kariyati.
Similarly, for one who intends to say ‘‘saṅghe dethā (give in/to the Saṅgha),’’ saying ‘‘saṅghassa dethā (give to the Saṅgha)’’ is also not contradictory; it is indeed appropriate. Just as in the words alābu and lābu, even though both exist separately, in ‘‘lābūni sīdanti silā plavantī (gourds sink, rocks float),’’ the elision of the letter a is intellectually performed for the sake of preserving the meter.
Tương tự, đối với người muốn nói “saṅghe dethā”, việc nói “saṅghassa dethā” cũng không mâu thuẫn, mà là hợp lý. Giống như trong các từ “alābu” và “lābu”, mặc dù chúng tồn tại riêng biệt, nhưng trong “lābūni sīdanti silā plavantī” (những quả bầu chìm, những tảng đá nổi), việc bỏ chữ “a” được thực hiện một cách có ý thức để duy trì nhịp điệu.
Tathā ‘‘saṅghe gotami dehī’’tiādīsupi buddhiyā vibhattivipallāsassa parikappanaṃ katvā ‘‘saṅghassā’’ti vipallāsatthamicchanti ācariyā.
Similarly, in ‘‘saṅghe gotami dehi’’ and so forth, the teachers intellectually conceive of a case inversion and desire the inverted meaning of ‘‘saṅghassa.’’
Tương tự, trong “saṅghe gotami dehī” v.v., các vị đạo sư cũng giả định sự hoán đổi cách một cách có ý thức và chấp nhận ý nghĩa hoán đổi thành “saṅghassa”.
Tasmā ‘‘saṅghe gotami dehi.
Therefore, in ‘‘saṅghe gotami dehi (Gotamī, give to the Saṅgha),
Do đó, sự hoán đổi cách là hợp lý trong “saṅghe gotami dehi.
Vessantare varaṃ datvā’’tiādīsu vibhattivipallāso yutto ‘‘tassā kumārikāyā’’tiādīsu pana na yutto, vibhattivipallāso ca nāma yebhuyyena ‘‘neva dānaṃ viramissa’’ntiādīsu gāthāsu icchitabbo.
Vessantare varaṃ datvā (having given a boon to Vessantara),’’ and so forth, case inversion is appropriate. But in ‘‘tassā kumārikāyā (to that maiden),’’ and so forth, it is not appropriate. And case inversion is generally to be desired in verses like ‘‘neva dānaṃ viramissa (nor will the giving cease),’’ and so forth.
Vessantare varaṃ datvā” v.v., nhưng không hợp lý trong “tassā kumārikāyā” v.v. Và sự hoán đổi cách thường được chấp nhận trong các bài kệ như “neva dānaṃ viramissa” v.v.
2149
Tathāpi vadeyya yā sā tumhehi ‘‘tassā methunaṃ dhammaṃ paṭisevatī’’ti pāḷi ābhatā, na sā sattamīpayogā.
Nevertheless, one might say that the Pāḷi passage you brought forth, ‘‘tassā methunaṃ dhammaṃ paṭisevati (engages in sexual misconduct with her),’’ is not in the seventh case usage.
Tuy nhiên, có thể nói rằng câu Pāli mà các vị đã dẫn “tassā methunaṃ dhammaṃ paṭisevatī” không phải là cách thứ bảy.
‘‘Tassā’’ti hi idaṃ chaṭṭhiyantapadaṃ ‘‘tassāmakkaṭiyāaṅgajāte methunaṃ dhammaṃ paṭisevatī’’ti atthasambhavatoti?
For this ‘‘tassā’’ is a sixth case word, because the meaning ‘‘tassā makkaṭiyā aṅgajāte methunaṃ dhammaṃ paṭisevati (engages in sexual misconduct in the private parts of that monkey)’’ is possible. Is that so?
Vì “tassā” này là từ tận cùng bằng cách thứ sáu, có thể hiểu là “tassā makkaṭiyā aṅgajāte methunaṃ dhammaṃ paṭisevatī” (thực hành pháp dâm dục tại bộ phận sinh dục của con khỉ đó) hay sao?
Tanna, aṭṭhakathāyaṃ ‘‘tassāti bhummavacana’’nti vuttattā.
That is not correct, because it is stated in the Aṭṭhakathā that ‘‘tassā’’ is a locative word.
Không phải vậy, vì trong Chú Giải (Aṭṭhakathā) đã nói rằng “tassā” là cách định sở (bhummavacana).
Kiñca bhiyyo – aṭṭhakathāyaṃyeva ‘‘tassā ca sikkhāya sikkhaṃ paripūrento sikkhati, tasmiñca sikkhāpade avītikkamanto sikkhatī’’ti imasmiṃ padese ‘‘tassā’’ti bhummavacanaṃ niddeso katoti.
Furthermore, in the Aṭṭhakathā itself, in the passage ‘‘tassā ca sikkhāya sikkhaṃ paripūrento sikkhati, tasmiñca sikkhāpade avītikkamanto sikkhatī (and perfecting the training by means of that training, he trains; and without transgressing that training rule, he trains),’’ the word ‘‘tassā’’ is designated as a locative word.
Hơn nữa – ngay trong Chú Giải, ở đoạn “tassā ca sikkhāya sikkhaṃ paripūrento sikkhati, tasmiñca sikkhāpade avītikkamanto sikkhatī” (và người đó học tập, hoàn thiện sự học hỏi trong giới luật đó, và học tập không vi phạm giới luật đó), “tassā” được chỉ rõ là cách định sở.
Nanu ca bho tatthāpi ‘‘tassā’’ti idaṃ vibhattivipallāsavasena bhummatthe sāmivacananti?
But dear sir, even there, is not ‘‘tassā’’ in the sense of the possessive case used in a locative sense due to case inversion?
Này các vị, chẳng phải ở đó “tassā” này là cách sở hữu (sāmivacana) mang ý nghĩa định sở do sự hoán đổi cách hay sao?
‘‘Ativiya tvaṃ vibhattivipallāsanaye kusalosi, vibhattivipallāsiko nāmā’’ti bhavaṃ vattabbo.
It should be said to you, "You are very skilled in the method of inflectional change, indeed, you are one who changes inflections."
“Ngươi quả là thiện xảo trong phương pháp hoán chuyển biến cách, ngươi được gọi là người chuyên hoán chuyển biến cách.”
Yo tvaṃ dhammasaṅgāhakattherehi vuttapāḷimpi ullaṅghasi, aṭṭhakathāvacanampi ullaṅghasi, aparampi te niddesapāḷiṃ āharissāma.
You who transgress even the Pali recited by the elders who compiled the Dhamma, and transgress even the words of the Aṭṭhakathā, we will bring you yet another niddesa-Pali (text of explanation).
Ngươi đã vượt qua cả Pāḷi do các vị Trưởng lão kết tập Pháp thuyết giảng, lại còn vượt qua cả lời của Aṭṭhakathā, chúng ta sẽ dẫn thêm Pāḷi trong Niddesa cho ngươi.
Sace tvaṃ paṇḍitajātiko, saññattiṃ gamissasi.
If you are a wise person, you will attain understanding.
Nếu ngươi thuộc dòng dõi bậc trí, ngươi sẽ hiểu ra.
Sace apaṇḍitajātiko, attano gāhaṃ amuñcantoyeva saññattiṃ na gamissati, sāsane cittiṃ katvā suṇohīti.
If you are an unwise person, not letting go of your own stubborn view, you will not attain understanding. Therefore, listen with attention to the teaching.
Nếu ngươi không thuộc dòng dõi bậc trí, ngươi sẽ không hiểu ra, cứ khư khư giữ lấy quan điểm của mình. Hãy thành tâm lắng nghe vì Giáo pháp.
‘‘Tasmā hi sikkhetha idheva jantū’’ti imissā pāḷiyā atthaṃ niddisantena pabhinnapaṭisambhidena satthukappena aggasāvakena dhammasenāpatinā āyasmatā sāriputtena ‘‘idhāti imissā diṭṭhiyā imissā khantiyā imissā ruciyā imasmiṃ ādāye imasmiṃ dhamme’’ti evaṃ ‘‘imissā’’ti padaṃ bhummavacanavasena vuttaṃ.
When explaining the meaning of this Pali, "Therefore, the being should train here itself," the chief disciple, the general of the Dhamma, the venerable Sāriputta, who had attained the analytical knowledges (paṭisambhidā), like the Teacher himself, said the word "imissā" in the sense of the locative case (bhummavacana) as "in this view, in this patience, in this liking, in this taking, in this Dhamma."
Khi chỉ rõ ý nghĩa của câu Pāḷi “Tasmā hi sikkhetha idheva jantū” (Vì vậy, chúng sinh hãy học tập ngay tại đây), Tôn giả Sāriputta, bậc Pháp Tướng quân, bậc Thượng thủ Thanh văn, người đã chứng đắc Vô ngại giải, bậc được ví như Đức Bổn Sư, đã nói rằng: “Idha (tại đây) là trong tà kiến này, trong sự kham nhẫn này, trong sở thích này, trong sự chấp thủ này, trong Pháp này,” và như vậy, từ “imissā” đã được dùng theo nghĩa của sở thuộc cách.
Tañhi ‘‘idhā’’ti padassa atthavācakattā sattamiyā rūpanti viññāyati.
For it is understood that it is a form of the seventh case (sattami) because it denotes the meaning of the word "idhā."
Bởi vì nó là từ diễn đạt ý nghĩa của từ “idhā”, nên được hiểu là hình thức của biến cách thứ bảy.
Iti ‘‘imissā’’ti sattamiyā rūpe diṭṭheyeva ‘‘sabbassā katarissā’’tiādīni sattamiyā rūpāni pāḷiyaṃ anāgatānipi diṭṭhāniyeva nāma.
Thus, once a form of the seventh case like "imissā" is seen, even forms of the seventh case like "sabbassā katarissā" (of all, of which) etc., which do not appear in the Pali, are considered as seen.
Như vậy, khi đã thấy hình thức của biến cách thứ bảy là “imissā”, thì các hình thức của biến cách thứ bảy như “sabbassā katarissā” v.v... dù không xuất hiện trong Pāḷi, cũng được xem như đã thấy.
2150
Aparampi te sabbalokānukampakena sabbaññunā āhaccabhāsitaṃ pāḷiṃ āharissāma, cittiṃ katvā suṇohi, ‘‘aṭṭhānametaṃ bhikkhave anavakāso, yaṃ ekissā lokadhātuyā apubbaṃ acarimaṃ dve arahanto sammāsambuddhā uppajjeyyu’’nti ettha ‘‘ekissā’’ti idaṃ sattamiyā rūpaṃ.
Furthermore, we will bring you Pali spoken directly by the Omniscient One, who had compassion for all the world. Listen with attention: In "It is impossible, O bhikkhus, there is no opportunity for two Arahant Sammāsambuddhas to arise simultaneously in a single world-system," the word "ekissā" is a form of the seventh case.
Ta sẽ dẫn thêm cho ngươi một đoạn Pāḷi được bậc Toàn Giác, người bi mẫn với toàn thể thế gian, trực tiếp thuyết giảng, hãy thành tâm lắng nghe: “Này các Tỳ khưu, điều này không thể xảy ra, không có cơ hội, rằng trong một thế giới giới, có hai vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác xuất hiện, không trước không sau.” Ở đây, “ekissā” là hình thức của biến cách thứ bảy.
Evaṃ ‘‘ekissā’’ti sattamiyā rūpe diṭṭheyeva ‘‘sabbassā katarissā’’tiādīni sattamiyā rūpāni pāḷiyaṃ anāgatānipi diṭṭhāniyeva nāma.
Thus, once a form of the seventh case like "ekissā" is seen, even forms of the seventh case like "sabbassā katarissā" etc., which do not appear in the Pali, are considered as seen.
Như vậy, khi đã thấy hình thức của biến cách thứ bảy là “ekissā”, thì các hình thức của biến cách thứ bảy như “sabbassā katarissā” v.v... dù không xuất hiện trong Pāḷi, cũng được xem như đã thấy.
Na hi sabbathāpi vohārā sarūpato pāḷiādīsu dissanti, ekacce dissanti, ekacce na dissantiyeva.
For not all usages appear in their exact forms in the Pali etc.; some appear, some do not appear at all.
Không phải tất cả các cách dùng đều được thấy rõ về hình thức trong Pāḷi v.v..., một số được thấy, một số hoàn toàn không được thấy.
Atridaṃ vuccati –
Here it is said:
Về điều này, có lời nói rằng –
2151
‘‘Tassā’’iccādayo saddā, ‘‘tāya’’iccādayo viya;
Words like "tassā" etc., like "tāya" etc.;
“Các từ như ‘tassā’, cũng giống như các từ ‘tāya’;
2152
Ñeyyā pañcasu ṭhānesu, tatiyādīsu dhīmatā.
Should be known by the wise in five places, from the third case onwards.
Bậc trí nên hiểu rằng, chúng được dùng trong năm trường hợp, từ biến cách thứ ba trở đi.”
2153
Tiṇṇannaṃ pana dīnaṃ, hoti sabyapadesato;
For the three "nā" etc., there is "sa" by designation;
“Đối với ba từ bắt đầu bằng , do được gọi bằng sa;
2154
‘‘Tassā kassā’’tiādīni, bhavanti tatiyādisu.
"Tassā, kassā" etc., occur in the third case onwards.
Các từ như ‘tassā kassā’ được hình thành trong các biến cách từ thứ ba trở đi.”
2155
Atra panāyaṃ pāḷinayavibhāvanā aṭṭhakathānayavibhāvanā ca – tassā kaññāya saddhiṃ gacchati, tassā kaññāya kataṃ, tassā kaññāya deti, tassā kaññāya apeti, tassā kaññāya ayaṃ kaññā hīnā, tassā kaññāya ayaṃ kaññā adhikā, tassā kaññāya santakaṃ, tassā kaññāya patiṭṭhitanti.
Here, however, this explanation according to the Pali method and the explanation according to the Aṭṭhakathā method are as follows: he goes with that maiden, it was done by that maiden, he gives to that maiden, he goes away from that maiden, this maiden is inferior to that maiden, this maiden is superior to that maiden, it belongs to that maiden, it is established in that maiden.
Ở đây, đây là sự trình bày về phương pháp Pāḷi và phương pháp Aṭṭhakathā – đi cùng với cô gái ấy, được làm bởi cô gái ấy, cho cô gái ấy, rời khỏi cô gái ấy, cô gái này thua kém cô gái ấy, cô gái này hơn hẳn cô gái ấy, sở hữu của cô gái ấy, được thiết lập nơi cô gái ấy.
Dullabhāyaṃ nīti sādhukaṃ cittiṃ katvā pariyāpuṇitabbā sāsanassa ciraṭṭhitatthaṃ.
This Nīti (grammar) is difficult to find; it should be carefully learned with attention for the long-standing of the Sāsana.
Phương pháp này rất hiếm có, cần phải thành tâm học hỏi kỹ lưỡng vì sự trường tồn của Giáo pháp.
Evaṃ sabbathāpi pāḷiaṭṭhakathānayānusārena itthiliṅgassa avisadākāravohāratā ñātabbā.
Thus, in every way, the unclear-form usage of the feminine gender should be known according to the Pali and Aṭṭhakathā methods.
Như vậy, về mọi mặt, cần phải hiểu cách dùng không rõ ràng của giống cái theo phương pháp của Pāḷi và Aṭṭhakathā.
2156
Evaṃ pana ñatvā viññujātinā ‘‘dvinnaṃ gosaddānaṃ rūpamālāvisesena liṅganānattaṃ hotī’’ti niṭṭhametthāvagantabbaṃ.
Having understood this, the wise person should conclude here that "there is a difference in gender for the two words ' go' due to their distinct noun paradigms."
Khi đã hiểu như vậy, người có trí cần phải đi đến kết luận rằng: “Sự khác biệt về giống của hai từ go là do sự khác biệt trong bảng biến cách.”
Gosaddo hi ‘‘puriso mātugāmo orodho āpo satthā’’tiādayo viya na niyogā visadākāravohāro, nāpi ‘‘kaññā ratti itthī’’tiādayo viya niyogā avisadākāravohāro.
For the word " go," like "puriso, mātugāmo, orodho, āpo, satthā" etc., is not necessarily a clear-form usage; nor is it, like "kaññā, ratti, itthī" etc., necessarily an unclear-form usage.
Thật vậy, từ go không nhất thiết là cách dùng rõ ràng như các từ “puriso, mātugāmo, orodho, āpo, satthā” v.v..., và cũng không nhất thiết là cách dùng không rõ ràng như các từ “kaññā, ratti, itthī” v.v...
Tathā hi ayaṃ pulliṅgabhāve dhātusaddo viya visadākāravohāro, itthiliṅgabhāve avisadākāravohāro.
Thus, when it is masculine, it is a clear-form usage like the word " dhātu"; when it is feminine, it is an unclear-form usage.
Bởi vì, khi ở giống đực, từ này có cách dùng rõ ràng như từ dhātu, còn khi ở giống cái, nó có cách dùng không rõ ràng.
Iti imassa atthassa sotūnaṃ ñāpanena paramasaṇhasukhumañāṇappaṭilābhattaṃ ‘‘go, gāvī gāvo.
Therefore, to make this meaning known to listeners and for the attainment of extremely subtle and refined knowledge, a unique noun paradigm for the feminine word " go" ending in 'o' has been stated as "go, gāvī, gāvo.
Do đó, bằng cách làm cho người nghe hiểu rõ ý nghĩa này để đạt được trí tuệ vô cùng tinh tế và vi diệu, bảng danh từ biến cách đặc thù của từ go giống cái, tận cùng bằng nguyên âm o, đã được trình bày qua các hình thức như: “go, gāvī, gāvo.
Gāviṃ, gavo’’tiādinā okārantassa itthiliṅgassa gosaddassa āveṇikā nāmikapadamālā vuttā.
Gāviṃ, gavo" and so on.
Gāviṃ, gavo” v.v...
Ettha pana ‘‘gāvi’’nti ekakkhattumāgataṃ, ‘‘go gohī’’tiādīni dvikkhattuṃ, ‘‘gāvo gāvī gāva’’nti tikkhattuṃ, ‘‘gāviyā’’ti pañcakkhattuṃ, evamettha pañcakkhattuṃ āgatapadānaṃ vasena avisadākāro dissatīti idaṃ itthiliṅganti gahetabbaṃ.
Here, "gāviṃ" occurs once, "go, gohī" etc. occur twice, "gāvo, gāvī, gāva" occur thrice, "gāviyā" occurs five times; thus, because of the words appearing five times, an unclear form is seen, and this should be taken as feminine gender.
Ở đây, “gāvi” xuất hiện một lần, các từ như “go, gohī” xuất hiện hai lần, “gāvo, gāvī, gāva” xuất hiện ba lần, “gāviyā” xuất hiện năm lần. Như vậy, dựa vào các từ xuất hiện năm lần, dạng không rõ ràng được thấy rõ, do đó cần hiểu đây là giống cái.
Imañhi nayaṃ muñcitvā natthi añño nayo yena gosaddo itthiliṅgo siyā.
Indeed, apart from this method, there is no other way by which the word " go" could be feminine.
Ngoài phương pháp này, không có phương pháp nào khác để từ go có thể là giống cái.
Tasmā idameva amhākaṃ mataṃ sārato paccetabbaṃ.
Therefore, this view of ours should be accepted as the essence.
Vì vậy, chính quan điểm này của chúng tôi cần được chấp nhận về mặt cốt lõi.
Pumitthiliṅgasaṅkhātānaṃ dvinnaṃ gosaddānaṃ rūpamālāya nibbisesataṃ vadantānaṃ pana ācariyānaṃ mataṃ pulliṅge vattamānena gosaddeni’tthiliṅge vattamānassa gosaddassa rūpamālāya sadisatte sati mātugāmasaddassa nāmikapadamālāyo samaṃ yojetvā pumitthiliṅgabhāvaparikappanaṃ viya hotīti na sārato paccetabbaṃ.
However, the view of those teachers who assert the lack of distinction in the noun paradigms of the two words " go," masculine and feminine, should not be accepted as essential, as it becomes like supposing a masculine and feminine state by equating and combining the noun paradigms of the word " mātugāma" with the similarity in the noun paradigm of the word " go" when it is masculine, and the word " go" when it is feminine.
Còn quan điểm của các vị ācariya cho rằng bảng biến cách của hai từ go thuộc giống đực và giống cái là không khác biệt, thì không nên chấp nhận về mặt cốt lõi, bởi vì nếu bảng biến cách của từ go chỉ giống cái giống hệt với từ go chỉ giống đực, thì việc phỏng đoán về giống đực và giống cái sẽ giống như việc kết hợp tương đồng các bảng danh từ biến cách của từ mātugāma.
2157
Ettha pana kiñci liṅgasaṃsandanaṃ kathayāma – heṭṭhā niddiṭṭhassa okārantapulliṅgassa gosaddassa nāmikapadamālāyaṃ ‘‘gāvuṃ gāvaṃ gāvenā’’tiādīni ekakkhattumāgatāni, ‘‘go gohī’’tiādīni dvikkhattuṃ, ‘‘gāvo gavo gava’’nti imāni pana ‘‘satthā rājā’’tiādīni viya tikkhattuṃ, catukkhattuṃ vā panettha pañcakkhattuṃ vā āgatapadāni na santi.
Here, we will explain some gender correlation – in the noun paradigm of the previously specified masculine word " go" ending in 'o', "gāvuṃ, gāvaṃ, gāvenā" etc., occur once, "go, gohī" etc., occur twice, but "gāvo, gavo, gava" occur thrice like "satthā, rājā" etc.; however, there are no words here that occur four or five times.
Ở đây, chúng ta hãy nói một chút về sự so sánh các giống – trong bảng danh từ biến cách của từ go giống đực, tận cùng bằng nguyên âm o đã được chỉ ra ở trên, các từ như “gāvuṃ, gāvaṃ, gāvenā” xuất hiện một lần, các từ như “go, gohī” xuất hiện hai lần, còn các từ “gāvo, gavo, gava” thì giống như các từ “satthā, rājā” v.v..., xuất hiện ba lần, nhưng ở đây không có từ nào xuất hiện bốn hoặc năm lần.
Tadabhāvato visadākāro dissati.
Due to their absence, a clear form is seen.
Do sự thiếu vắng đó, dạng rõ ràng được thấy rõ.
Purisasaddassa nāmikapadamālāyampi ‘‘puriso purisa’’ntiādīni ekakkhattumāgatāni, ‘‘purise’’tiādīni dvikkhattuṃ, ‘‘purisā’’ti tikkhattuṃ.
Even in the noun paradigm of the word " purisa," "puriso, purisa" etc., occur once, "purise" etc., occur twice, "purisā" occurs thrice.
Trong bảng danh từ biến cách của từ purisa cũng vậy, các từ như “puriso, purisa” xuất hiện một lần, các từ như “purise” xuất hiện hai lần, “purisā” xuất hiện ba lần.
Evaṃ visadākāro dissati.
Thus, a clear form is seen.
Như vậy, dạng rõ ràng được thấy rõ.
Ākārantitthiliṅgassa pana ‘‘kañña’’ntiādīni ekakkhattumāgatāni, ‘‘kaññāhī’’tiādīni dvikkhattuṃ, ‘‘kaññāyo’’tiādīni tikkhattuṃ, ‘‘kaññā’’ti idaṃ catukkhattuṃ, ‘‘kaññāyā’’ti idaṃ pana pañcakkhattuṃ.
For the feminine word ending in 'ā', "kañña" etc., occur once, "kaññāhī" etc., occur twice, "kaññāyo" etc., occur thrice, "kaññā" occurs four times, and "kaññāyā" occurs five times.
Còn đối với giống cái tận cùng bằng nguyên âm ā, các từ như “kaññaṃ” xuất hiện một lần, các từ như “kaññāhī” xuất hiện hai lần, các từ như “kaññāyo” xuất hiện ba lần, từ “kaññā” xuất hiện bốn lần, còn từ “kaññāya” thì xuất hiện năm lần.
Evaṃ avisadākāro dissati.
Thus, an unclear form is seen.
Như vậy, dạng không rõ ràng được thấy rõ.
Ākārantapulliṅgassatu ‘‘sattharī’’tiādīni ekakkhattumāgatāni, ‘‘satthū’’tiādīni dvikkhattuṃ, ‘‘satthā’’tiādīni tikkhattuṃ, evaṃ visadākāro dissati.
For the masculine word ending in 'ā', "sattharī" etc., occur once, "satthū" etc., occur twice, "satthā" etc., occur thrice. Thus, a clear form is seen.
Còn đối với giống đực tận cùng bằng nguyên âm ā, các từ như “satthari” xuất hiện một lần, các từ như “satthū” xuất hiện hai lần, các từ như “satthā” xuất hiện ba lần, như vậy, dạng rõ ràng được thấy rõ.
Iminā nayena sabbāsupi pumitthiliṅgapadamālāsu visadākāro ca avisadākāro ca veditabbo.
In this way, both the clear form and the unclear form should be understood in all masculine and feminine noun paradigms.
Theo phương pháp này, trong tất cả các bảng biến cách của giống đực và giống cái, cần phải hiểu về dạng rõ ràng và dạng không rõ ràng.
Napuṃsakaliṅgassa pana nāmikapadamālāyaṃ ‘‘cittenā’’tiādīni ekakkhattumāgatāni, ‘‘citta’’ntiādīni dvikkhattuṃ, ‘‘cittānī’’ti idaṃ tikkhattuṃ āgataṃ.
In the noun paradigm of the neuter gender, "cittenā" etc., occur once, "citta" etc., occur twice, "cittānī" occurs thrice.
Còn trong bảng danh từ biến cách của giống trung tính, các từ như “cittena” xuất hiện một lần, các từ như “cittaṃ” xuất hiện hai lần, từ “cittāni” xuất hiện ba lần.
Aṭṭhi āyusaddādīsupi eseva nayo.
The same method applies to words like " aṭṭhi, āyu" etc.
Đối với các từ aṭṭhi, āyu v.v... cũng theo phương pháp này.
Ettha ubhayamuttākāro dissati.
Here, a form that is both (clear and unclear) is seen.
Ở đây, dạng thoát khỏi cả hai (rõ ràng và không rõ ràng) được thấy rõ.
Kiñcāpettha catukkhattuṃ pañcakkhattuṃ vā āgatapadānaṃ abhāvato visadākāro upalabbhamāno viya dissati, tathāpi yasmā ‘‘cittaṃ aṭṭhi āyū’’tiādīni napuṃsakāni ‘‘gacchaṃ aggi bhikkhū’’tiādīnaṃ pulliṅgānaṃ nayena appavattanato visadākārañca, ‘‘ratti yāgū’’tiādīnaṃ itthiliṅgānaṃ nayena appavattanato avisadākārañca ubhayamanupagamma visesato ‘‘cittaṃ, cittāni, cittā.
Although here, due to the absence of words occurring four or five times, a distinct form appears to be found, nevertheless, because neuter words like "cittaṃ, aṭṭhi, āyu," etc., do not function in the manner of masculine words such as "gacchaṃ, aggi, bhikkhu," etc., which would make them distinct, nor do they function in the manner of feminine words such as "ratti, yāgu," etc., which would make them indistinct, but rather, without adopting either of these, they specifically take forms in their own declension table as "cittaṃ, cittāni, cittā.
Mặc dù ở đây, do không có các từ xuất hiện bốn hoặc năm lần, nên dường như một dạng rõ ràng được nhận thấy, tuy nhiên, vì các từ giống trung như ‘‘cittaṃ (tâm), aṭṭhi (xương), āyū (tuổi thọ)’’ và các từ khác không biến cách theo cách của các từ giống đực như ‘‘gacchaṃ (đi), aggi (lửa), bhikkhū (tỳ khưu)’’ và các từ khác (do đó không có dạng rõ ràng), cũng không biến cách theo cách của các từ giống cái như ‘‘ratti (đêm), yāgū (cháo)’’ và các từ khác (do đó không có dạng không rõ ràng), mà đặc biệt, chúng có các dạng trong chuỗi biến cách như ‘‘cittaṃ, cittāni, cittā. Cittaṃ, cittāni, citte’’ và các từ khác, không rơi vào cả hai dạng rõ ràng hay không rõ ràng, cho nên, dạng của chúng cần được hiểu là vượt lên cả hai.
Cittaṃ, cittāni, citte’’tiādinā sa nikārāya rūpamālāya rūpavantāni bhavanti, tasmā tesamākāro ubhayamuttoti daṭṭhabbo.
Cittaṃ, cittāni, citte" and so on. Therefore, their form should be understood as superior to both.
Với các từ như "cittaṃ, cittāni, citte", chúng trở thành những từ có hình thái thông qua một chuỗi các hình thái (ngữ pháp) liên quan. Do đó, nên hiểu rằng hình thái của chúng là cả hai (danh và sắc) là tối thượng.
2158
Tividhopāyaṃ ākāro sakkaṭabhāsāsu na labbhati.
This three-fold method of form is not found in Sanskrit languages.
Dạng ba loại này không có trong tiếng Phạn.
Tenesa sabbesupi byākaraṇasatthesu na vutto.
Therefore, it is not mentioned in any grammar texts.
Vì vậy, nó không được đề cập trong tất cả các sách ngữ pháp.
Sabbasattānaṃ pana mūlabhāsābhūtāya jineritāya māgadhikāya sabhāvaniruttiyā labbhati.
However, it is found in the Magadhan language, which is the fundamental language of all beings, proclaimed by the Victor, by its intrinsic natural expression.
Tuy nhiên, nó được chấp nhận theo ngữ pháp tự nhiên của tiếng Māgadhī, là ngôn ngữ gốc được Đức Phật (Jina) thuyết giảng cho tất cả chúng sanh.
Tathā hi ayaṃ niruttimañjūsāyaṃ vutto –
Indeed, it is stated in the Niruttimañjūsā:
Thật vậy, điều này đã được nói trong Niruttimañjūsā:
2159
Kiṃ panetaṃ liṅgaṃ nāma?
“What then is this called liṅga?
Nhưng cái này gọi là giống (liṅga) là gì?
Keci tāva vadanti –
Some indeed say:
Trước hết, một số người nói rằng:
2160
‘‘Thanakesavatī itthī, massuvā puriso siyā.
‘A woman has breasts and hair; a man has a beard.
“Người nữ thì có ngực và tóc,
Ubhinnamantaraṃ etaṃ, itaro’bhayamuttako’ti
Between the two is this; the other is of both types.’”
Người nam thì có râu.
2161
Vuttattā visiṭṭhā thanakesādayo liṅga’’nti, etaṃ na sabbattha, gaṅgāsālārukkhādīnaṃ thanādinā sambandhābhāvato.
That due to being stated thus, distinct breasts and hair, etc., are liṅga – this is not universally true, because rivers, trees, etc., have no connection to breasts, etc.
Giữa cả hai là giống trung, còn lại là không thuộc giống nào.” Vì đã được nói như vậy, nên các đặc điểm như ngực và tóc là giống (liṅga), nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng, vì sông Hằng, cây sāla, và các loại khác không liên quan đến ngực, v.v.
2162
Apare vadanti – ‘‘na liṅgaṃ nāma paramatthato kiñci atthi, lokasaṅketarūḷho pana vohāro liṅgaṃ nāmā’’ti.
Others say: “There is no such thing as liṅga in ultimate reality; it is merely a conventional usage established by worldly convention.”
Những người khác nói rằng: “Không có giống (liṅga) nào tồn tại theo nghĩa tối hậu (paramattha), nhưng một cách dùng từ thông thường được chấp nhận theo quy ước thế gian thì gọi là giống.”
Idamettha sanniṭṭhānaṃ.
This is the settled view here.
Đây là kết luận ở đây.
Sabbaliṅgikopi saddo hoti taṭaṃ taṭī taṭoti.
The word taṭa (shore) occurs in all liṅgas: taṭaṃ, taṭī, taṭo.
Một từ cũng có thể thuộc tất cả các giống, như taṭaṃ (giống trung), taṭī (giống cái), taṭo (giống đực).
Yadi ca paramatthato liṅgaṃ nāma siyā, kathaṃ aññamaññaviruddhānaṃ tesaṃ ekattha samāveso bhavati, tasmā yassa kassaci atthassa avisadākāravohāro itthiliṅgaṃ, visadākāravohāro pulliṅgaṃ, ubhayamuttākāravohāro napuṃsakaliṅganti veditabbanti.
If liṅga were to exist in ultimate reality, how could those mutually contradictory liṅgas be included in one entity? Therefore, the expression of an indistinct aspect of any object should be understood as feminine liṅga, the expression of a distinct aspect as masculine liṅga, and the expression of both aspects as neuter liṅga.
Nếu giống (liṅga) thực sự tồn tại theo nghĩa tối hậu, thì làm sao những giống đối nghịch nhau đó có thể cùng tồn tại trong một đối tượng? Do đó, cần phải hiểu rằng cách dùng từ chỉ một trạng thái không rõ ràng của bất kỳ đối tượng nào là giống cái (itthiliṅga), cách dùng từ chỉ một trạng thái rõ ràng là giống đực (pulliṅga), và cách dùng từ chỉ một trạng thái không rõ ràng cũng không rõ ràng là giống trung (napuṃsakaliṅga).
2163
Ettha pana nāmikapadamālāsaṅkhātapabandhavaseneva avisadākāravohārāditā gahetabbā, na ekekapadavasena.
Here, the quality of being an indistinct aspect of expression, etc., should be understood based on the entire sequence of nominal forms (nāmikapadamālā), not on individual words.
Tuy nhiên, ở đây, sự không rõ ràng trong cách dùng từ, v.v., phải được hiểu theo nghĩa của một chuỗi từ được gọi là chuỗi từ danh từ (nāmikapadamālā), chứ không phải theo nghĩa của từng từ riêng lẻ.
Tathā hi ‘‘kaññā puriso citta’’nti ca, ‘‘kaññāyo purisā cittānī’’ti ca evamādikassa ekekapadassa avisadākāravohārāditā na dissati.
Indeed, the quality of being an indistinct aspect of expression, etc., is not seen in individual words like “kaññā, puriso, cittaṃ” or “kaññāyo, purisā, cittānī.”
Thật vậy, sự không rõ ràng trong cách dùng từ, v.v., không thể được nhìn thấy trong từng từ riêng lẻ như “kaññā, puriso, cittaṃ” và “kaññāyo, purisā, cittānī” v.v.
Yasmā pana pabandhavasena visadākāravohārādibhāve siddheyeva samudāyāvayavattā ekekapadassapi avisadākāravohārāditā sijjhateva.
However, since the quality of being a distinct aspect of expression, etc., is established based on the entire sequence, the quality of being an indistinct aspect of expression, etc., is also established for each individual word as parts of the whole.
Tuy nhiên, vì trạng thái rõ ràng trong cách dùng từ, v.v., đã được thiết lập theo nghĩa của một chuỗi từ, nên sự không rõ ràng trong cách dùng từ, v.v., của từng từ riêng lẻ cũng được thiết lập như là một phần của tổng thể.
2164
Keci pana nāmikapadamālāsaṅkhātaṃ pabandhaṃ aparāmasitvā ekekapadavaseneva avisadākāravohārādikaṃ icchanti, te vattabbā ‘‘yadi ekekapadasseva avisadākāravohārāditā siyā, evaṃ sante ‘kaññā purisā satthā guṇavā rājā’tiādīnaṃ padānaṃ ākārasutivasena, ‘puriso satthāro kaññāyo’tiādīnaṃ pana okārasutivasena, ‘cittaṃ purisaṃ kañña’ntiādīnaṃ anusārasutivasena aññamaññaṃ samānasutisambhavā kathaṃ avisadākāravohārāditā siyā’’ti?
But some, without considering the sequence of nominal forms, desire the quality of being an indistinct aspect of expression, etc., based on individual words. To them, it should be said: “If the quality of being an indistinct aspect of expression, etc., were solely for individual words, how could there be the quality of being an indistinct aspect of expression, etc., for words like ‘kaññā, purisā, satthā, guṇavā, rājā’ due to their similar sound in the ākāra ending, or for ‘puriso, satthāro, kaññāyo’ due to their similar sound in the o-ending, or for ‘cittaṃ, purisaṃ, kaññaṃ’ due to their similar sound in the anusāra ending, given their mutual similarity in sound?”
Một số người khác, không xem xét chuỗi từ được gọi là chuỗi từ danh từ, lại muốn sự không rõ ràng trong cách dùng từ, v.v., theo nghĩa của từng từ riêng lẻ. Họ nên được hỏi: “Nếu sự không rõ ràng trong cách dùng từ, v.v., chỉ thuộc về từng từ riêng lẻ, thì làm sao có thể có sự không rõ ràng trong cách dùng từ, v.v., khi các từ như ‘kaññā, purisā, satthā, guṇavā, rājā’ có cách phát âm giống nhau (kết thúc bằng ā), và các từ như ‘puriso, satthāro, kaññāyo’ có cách phát âm giống nhau (kết thúc bằng o), và các từ như ‘cittaṃ, purisaṃ, kaññaṃ’ có cách phát âm giống nhau (kết thúc bằng m)?”
Kiñcāpi te evaṃ vadeyyuṃ ‘‘siyā eva, nānattaṃ pana tesaṃ duppaṭivedha’’nti.
Although they might say: “It would be so, but their difference is difficult to discern.”
Mặc dù họ có thể nói: “Có thể có, nhưng sự khác biệt giữa chúng rất khó nhận biết.”
Te vattabbā ‘‘mā tumhe evamavacuttha, dujjānatarampi nibbānaṃ kathanasamatthaṃ puggalaṃ nissāya jānanti, tasmā suṭṭhu upaparikkhitvā vadethā’’ti.
To them, it should be said: “Do not say that. Even Nibbāna, which is more difficult to know, is understood by relying on a person capable of explaining it. Therefore, speak after carefully examining.”
Họ nên được nói: “Đừng nói như vậy. Ngay cả Nibbāna, điều khó hiểu hơn, cũng được biết nhờ một người có khả năng giải thích. Do đó, hãy suy xét kỹ lưỡng rồi hãy nói.”
Evañca pana vatvā tato uttari te pañhaṃ pucchitabbā ‘‘bodhisaddo āyusaddo ca kataraliṅgo’’ti.
Having said this, one should then ask them a further question: “What liṅga are the words bodhi and āyu?”
Và sau khi nói như vậy, họ nên được hỏi thêm một câu hỏi: “Từ bodhi và từ āyu thuộc giống nào?”
Te jānantā evaṃ vakkhanti ‘‘bodhisaddo itthiliṅgo ceva pulliṅgo ca, āyusaddo ca pana napuṃsakaliṅgo ca pulliṅgo cāti dviliṅgā ete saddā’’ti.
Knowing, they will reply: “The word bodhi is both feminine and masculine liṅga, and the word āyu is both neuter and masculine liṅga; these words are of two liṅgas.”
Biết được điều đó, họ sẽ nói: “Từ bodhi là giống cái và giống đực, và từ āyu là giống trung và giống đực; những từ này là hai giống.”
Te vattabbā ‘‘yadi bodhisaddo ca āyusaddo ca dviliṅgā ete saddā, evaṃ sante dvinnaṃ bodhisaddānaṃ ekapadabhāvena vavatthitānaṃ accantasamānasutikānaṃ kathaṃ avisadākāravohāratā ca visadākāravohāratā ca siyā, kathañca pana dvinnaṃ āyusaddānaṃ ekapadabhāvena vavatthitānaṃ accantasamānasutikānaṃ ubhayamuttākāravohāratā ca visadākāravohāratā ca siyā’’ti?
To them, it should be said: “If the words bodhi and āyu are of two liṅgas, how can there be both the quality of being an indistinct aspect of expression and the quality of being a distinct aspect of expression for two words bodhi established as a single word with absolutely identical sound? And how can there be both the quality of being an expression of both aspects and the quality of being a distinct aspect of expression for two words āyu established as a single word with absolutely identical sound?”
Họ nên được hỏi: “Nếu từ bodhi và từ āyu là hai giống, thì làm sao hai từ bodhi được thiết lập như một từ duy nhất, có cách phát âm hoàn toàn giống nhau, lại có thể có sự không rõ ràng trong cách dùng từ và sự rõ ràng trong cách dùng từ? Và làm sao hai từ āyu được thiết lập như một từ duy nhất, có cách phát âm hoàn toàn giống nhau, lại có thể có sự không rõ ràng cũng không rõ ràng trong cách dùng từ và sự rõ ràng trong cách dùng từ?”
Evaṃ vuttā te addhā kiñci uttari apassantā niruttarā bhavissanti.
When spoken to thus, they will surely be speechless, seeing no further reply.
Khi được hỏi như vậy, chắc chắn họ sẽ không thể tìm thấy câu trả lời nào nữa và sẽ trở nên câm nín.
Saddasatthavidū pana saddasatthato nayaṃ gahetvā vadanti –
But those skilled in the science of words, taking the method from grammar, say:
Tuy nhiên, những người thông thạo ngữ pháp, lấy nguyên tắc từ ngữ pháp, nói rằng:
2165
‘‘Ese’sā eta’miti ca,
“That by which ‘eso,’ ‘esā,’ ‘etaṃ’
“Cái này (eso), cái này (esā), cái này (etaṃ),
2166
Pasiddhi atthesu yesu lokassa;
Are commonly known in the world for certain meanings –
Trong những đối tượng mà thế gian đã quen dùng;
2167
‘Thīpumanapuṃsakānī’ti,
Those nouns are called
‘Giống cái, giống đực, giống trung’ –
2168
Vuccante tāni nāmānī’’ti.
‘feminine, masculine, and neuter.’”
Những danh từ đó được gọi như vậy.”
2169
Tesaṃ kira ayamadhippāyo – ‘‘eso puriso, eso mātugāmo, eso rājā, esā itthī, esā latā, etaṃ napuṃsakaṃ, etaṃ citta’’nti evaṃ purisādīsu yesu atthesu lokassa ‘‘eso esā eta’’nti ca pasiddhi hoti, tesu atthesu tāni nāmāni ‘‘pumitthinapuṃsakaliṅgānī’’ti vuccanti, taṃdvārena aññānipīti.
Their intention, it is said, is this: “Just as for men, etc., the world uses ‘eso puriso,’ ‘eso mātugāmo,’ ‘eso rājā’; for women, ‘esā itthī,’ ‘esā latā’; and for neuter, ‘etaṃ napuṃsakaṃ,’ ‘etaṃ cittaṃ’ – in those meanings where these forms are commonly known, those nouns are called ‘masculine, feminine, and neuter liṅgas,’ and by that means, others also.”
Ý nghĩa của họ dường như là: “Người nam này (eso puriso), người nữ này (eso mātugāmo), vua này (eso rājā), người nữ này (esā itthī), dây leo này (esā latā), vật trung tính này (etaṃ napuṃsakaṃ), tâm này (etaṃ cittaṃ)” – trong những đối tượng mà thế gian đã quen dùng “eso, esā, etaṃ”, thì những danh từ đó được gọi là “giống đực, giống cái, giống trung”, và thông qua đó, những danh từ khác cũng vậy.
Evaṃ vadantehi tehi ‘‘iminā nāma ākārena ‘eso esā eta’nti nāmāni aññāni ca pulliṅgādināmaṃ labhantī’’ti ayaṃ viseso na dassito, saddhammanayaññūhi pana neruttikehi dassito ‘‘yassa kassaci atthassa avisadākāravohāro itthiliṅga’’ntiādinā.
By speaking thus, they have not shown this distinction: “By this particular aspect, nouns like ‘eso, esā, etaṃ’ and other nouns acquire masculine liṅga, etc.” This has been shown by grammarians who understand the method of the Dhamma, stating: “The expression of an indistinct aspect of any object is feminine liṅga,” etc.
Những người nói như vậy đã không chỉ ra sự khác biệt này: “Với hình thức này, các danh từ ‘eso, esā, etaṃ’ và các danh từ khác nhận được tên giống đực, v.v.” Nhưng những nhà ngữ pháp thông thạo giáo pháp đã chỉ ra điều đó bằng cách nói: “Cách dùng từ chỉ trạng thái không rõ ràng của bất kỳ đối tượng nào là giống cái,” v.v.
2170
Keci pana ‘‘avisadākārānaṃ atthānaṃ vācako vohāro itthiliṅga’’ntiādīni vadanti, taṃ na gahetabbaṃ.
Some, however, say: “The expression that denotes indistinct objects is feminine liṅga,” etc. That should not be accepted.
Một số người khác nói: “Cách dùng từ biểu thị các đối tượng có trạng thái không rõ ràng là giống cái,” v.v., điều đó không nên chấp nhận.
Yadi hi avisadākārānaṃ atthānaṃ vācako vohāro itthiliṅgaṃ, evaṃ sante mātugāmakalattakantakaṇṭakagumbādayopi vohārā itthiliṅgāni siyuṃ avisadākārattā tadatthānaṃ.
For if the expression that denotes indistinct objects is feminine liṅga, then expressions like mātugāma (woman), kalatta (wife), kanta (beloved), kaṇṭaka (thorn), gumba (bush), etc., would also be feminine liṅgas, because their referents are indistinct.
Thật vậy, nếu cách dùng từ biểu thị các đối tượng có trạng thái không rõ ràng là giống cái, thì các cách dùng từ như “mātugāma” (người nữ), “kalatta” (vợ), “kantaka” (gai), “kaṇṭhagumba” (bụi gai), v.v., cũng sẽ là giống cái, vì các đối tượng của chúng có trạng thái không rõ ràng.
Yadi pana visadākārānaṃ atthānaṃ vācako vohāro pulliṅgaṃ, evaṃ sante ‘‘devatā saddhā ñāṇa’’miccādayopi vohārā pulliṅgāni siyuṃ visadākārattā tadatthānaṃ.
And if the expression that denotes distinct objects is masculine liṅga, then expressions like devatā (deity), saddhā (faith), ñāṇa (knowledge), etc., would also be masculine liṅgas, because their referents are distinct.
Nếu cách dùng từ biểu thị các đối tượng có trạng thái rõ ràng là giống đực, thì các cách dùng từ như “devatā” (chư thiên), “saddhā” (đức tin), “ñāṇa” (trí tuệ), v.v., cũng sẽ là giống đực, vì các đối tượng của chúng có trạng thái rõ ràng.
Atha vā yadi avisadākārānaṃ atthānaṃ vācako vohāro itthiliṅgaṃ, visadākārānaṃ panatthānaṃ vācako vohāro pulliṅgaṃ, evaṃ sante ekassevatthassa ekakkhaṇe dvīhi liṅgehi na vattabbatā siyā –
Alternatively, if the expression that denotes indistinct objects is feminine liṅga, and the expression that denotes distinct objects is masculine liṅga, then the same object could not be referred to by two liṅgas at the same moment, as in:
Hoặc nếu cách dùng từ biểu thị các đối tượng có trạng thái không rõ ràng là giống cái, và cách dùng từ biểu thị các đối tượng có trạng thái rõ ràng là giống đực, thì một đối tượng không thể được nói bằng hai giống trong cùng một khoảnh khắc –
2171
‘‘Atthakāmosi me yakkha, hitakāmāsi devate;
“You, O yakkha, are desirous of my welfare; you, O deity, are desirous of my benefit.
“Hỡi dạ xoa, ngươi là người mong cầu lợi ích cho ta; hỡi chư thiên, ngươi là người mong cầu hạnh phúc cho ta;
2172
Karomi te taṃ vacanaṃ, tvaṃsi ācariyo mamā’’ti.
I will do that word for you; you are my teacher.”
Ta sẽ làm theo lời ngươi, ngươi là bậc thầy của ta.”
2173
Yadi ca ubhayamuttākārānaṃ atthānaṃ vācako vohāro napuṃsakaliṅgaṃ, evaṃ sante ubhayamuttākārānaṃ atthānaṃ tiṇarukkhādīsu ‘‘idaṃ nāmā’’ti niyamābhāvato liṅgavacanaṃ viruddhaṃ siyā.
And if the expression that denotes objects of both aspects is neuter liṅga, then for objects of both aspects, such as grass and trees, where there is no rule stating “this is such and such,” the liṅga usage would be contradictory.
Và nếu cách dùng từ biểu thị các đối tượng có trạng thái không rõ ràng cũng không rõ ràng là giống trung, thì việc xác định giống sẽ mâu thuẫn, vì không có quy tắc “cái này là như vậy” đối với các đối tượng có trạng thái không rõ ràng cũng không rõ ràng như cỏ, cây, v.v.
Apica ‘‘paññāratanaṃ.
Furthermore, for words like “paññāratanaṃ” (jewel of wisdom)
Hơn nữa, nếu nói “paññāratanaṃ” (viên ngọc trí tuệ),
Sāriputtamoggallānaṃ sāvakayuga’’nti ca ādinā napuṃsakaliṅgavacanena tadatthānampi ubhayamuttākāratā vuttā siyā.
and “Sāriputtamoggallānaṃ sāvakayugaṃ” (the pair of disciples Sāriputta and Moggallāna), the neuter liṅga usage would imply that their referents are of both aspects.
“Sāriputtamoggallānaṃ sāvakayugaṃ” (cặp đệ tử Sāriputta và Moggallāna) bằng cách dùng từ giống trung, thì các đối tượng của chúng cũng được nói là có trạng thái không rõ ràng cũng không rõ ràng.
Apica ekampi tīraṃ ‘‘taṭaṃ taṭī taṭo’’ti tīhi liṅgehi na vattabbaṃ siyā.
Moreover, a single bank could not be referred to by three liṅgas as “taṭaṃ, taṭī, taṭo.”
Hơn nữa, một bờ sông không thể được nói bằng ba giống: “taṭaṃ, taṭī, taṭo.”
Ekampi ca ñāṇaṃ ‘‘paññāṇaṃ paññā pajānanā amoho’’tiādinā tīhi liṅgehi na vattabbaṃ siyā, tasmā taṃ nayaṃ aggahetvā yathāvuttoyeva nayo gahetabbo.
And a single knowledge could not be referred to by three liṅgas as “paññāṇaṃ, paññā, pajānanā, amoho,” etc. Therefore, without accepting that method, the method as stated above should be adopted.
Và một trí tuệ không thể được nói bằng ba giống: “paññāṇaṃ, paññā, pajānanā, amoho,” v.v. Do đó, không chấp nhận nguyên tắc đó mà chỉ nên chấp nhận nguyên tắc đã nói ở trên.
2174
Lokasmiñhi itthīnaṃ heṭṭhimakāyo visado hoti, uparimakāyo avisado, uramaṃsaṃ avisadaṃ, gamanādīnipi avisadāni.
In the world, the lower part of a woman’s body is distinct, her upper part is indistinct; her breast-flesh is indistinct, and her movements, etc., are also indistinct.
Trong thế gian, phần dưới cơ thể của phụ nữ rõ ràng, phần trên cơ thể không rõ ràng; ngực không rõ ràng; và các hành động như đi lại cũng không rõ ràng.
Itthiyo hi gacchamānā avisadaṃ gacchanti, tiṭṭhamānā nipajjamānā nisīdamānā khādamānā bhuñjamānā avisadaṃ bhuñjanti.
Indeed, women walk indistinctly, stand, lie down, sit, eat, and partake indistinctly.
Phụ nữ khi đi thì đi một cách không rõ ràng; khi đứng, nằm, ngồi, ăn, uống thì ăn uống một cách không rõ ràng.
Purisampi hi avisadaṃ disvā ‘‘mātugāmo viya gacchati tiṭṭhati nipajjati nisīdati khādati bhuñjatī’’ti vadanti.
Even if a man is seen acting indistinctly, people say: “He walks, stands, lies down, sits, eats, and partakes like a woman.”
Ngay cả khi thấy một người nam hành động không rõ ràng, người ta cũng nói: “Người đó đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống giống như một người nữ.”
Iti yathā itthiyo yebhuyyena avisadākārā, tathā yassa kassaci saviññāṇakassa vā aviññāṇakassa vā atthassa ye vohārā yebhuyyena avisadākārā, teyeva itthiliṅgāni nāma bhavanti.
Thus, just as women are mostly of an indistinct aspect, so too, for any conscious or unconscious object, those expressions that are mostly of an indistinct aspect are called feminine liṅgas.
Như vậy, cũng như phụ nữ thường có các trạng thái không rõ ràng, thì những cách dùng từ nào thường có các trạng thái không rõ ràng đối với bất kỳ đối tượng nào, dù có tri giác hay không có tri giác, thì những cách dùng từ đó chính là giống cái (itthiliṅga).
Taṃ yathā?
Such as?
Ví dụ như thế nào?
‘‘Kaññā devatā dhītalikā dubbā saddhā ratti itthī yāgu vadhū’’ iccevamādīni.
“Kaññā (girl), devatā (deity), dhītalikā (doll), dubbā (grass), saddhā (faith), ratti (night), itthī (woman), yāgu (porridge), vadhū (bride),” etc.
“Kaññā” (thiếu nữ), “devatā” (chư thiên), “dhītalikā” (búp bê), “dubbā” (cỏ), “saddhā” (đức tin), “ratti” (đêm), “itthī” (người nữ), “yāgu” (cháo), “vadhū” (cô dâu), v.v.
Purisānaṃ pana heṭṭhimakāyo avisado hoti, uparimakāyo visado, uramaṃsaṃ visadaṃ, gamanādīnipi visadāni honti.
However, men's lower bodies are indistinct, their upper bodies are distinct, their chest muscles are distinct, and their movements, etc., are also distinct.
Còn đối với đàn ông, phần thân dưới thì không rõ ràng, phần thân trên thì rõ ràng, bắp thịt ngực thì rõ ràng, và các dáng đi đứng cũng rõ ràng.
Purisā hi gacchamānā visadaṃ gacchanti, tiṭṭhamānā nipajjamānā nisīdamānā khādamānā bhuñjamānā visadaṃ bhuñjanti.
Indeed, men walk distinctly when walking, stand distinctly when standing, lie down distinctly when lying down, sit distinctly when sitting, eat distinctly when eating, and enjoy distinctly when enjoying.
Quả thật, đàn ông khi đi thì đi một cách rõ ràng, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, khi uống thì ăn uống một cách rõ ràng.
Itthimpi hi gamanādīni visadāni kurumānaṃ disvā ‘‘puriso viya gacchatī’’tiādīni vadanti.
And even when seeing a woman performing movements, etc., distinctly, people say, "She walks like a man," and so on.
Ngay cả khi thấy một người phụ nữ làm các dáng đi đứng, v.v. một cách rõ ràng, người ta cũng nói: “Cô ấy đi như đàn ông,” v.v.
Iti yathā purisā yebhuyyena visadākārā, tathā yassa kassaci saviññāṇakassa vā aviññāṇakassa vā atthassa ye vohārā yebhuyyena visadākārā, teyeva pulliṅgāni nāma bhavanti.
Thus, just as men generally have distinct characteristics, so too, whatever terms for any sentient or insentient thing that generally have distinct characteristics are called masculine.
Như vậy, cũng như đàn ông phần lớn có những đặc điểm rõ ràng, thì những cách diễn đạt nào của bất kỳ sự vật hữu tri hay vô tri nào mà phần lớn có những đặc điểm rõ ràng, thì đó chính là các danh từ giống đực.
Taṃ yathā?
For example?
Ví dụ như thế nào?
‘‘Puriso mātugāmo orodho āpo rukkho moho satthā’’ iccevamādīni.
Such as "puriso" (man), "mātugāmo" (woman), "orodho" (harem/womenfolk), "āpo" (water), "rukkho" (tree), "moho" (delusion), "satthā" (teacher), and so on.
Các từ như “puriso (người đàn ông), mātugāmo (người phụ nữ), orodho (cung nữ), āpo (nước), rukkho (cây), moho (sự si mê), satthā (bậc Đạo Sư)”, v.v.
Yathā ca pana napuṃsakā ubhayamuttākārā, tathā yassa kassaci saviññāṇakassa vā aviññāṇakassa vā atthassa ye vohārā ubhayamuttākārā, teyeva napuṃsakaliṅgāni nāma bhavanti.
And just as neuter genders have characteristics that are neither (distinct nor indistinct), so too, whatever terms for any sentient or insentient thing that have characteristics that are neither (distinct nor indistinct) are called neuter.
Và cũng như các giống trung tính có những đặc điểm trung gian giữa hai loại, thì những cách diễn đạt nào của bất kỳ sự vật hữu tri hay vô tri nào mà có những đặc điểm trung gian giữa hai loại, thì đó chính là các danh từ giống trung tính.
Taṃ yathā?
For example?
Ví dụ như thế nào?
‘‘Cittaṃ rūpaṃ itthāgāraṃ kalattaṃ nāṭakaṃ ratanaṃ ñāṇaṃ aṭṭhi āyu’’iccevamādīni.
Such as "cittaṃ" (mind), "rūpaṃ" (form), "itthāgāraṃ" (women's quarters), "kalattaṃ" (wife), "nāṭakaṃ" (drama), "ratanaṃ" (jewel), "ñāṇaṃ" (knowledge), "aṭṭhi" (bone), "āyu" (life), and so on.
Các từ như “cittaṃ (tâm), rūpaṃ (sắc), itthāgāraṃ (hậu cung), kalattaṃ (vợ), nāṭakaṃ (vở kịch), ratanaṃ (báu vật), ñāṇaṃ (trí tuệ), aṭṭhi (xương), āyu (tuổi thọ)”, v.v.
Iccevaṃ nāmikānaṃ sabbesampi vohārānaṃ –
Thus, for all nominal terms –
Như vậy, đối với tất cả các cách diễn đạt của danh từ –
2175
Visadāvisadākārā, ākāro’bhayamuttako;
Distinct and indistinct characteristics, and characteristics that are neither;
Đặc điểm rõ ràng, không rõ ràng,
2176
Liṅgassa lakkhaṇaṃ etaṃ, ñeyyaṃ syādippabandhato.
This is the definition of gender, to be known from the sequence of suffixes such as .
Đặc điểm trung gian giữa hai loại; đây là đặc trưng của giống, nên biết từ cách kết nối các từ syā (tức là các hậu tố).
2177
Idaṃ ṭhānaṃ dubbinivijjhaṃ mahāvanagahanaṃ niggumbaṃ nijjaṭaṃ katvā dassitaṃ sādhukaṃ manasi kātabbaṃ.
This point, which has been shown by clearing away a thick, tangled, thorny forest, should be well attended to.
Điểm này là một nơi khó thâm nhập, một khu rừng rậm rạp không bụi rậm, không rối rắm, đã được trình bày rõ ràng, cần phải ghi nhớ kỹ.
Iti sabbesaṃ nāmikapadānaṃ pabandhanissitena avisadākāravohārādibhāvena itthiliṅgādibhāvassa sambhavato dvinnampi gosaddānaṃ pabandhanissitena avisadākāravohārādibhāvena yathāsakaṃ itthiliṅgādibhāvo veditabbo.
Thus, since the feminine gender and so on arise for all nominal words through their connection with terms having indistinct characteristics and so on, in accordance with the context, the respective feminine gender and so on of both words "go" should be understood through their connection with terms having indistinct characteristics and so on, in accordance with the context.
Như vậy, vì sự hiện hữu của giống cái, v.v. đối với tất cả các danh từ có thể xảy ra do những cách diễn đạt có đặc điểm không rõ ràng, v.v. dựa trên sự kết nối, nên sự hiện hữu của giống cái, v.v. đối với hai từ go cũng phải được hiểu theo cách tương ứng, dựa trên những cách diễn đạt có đặc điểm không rõ ràng, v.v. dựa trên sự kết nối.
2178
Savinicchayoyaṃ okārantitthiliṅgassa nāmikapadamālāvibhāgo.
This is the analyzed enumeration of nominal words for feminine words ending in o.
Đây là sự phân loại các chuỗi danh từ giống cái tận cùng bằng o đã được quyết định.
2179
Okārantatāpakatikaṃ okārantitthiliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
The enumeration of feminine words ending in o, which are primarily of the o-ending type, is concluded.
Giống cái tận cùng bằng o có gốc tận cùng bằng o đã hoàn tất.
2180
Evaṃ sabbathāpi ākāranta ivaṇṇanta uvaṇṇa ntokārantavasena chabbidhāni itthiliṅgāni niravasesato gahitāni bhavanti.
Thus, in all respects, the six types of feminine words – ending in ā, ending in i, ending in u, and ending in o – have been exhaustively covered.
Như vậy, tất cả sáu loại giống cái, theo cách tận cùng bằng ā, tận cùng bằng nguyên âm i, tận cùng bằng nguyên âm u, và tận cùng bằng o, đã được thu thập đầy đủ.
Etesu pana kesañci ākārantānaṃ īkārantānañca katthaci paccattekavacanassa ekārādesavasena yo pabhedo dissati, so idāni vuccati.
Among these, the variation seen in some words ending in ā and ī, where the singular nominative case sometimes takes the form of an e-ending, will now be discussed.
Trong số đó, đối với một số từ tận cùng bằng ā và tận cùng bằng ī, sự phân biệt được thấy do sự thay thế hậu tố e cho số ít ở một số trường hợp, điều đó sẽ được nói đến bây giờ.
Tathā hi –
For example –
Ví dụ như –
2181
‘‘Na tvaṃ rādha vijānāsi, aḍḍharatte anāgate;
"You, Rādha, do not know that at midnight, when it has not yet arrived;
“Này Rādhā, con không biết,
2182
Abyayataṃ vilapasi, viratte kosiyāyane’’ti
You lament pointlessly, while Kosiyāyanī is dispassionate."
Khi nửa đêm chưa đến, con than khóc về sự vô thường của Kosiyāyanī đã ly tình.”
2183
Imasmiṃ rādhajātake ‘‘virattā’’ti ākārantavasena vattabbe paccattavacanassa ekārādesavasena ‘‘viratte’’ti vuttaṃ.
In this Rādha Jātaka, where it should have been "virattā" (dispassionate) with an ā-ending, "viratte" (dispassionate) is used, due to the e-ending substitution for the nominative case.
Trong Rādhajātake này, thay vì nói “virattā” theo cách tận cùng bằng ā, thì đã nói “viratte” do sự thay thế hậu tố e cho số ít.
Tathā ‘‘kosiyāyanī’’ti īkārantavasena vattabbe paccattavacanassa ekārādesavasena ‘‘kosiyāyane’’ti vuttaṃ.
Similarly, where it should have been "kosiyāyanī" with an ī-ending, "kosiyāyane" is used, due to the e-ending substitution for the nominative case.
Tương tự, thay vì nói “kosiyāyanī” theo cách tận cùng bằng ī, thì đã nói “kosiyāyane” do sự thay thế hậu tố e cho số ít.
Tena aṭṭhakathācariyo ‘‘viratte kosiyāyaneti mātā no kosiyāyanī brāhmaṇī virattā amhākaṃ pitari nippemā jātā’’ti atthaṃ saṃvaṇṇesi.
Therefore, the Commentary master explained the meaning as: "By viratte kosiyāyane, it means 'our mother, the brāhmaṇī Kosiyāyanī, became dispassionate, devoid of affection for our father'."
Do đó, vị Luận sư Chú giải đã giải thích ý nghĩa rằng: “ viratte kosiyāyane có nghĩa là mẹ của chúng ta, nữ Bà-la-môn Kosiyāyanī, đã ly tình, không còn tình cảm với cha của chúng ta.”
Nanu ca bho pāḷiyaṃ ‘‘viratte’’ti, ‘‘kosiyāyane’’ti ca paccattavacanassa dassanato ‘‘ekārantampi itthiliṅgaṃ atthī’’ti vattabbanti?
But should it not be said, sirs, that since "viratte" and "kosiyāyane" in the Pāli show an e-ending for the nominative case, there is also such a thing as "e-ending feminine words"?
Này quý vị, chẳng phải nên nói rằng “cũng có giống cái tận cùng bằng e” vì trong Pāḷi có “viratte” và “kosiyāyane” là số ít sao?
Na vattabbaṃ ākārīkārantogadharūpavisesattā tesaṃ rūpānaṃ.
It should not be said so, because those forms are specific shapes derived from ā-ending and ī-ending words.
Không nên nói như vậy, vì những hình thái đó là những hình thái đặc biệt có gốc tận cùng bằng āī.
Ādesavasena hi siddhattā visuṃ ekārantaṃ itthiliṅgaṃ nāma natthi, tasmā itthiliṅgānaṃ yathāvuttā chabbidhatāyeva gahetabbā.
Since they are established by way of substitution, there is no separate e-ending feminine word; therefore, the aforementioned six types of feminine words should be adopted.
Vì chúng được tạo thành do sự thay thế, nên không có giống cái tận cùng bằng e riêng biệt; do đó, chỉ nên chấp nhận sáu loại giống cái như đã nói.
2184
Iccevaṃ itthiliṅgānaṃ, pakiṇṇanayasālinī;
Thus, the enumeration of nominal words,
Như vậy, chuỗi danh từ
2185
Padamālā vibhattā me, sāsanatthaṃ sayambhuno.
Containing miscellaneous rules for feminine words, has been analyzed by me for the sake of the Self-Enlightened One's teaching.
Với nhiều cách phân loại của giống cái, đã được tôi phân chia vì lợi ích của giáo pháp của Đấng Tự Tại Giác.
2186
Saddanītisūriyoyaṃ,
This Saccanīti, the sun,
Saddanīti này,
2187
Anekasuvinicchayarasmikalāpo;
With its multitude of rays of many clear determinations,
Với vô số tia sáng của những quyết định đúng đắn,
2188
Saṃsayandhakāranudo,
Dispelling the darkness of doubt,
Xua tan bóng tối của sự nghi ngờ,
2189
Kassa matipadumaṃ na vikāse.
Whose lotus of intellect would it not cause to blossom?
Làm sao mà không khiến hoa sen trí tuệ của ai nở rộ?
2190
Iti navaṅge sāṭṭhakathe piṭakattaye byappathagatīsu viññūnaṃ
*Thus, in the Saddanīti treatise, created for the skill of the discerning in the activities of the nine-membered Pāli canon with commentaries,
Như vậy, trong bộ Saddanīti, được biên soạn nhằm mục đích giúp những người có trí tuệ
2191
Kosallatthāya kate saddanītippakaraṇe
The enumeration of nominal words for feminine gender,
thành thạo trong các cách diễn đạt của Tam Tạng Pāḷi cùng với Chú giải và Cú giải,
2192
Itthiliṅgānaṃ nāmikapadamālāvibhāgo
The eighth chapter.
Phân loại chuỗi danh từ giống cái
2193
Aṭṭhamo paricchedo.
Eighth Chapter.
Là chương thứ tám.
2194

9. Napuṃsakaliṅganāmikapadamālā

9. Enumeration of Nominal Words for Neuter Gender

9. Chuỗi danh từ giống trung tính

2195
Atha pubbācariyamataṃ purecaraṃ katvā niggahītantanapuṃsakaliṅgānaṃ ‘‘bhūtaṃ’’iccādikassa pakatirūpassa nāmikapadamālaṃ vakkhāma –
Now, taking the opinion of previous teachers as a guide, we will explain the enumeration of nominal words for neuter gender words ending in niggahīta, such as "bhūtaṃ."
Bây giờ, dựa trên quan điểm của các vị thầy cổ xưa, chúng tôi sẽ trình bày chuỗi danh từ của hình thái gốc của các từ giống trung tính tận cùng bằng niggahīta, chẳng hạn như “bhūtaṃ” –
2196
Cittaṃ, cittāni.
Cittaṃ, cittāni.
Cittaṃ, cittāni.
Cittaṃ, cittāni.
Cittaṃ, cittāni.
Cittaṃ, cittāni.
Cittena, cittehi, cittebhi.
Cittena, cittehi, cittebhi.
Cittena, cittehi, cittebhi.
Cittassa, cittānaṃ.
Cittassa, cittānaṃ.
Cittassa, cittānaṃ.
Cittā, cittasmā, cittamhā, cittehi, cittebhi.
Cittā, cittasmā, cittamhā, cittehi, cittebhi.
Cittā, cittasmā, cittamhā, cittehi, cittebhi.
Cittassa, cittānaṃ.
Cittassa, cittānaṃ.
Cittassa, cittānaṃ.
Citte, cittasmiṃ, cittamhi, cittesu.
Citte, cittasmiṃ, cittamhi, cittesu.
Citte, cittasmiṃ, cittamhi, cittesu.
Bho citta, bho cittā, bhavanto cittāni.
Bho citta, bho cittā, bhavanto cittāni.
Bho citta, bho cittā, bhavanto cittāni.
Yamakamahātheramataṃ.
The opinion of Yamaka Mahāthera.
Quan điểm của Đại Trưởng lão Yamaka.
2197
Ettha kiñcāpi ‘‘cittā’’ti paccattabahuvacanaṃ ‘‘citte’’ti upayogabahuvacanañca anāgataṃ, tathāpi tattha tattha aññesampi tādisānaṃ niggahītantanapuṃsakarūpānaṃ dassanato vibhaṅgapāḷiyañca ‘‘cha cittā abyākatā’’tiādidassanato gahetabbameva, tasmā ‘‘cittaṃ, cittāni, cittā.
Here, although "cittā" (nominative plural) and "citte" (locative plural) are not present, they should nevertheless be adopted because they are found in other such neuter forms ending in niggahīta, and also because "cha cittā abyākatā" (six minds are undeterminable) and so on are seen in the Vibhaṅga Pāli; therefore, the order "cittaṃ, cittāni, cittā. Cittaṃ, cittāni, citte" should be understood.
Mặc dù ở đây số nhiều chủ cách “cittā” và số nhiều đối cách “citte” không được đề cập, nhưng chúng phải được chấp nhận vì chúng được thấy trong Vibhaṅgapāḷi và các trường hợp tương tự của các từ giống trung tính tận cùng bằng niggahīta khác, chẳng hạn như “cha cittā abyākatā” (sáu tâm vô ký), v.v. Do đó, nên hiểu thứ tự là “cittaṃ, cittāni, cittā. Cittaṃ, cittāni, citte”.
Cittaṃ, cittāni, citte’’ti kamo veditabbo.
The order "cittaṃ, cittāni, cittā. Cittaṃ, cittāni, citte" should be understood.
Cittaṃ, cittāni, citte” là thứ tự cần được hiểu.
Niggahītantānañhi napuṃsakaliṅgānaṃ katthaci okārantapulliṅgānaṃ viya paccattopayogabahuvacanāni bhavanti.
Indeed, for neuter words ending in niggahīta, the nominative and locative plural forms sometimes occur as in masculine words ending in o.
Quả thật, các từ giống trung tính tận cùng bằng niggahīta đôi khi có số nhiều chủ cách và đối cách giống như các từ giống đực tận cùng bằng o.
Tāni ca pulliṅgena vā saliṅgena vā aliṅgena vā saddhiṃ samānādhikaraṇāni hutvā kevalāni vā pāvacane sañcaranti.
These can be found in the teachings either in apposition with a masculine word, or with a word of its own gender, or with a word of no gender, or simply on their own.
Và những từ này có thể xuất hiện trong giáo pháp một mình hoặc kết hợp với các từ giống đực, giống cái hoặc không giống.
Atra ‘‘cattāro satipaṭṭhānā.
Here, "cattāro satipaṭṭhānā (the four foundations of mindfulness).
Ở đây, cần xem xét hàng trăm đoạn Pāḷi như “cattāro satipaṭṭhānā (bốn niệm xứ).
Cattāro sammappadhānā.
Cattāro sammappadhānā (the four right efforts).
Cattāro sammappadhānā (bốn chánh cần).
Sabbe mālā upentimaṃ.
Sabbe mālā upentimaṃ (all garlands reach their end).
Sabbe mālā upentimaṃ (tất cả các vòng hoa đều đến đây).
Yassa ete dhanā atthi.
Yassa ete dhanā atthi (he who has these riches).
Yassa ete dhanā atthi (người nào có những tài sản này).
Cattāro mahābhūtā.
Cattāro mahābhūtā (the four great elements).
Cattāro mahābhūtā (bốn đại).
Tīṇindriyā.
Tīṇindriyā (the three faculties).
Tīṇindriyā (ba căn).
Dve indriyā.
Dve indriyā (the two faculties).
Dve indriyā (hai căn).
Dasindriyā.
Dasindriyā (the ten faculties).
Dasindriyā (mười căn).
Dve mahābhūte nissāya dve mahābhūtā, pañca viññāṇā, caturo aṅge adhiṭṭhāya, semi vammikamatthake, rūpā saddā rasā gandhā.
Dve mahābhūte nissāya dve mahābhūtā (two great elements depending on two great elements), pañca viññāṇā (five consciousnesses), caturo aṅge adhiṭṭhāya (having established four factors), semi vammikamatthake (I lie on the anthill), rūpā saddā rasā gandhā (forms, sounds, tastes, odors).
Dve mahābhūte nissāya dve mahābhūtā (nương vào hai đại, hai đại khác), pañca viññāṇā (năm thức), caturo aṅge adhiṭṭhāya (nương vào bốn chi), semi vammikamatthake (tôi nằm trên đỉnh gò mối), rūpā saddā rasā gandhā (sắc, thanh, hương, vị).
Rūpe ca sadde ca atho rase ca.
Rūpe ca sadde ca atho rase ca (in forms and sounds and also in tastes).
Rūpe ca sadde ca atho rase ca (trong sắc, trong thanh và cả trong vị).
Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇa’’nti evamādayo anekasatā pāḷippadesā daṭṭhabbā.
Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṃ (eye-consciousness arises dependent on the eye and forms)" – hundreds of such Pāli passages should be observed.
Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṃ (nương vào mắt và sắc mà nhãn thức sinh khởi)” và nhiều đoạn khác.
2198
Ettha pana ‘‘satipaṭṭhānā’’tiādīni padāni liṅgavipallāsavasena vuttānīti na gahetabbāni satipaṭṭhānasaddādīnaṃ paṭhamekavacanaṭṭhāne okārantapulliṅgabhāvena ṭhitabhāvassa adassanato.
However, here, terms like "satipaṭṭhānā" and so on should not be taken as examples of gender inversion, because there is no indication that the words "satipaṭṭhāna" and so on appear in the first singular nominative case as masculine words ending in o.
Tuy nhiên, ở đây, các từ “satipaṭṭhānā” và các từ tương tự không nên được hiểu là đã được nói theo cách đổi giống, vì không thấy sự hiện hữu của các từ “satipaṭṭhāna”, v.v. ở dạng giống đực tận cùng bằng o ở vị trí số ít chủ cách.
‘‘Cattāro’’tiādīniyeva pana padāni liṅgavipallāsavasena vuttānīti gahetabbāni niyogā niggahītantehi napuṃsakaliṅgehi satipaṭṭhānasaddādīhi saddhiṃ tesaṃ samānādhikaraṇabhāvassa dassanatoti.
But words like "cattāro" and so on should be taken as examples of gender inversion, because their apposition with neuter words ending in niggahīta, such as "satipaṭṭhāna" and so on, is demonstrably observed.
Chỉ các từ “cattāro”, v.v. mới nên được hiểu là đã được nói theo cách đổi giống, vì thấy sự tương hợp của chúng với các từ giống trung tính tận cùng bằng niggahīta như “satipaṭṭhāna”, v.v. theo quy tắc.
2199
Kecettha vadeyyuṃ – nanu ‘‘satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā’’tiādippayogadassanato satipaṭṭhānasaddādīnaṃ okārantapulliṅgabhāvo labbhati.
Some might argue here – indeed, from the usage such as "satipaṭṭhāno dhammo" (the foundation of mindfulness is a phenomenon), "citto dhammo" (the mind is a phenomenon), "cittā dhammā" (minds are phenomena), the masculine o-ending form of words like "satipaṭṭhāna" and so on is obtained.
Một số người ở đây có thể nói – chẳng phải sự hiện hữu của các từ “satipaṭṭhāna”, v.v. ở dạng giống đực tận cùng bằng o được chấp nhận vì thấy các cách dùng như “satipaṭṭhāno dhammo (pháp niệm xứ), citto dhammo (pháp tâm), cittā dhammā (các pháp tâm)” sao?
Evaṃ sante kasmā tumhehi ‘‘satipaṭṭhānasaddādīnaṃ paṭhamekavacanaṭṭhāne okārantapulliṅgabhāvena ṭhitabhāvassa adassanato’’ti vuttaṃ, kasmā ca ekantato satipaṭṭhānasaddādīnaṃ niggahītantanapuṃsakaliṅgatā anumatā, nanu ‘‘satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā’’tiādidassanato ‘‘cattāro satipaṭṭhānā’’tiādīsupi ‘‘satipaṭṭhānasaddādayo liṅgavipallāsavasena vuttā’’ti vattabbāti?
If that is the case, why was it stated by you that "words like satipaṭṭhāna are not observed in the nominative singular in the masculine gender ending in '-o'"? And why is the neuter gender with a final niggahīta absolutely accepted for words like satipaṭṭhāna? Should it not be said that, seeing examples like "the dhamma is satipaṭṭhāna", "the dhamma is citta", "the dhammas are citta", words like satipaṭṭhāna in "four satipaṭṭhānā" and similar phrases are used by way of gender inversion?
Nếu vậy thì, tại sao quý vị lại nói rằng “không thấy các từ như satipaṭṭhāna tồn tại ở dạng giống đực tận cùng bằng ‘o’ trong vị trí số ít chủ cách”, và tại sao lại tuyệt đối chấp nhận giống trung tận cùng bằng ‘ṃ’ cho các từ như satipaṭṭhāna? Chẳng phải vì thấy các trường hợp như “satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā” mà trong các trường hợp như “cattāro satipaṭṭhānā” cũng nên nói rằng “các từ như satipaṭṭhāna được dùng theo cách đảo giống” sao?
Na vattabbā, kasmāti ce?
It should not be said. Why not?
Không nên nói như vậy. Tại sao ư?
‘‘Satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā’’tiādīsupi satipaṭṭhānacittasaddādīnaṃ liṅgavipallāsavasena anicchitabbato.
Because in "the dhamma is satipaṭṭhāna", "the dhamma is citta", "the dhammas are citta", and similar phrases, words like satipaṭṭhāna and citta should not be taken as gender-inverted.
Bởi vì trong các trường hợp như “satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā” cũng không nên chấp nhận sự đảo giống của các từ như satipaṭṭhānacitta.
Tattha hi pulliṅgena dhammasaddena yojetuṃ dhammissaro bhagavā dhammāpekkhaṃ katvā ‘‘satipaṭṭhāno, citto, cittā’’ti ca abhāsi.
For there, to connect with the masculine word dhamma, the Blessed One, being the lord of dhamma, taking into consideration dhamma, spoke as "satipaṭṭhāno, citto, cittā."
Trong đó, để kết hợp với từ dhamma giống đực, Đức Thế Tôn, vị chủ của các pháp, đã xem xét đến các pháp và nói “satipaṭṭhāno, citto, cittā”.
Kevalā hi satipaṭṭhāna cittasaddādayo okārantapulliṅgabhāvena katthacipi yojitā na santi, niggahītantanapuṃsakabhāvena pana yojitā santi.
Indeed, the words satipaṭṭhāna, citta, etc., standing alone, are never used in the masculine ending in '-o'; however, they are used in the neuter gender with a final niggahīta.
Thật vậy, các từ riêng lẻ như satipaṭṭhāna, citta không hề được dùng ở dạng giống đực tận cùng bằng ‘o’ ở bất cứ đâu, nhưng chúng lại được dùng ở dạng giống trung tận cùng bằng ‘ṃ’.
2200
Tathā hi ‘‘citto gahapatī’’ti etthāpi pulliṅga gahapatisaddaṃ apekkhitvā viññāṇe pavattaṃ cittanāmaṃ paṇṇattivasena puggale āropetvā puggalavācakaṃ katvā ‘‘citto’’ti vuttaṃ.
Similarly, in "Citto, the householder," the term citta, which is found in consciousness, is ascribed to an individual by way of a designation, making it a word referring to an individual, with reference to the masculine word gahapati, and thus it is said "Citto."
Tương tự, trong “citto gahapatī” (gia chủ Citta), cũng là do xem xét đến từ gahapati giống đực, mà danh từ citta (tâm) vốn thuộc về thức, đã được gán cho một cá nhân theo cách chế định, biến thành từ chỉ người, và được nói là “citto”.
Yadi pana viññāṇasaṅkhātaṃ cittamadhippetaṃ siyā, ‘‘citta’’micceva vucceyya.
If, however, the consciousness itself, called citta, were intended, it would simply be said "cittaṃ."
Nếu ý muốn nói đến tâm (citta) là thức, thì chỉ nên nói là “cittaṃ” mà thôi.
Tasmā ‘‘citto gahapati, cittā itthī’’tiādīsu liṅgavipallāso na icchitabbo sāpekkhattā cittasaddādīnaṃ.
Therefore, in phrases like "Citto, the householder," "Cittā, the woman," etc., gender inversion should not be accepted, as words like citta are dependent (on other words).
Do đó, trong các trường hợp như “citto gahapati, cittā itthī” (người nữ Citta), không nên chấp nhận sự đảo giống vì các từ như citta là có sự liên hệ.
Yathā ca ettha, evaṃ ‘‘satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā’’tiādīsupi liṅgavipallāso na icchitabbo.
Just as here, so too in "the dhamma is satipaṭṭhāna", "the dhamma is citta", "the dhammas are citta", and similar phrases, gender inversion should not be accepted.
Cũng như ở đây, trong các trường hợp như “satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā” cũng không nên chấp nhận sự đảo giống.
‘‘Cattāro satipaṭṭhānā’’tiādīsu pana satipaṭṭhānasaddādīnaṃ apekkhitabbāni padāni na santi, yehi te pulliṅgāni siyuṃ, tasmā ‘‘cattāro’’tiādīniyeva padāni parivattetvā ‘‘cattāri, sabbāni, etānī’’ti napuṃsakaliṅgavasena gahetvā ‘‘satipaṭṭhānā, sammappadhānā’’tiādīhi padehi yojetabbāni.
However, in phrases like "four satipaṭṭhānā," there are no words that satipaṭṭhāna and similar terms could refer to, which would make them masculine; therefore, the words "cattāro" and others themselves should be transformed into the neuter gender as "cattāri, sabbāni, etāni" and joined with words like "satipaṭṭhānā, sammappadhānā."
Tuy nhiên, trong các trường hợp như “cattāro satipaṭṭhānā” (bốn niệm xứ), không có các từ cần được liên hệ với các từ satipaṭṭhāna để chúng trở thành giống đực. Do đó, các từ như “cattāro” nên được biến đổi thành giống trung như “cattāri, sabbāni, etāni” và kết hợp với các từ như “satipaṭṭhānā, sammappadhānā”.
Īdisesu ṭhānesu keci aṭṭhakathācariyā nikāralopaṃ icchanti ‘‘yā pubbe bodhisattānaṃ, pallaṅkavaramābhuje, nimittāni padissantī’’ti ettha viya.
In such instances, some Aṭṭhakathā teachers accept the elision of the ni-suffix, as in "the omens that appeared to the Bodhisattas on the excellent seat of enlightenment."
Trong những trường hợp như vậy, một số vị luận sư (Aṭṭhakathācariya) chấp nhận sự lược bỏ âm ni, giống như trong câu “yā pubbe bodhisattānaṃ, pallaṅkavaramābhuje, nimittāni padissantī” (những điềm báo xuất hiện trước đây khi các Bồ Tát ngồi trên tòa bồ đoàn tối thượng).
Adassanañhi lopo, tasmā ‘‘cattāri satipaṭṭhānāni, cattāri sammappadhānāni, sabbāni mālānī’tiādikā yojanā kātabbā.
For elision is non-appearance; therefore, constructions like "cattāri satipaṭṭhānāni, cattāri sammappadhānāni, sabbāni mālānī" should be made.
Vì sự không xuất hiện chính là sự lược bỏ, do đó, nên tạo ra cách kết hợp như “cattāri satipaṭṭhānāni, cattāri sammappadhānāni, sabbāni mālāni”.
2201
Keci pana ‘‘sabbe mālā upenti ma’’nti ettha mālāsaddaṃ itthiliṅganti maññitvā pulliṅgabhūtaṃ sabbesaddaṃ itthiliṅgavasena parivattetvā ‘‘sabbā mālā’’ti atthaṃ kathenti.
Some, however, considering the word mālā to be feminine in "all garlands come to me," transform the masculine word sabbe into the feminine gender and explain the meaning as "all mālā."
Tuy nhiên, một số người lại cho rằng từ mālā trong câu “sabbe mālā upenti maṃ” (tất cả vòng hoa đến với ta) là giống cái, và biến đổi từ sabbe giống đực thành giống cái, giải thích nghĩa là “sabbā mālā” (tất cả các vòng hoa).
Taṃ kiñcāpi yuttataraṃ viya dissati, tathāpi na gahetabbaṃ.
Although that might seem more appropriate, it should not be accepted.
Mặc dù điều đó dường như hợp lý hơn, nhưng không nên chấp nhận.
Na hi so bhagavā liṅgaṃ naññāsi, na ca ‘‘sabbā mālā upenti ma’’nti dve padāni itthiliṅgāni katvā vattuṃ na sakkhi.
For the Blessed One did not fail to know gender, nor was he unable to say "all mālā come to me" making both words feminine.
Vì Đức Thế Tôn không phải là không biết về giống, và Ngài cũng không phải là không thể nói “sabbā mālā upenti maṃ” với cả hai từ đều là giống cái.
Yo evaṃ visadisaliṅgāni padāni uccāresi.
He who uttered words of such disparate genders.
Vậy mà Ngài đã nói những từ có giống không tương đồng.
Jānantoyeva pana bhagavā vattuṃ sakkontoyeva ca ‘‘sabbe mālā upenti ma’’nti visadisaliṅgāni padāni uccāresi, tasmā pulliṅgabhūtaṃ sabbesaddaṃ ‘‘sabbānī’’ti napuṃsakaliṅgavasena parivattetvā vibhaṅgapāḷiyaṃ ‘‘tīṇindriyā’’ti padaṃ viya lutta nikārena napuṃsakaliṅgena mālāsaddena yojetvā ‘‘sabbāni mālānī’’ti attho gahetabbo katthaci ‘‘yassa ete dhanā atthī’’ti ettha viya.
But the Blessed One, knowing and being able to speak, uttered words of disparate genders as "all garlands come to me"; therefore, the masculine word sabbe should be transformed into the neuter gender as "sabbāni" and joined with the word mālā (which is neuter with an elided ni-suffix), similar to the word "tīṇindriyā" in the Vibhaṅgapāḷi, so that the meaning is understood as "sabbāni mālānī", as in "for whom these are wealth" in some places.
Chính vì Đức Thế Tôn biết và có thể nói, mà Ngài vẫn nói những từ có giống không tương đồng “sabbe mālā upenti maṃ”. Do đó, từ sabbe giống đực nên được biến đổi thành giống trung “sabbāni” và kết hợp với từ mālā giống trung bị lược bỏ âm ni, giống như từ “tīṇindriyā” trong Vibhaṅgapāḷi, để hiểu nghĩa là “sabbāni mālāni”, như trong trường hợp “yassa ete dhanā atthī” (người có những tài sản này).
Ettha hi yassa etāni dhanānīti attho.
Here, the meaning is "for whom these are riches."
Ở đây, nghĩa là “yassa etāni dhanāni” (người có những tài sản này).
Idampettha sallakkhitabbaṃ.
This much should be noted here.
Điều này cần được lưu ý ở đây.
Mālāsaddo dviliṅgo itthinapuṃsakavasena.
The word mālā is of two genders, feminine and neuter.
Từ mālā có hai giống: giống cái và giống trung.
Tiṭṭhatu tassitthiliṅgattaṃ suviññeyyattā, napuṃsakatte pana tīṇi mālāni.
Let its feminine gender stand, as it is easily understood; in the neuter gender, however, it is "three garlands."
Hãy tạm gác lại việc nó là giống cái vì điều đó dễ hiểu. Còn khi là giống trung thì là “tīṇi mālāni” (ba vòng hoa).
‘‘Mālehi ca gandhehi ca bhagavato sarīraṃ pūjentī’’tiādayo napuṃsakappayogānipi bahū sandissantīti.
Many neuter usages are also seen, such as "they honored the Blessed One's body with garlands and perfumes."
Nhiều cách dùng giống trung như “mālehi ca gandhehi ca bhagavato sarīraṃ pūjentī” (cúng dường thân Đức Thế Tôn bằng vòng hoa và hương) cũng được thấy.
2202
Yadi pana bho mālasaddo itthinapuṃsakavasena dviliṅgo, ‘‘sabbe mālā upenti ma’’nti ettha mālāsaddassa itthiliṅgabhāvaparikappane ko doso atthīti?
If, Sir, the word mālā is of two genders, feminine and neuter, what fault is there in hypothesizing that the word mālā in "all garlands come to me" is feminine?
Nếu vậy, thưa ngài, nếu từ māla có hai giống là giống cái và giống trung, thì có lỗi gì khi giả định từ mālā trong câu “sabbe mālā upenti maṃ” là giống cái?
Attheva itthiliṅgasaddassa pulliṅgabhūtena sabbanāmikapadena saddhiṃ samānādhikaraṇabhāvassābhāvato, napuṃsakaliṅgassa pana pulliṅgabhūtena sabbanāmikapadena saddhiṃ samānādhikaraṇabhāvassa upalabbhanato.
There is a fault, due to the absence of the feminine word being in apposition with a masculine pronominal word, whereas the neuter gender is found in apposition with a masculine pronominal word.
Có lỗi, vì một từ giống cái không thể cùng chủ cách với một đại từ giống đực, nhưng một từ giống trung lại có thể cùng chủ cách với một đại từ giống đực.
Teneva ca ‘‘ete dhanā’’tiādayo payogā pāvacane bahudhā diṭṭhā.
And for this very reason, usages like "these riches" are frequently seen in the scriptures.
Chính vì vậy mà các cách dùng như “ete dhanā” (những tài sản này) được thấy nhiều trong giáo điển.
Etthāpi pana vadeyyuṃ ‘‘dhanātiādīni vipallāsavasena pulliṅgāniyeva ‘‘ete’’tiādīhi samānādhikaraṇapadehi yojitattā’’ti.
Here too, they might say, "words like dhanā are masculine due to inversion, being joined with appositional words like 'ete'."
Ở đây, họ cũng có thể nói rằng: “các từ như dhanā là giống đực theo cách đảo giống, vì chúng được kết hợp với các từ cùng chủ cách như ete.”
Na, napuṃsakāniyevetāni.
No, these are indeed neuter.
Không, chúng là giống trung.
Yadi hi ‘‘dhanā’’tiādīni pulliṅgāni siyuṃ, katthaci paccattekavacanaṭṭhāne ‘‘eso’’tiādīhi okārantasamānādhikaraṇapadehi yojitā okāranta dhanasaddādayo siyuṃ.
For if words like dhanā were masculine, then in some instances of the nominative singular, words like dhana ending in '-o' would be found joined with appositional words ending in '-o' like 'eso'.
Nếu các từ như “dhanā” là giống đực, thì ở một số nơi trong vị trí số ít chủ cách, các từ như dhana tận cùng bằng ‘o’ sẽ được kết hợp với các từ cùng chủ cách tận cùng bằng ‘o’ như “eso”.
Tathārūpānaṃ abhāvato pana ‘‘dhanā indriyā viññāṇā’’tiādayo saddā napuṃsakaliṅgāniyeva honti.
However, due to the absence of such forms, words like dhanā, indriyā, viññāṇā are indeed neuter.
Tuy nhiên, vì không có những trường hợp như vậy, nên các từ như “dhanā, indriyā, viññāṇā” đều là giống trung.
Ayaṃ nayo paccattabahuvacanaṭṭhāneyeva labbhati.
This method applies only in the nominative plural.
Quy tắc này chỉ được áp dụng trong vị trí số nhiều chủ cách.
Napuṃsakaliṅgāni hi visadākārāni pulliṅgarūpāni viya hutvā pulliṅgehipi saddhiṃ caranti, napuṃsakā viya purisavesadhārino purisehīti niṭṭhametthāvagantabbaṃ.
For neuter words, appearing in various forms like masculine forms, are used together with masculine words, just as men in women's attire are used with men; this conclusion should be understood here.
Thật vậy, các từ giống trung, giống như những người đàn ông giả trang thành phụ nữ, có thể đi cùng với những người đàn ông; các từ giống trung có thể mang hình thức giống đực không rõ ràng và đi cùng với các từ giống đực – điều này cần được hiểu rõ ở đây.
2203
Athāpi te pubbe vuttavacanaṃ puna parivattetvā evaṃ vadeyyuṃ ‘‘citto gahapati, cittā itthī’’tiādīsu cittaṃ etassa atthīti citto, cittaṃ etissā atthīti cittā yathā ‘‘saddho, saddhā’’ti evaṃ assatthīti atthavasena gahetabbato liṅgavipallāso nicchitabbo, ‘‘satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā’’tiādīni pana evarūpassa atthassa aggahetabbato ‘‘satipaṭṭhānaṃ dhammo, cittaṃ dhammo, cittāni dhammā’’ti vattabbe liṅgavipallāsena ‘‘satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā’’tiādi vuttanti liṅgavipallāso icchitabbo’’ti?
Or they might again rephrase their previously stated argument and say this: "In phrases like 'Citto, the householder,' 'Cittā, the woman,' gender inversion should not be accepted, because it should be understood by meaning that 'Citto' means 'he has mind' and 'Cittā' means 'she has mind,' just like 'saddho, saddhā' (faithful). But in phrases like 'the dhamma is satipaṭṭhāna', 'the dhamma is citta', 'the dhammas are citta', because such a meaning cannot be taken, gender inversion should be accepted, as it is said 'the dhamma is satipaṭṭhāna', 'the dhamma is citta', 'the dhammas are citta', instead of 'the dhamma is satipaṭṭhāna', 'the dhamma is citta', 'the dhammas are citta' with gender inversion."
Hoặc họ có thể biến đổi lại lời đã nói trước đó và nói rằng: “Trong các trường hợp như “citto gahapati, cittā itthī”, vì citto có nghĩa là ‘người có tâm này’ (cittaṃ etassa atthīti citto), và cittā có nghĩa là ‘người có tâm này’ (cittaṃ etissā atthīti cittā), giống như saddho (người có đức tin) và saddhā (người nữ có đức tin), nên không nên chấp nhận sự đảo giống vì chúng được hiểu theo nghĩa sở hữu. Tuy nhiên, trong các trường hợp như “satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā”, vì không thể hiểu theo nghĩa như vậy, nên thay vì nói “satipaṭṭhānaṃ dhammo, cittaṃ dhammo, cittāni dhammā”, người ta đã nói “satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā” do sự đảo giống, nên cần chấp nhận sự đảo giống.”
Tanna, ‘‘citto gahapatī’’tiādīsu pana ‘‘satipaṭṭhāno dhammo’’tiādīsu ca cittasatipaṭṭhānasaddādīnaṃ gahapati dhammādīnaṃ apekkhanavasena niccaṃ pulliṅgabhāvassa icchitattā.
That is not correct, because in "Citto, the householder," and similar phrases, and in "the dhamma is satipaṭṭhāna," and similar phrases, the constant masculine gender of words like citta and satipaṭṭhāna is desired due to their dependence on gahapati and dhamma, etc.
Điều đó không đúng, vì trong các trường hợp như “citto gahapatī” và “satipaṭṭhāno dhammo”, các từ như cittasatipaṭṭhāna luôn được chấp nhận là giống đực do sự liên hệ với gahapatidhammā.
2204
Tathā hi ekantanapuṃsakaliṅgopi puññasaddo abhisaṅkhārāpekkhanavasena ‘‘puñño abhisaṅkhāro’’ti pulliṅgo jāto, tathā ekantanapuṃsakaliṅgāpi paduma maṅgalasaddādayo aññassatthassāpekkhanavasena ‘‘padumo bhagavā, padumā devī, maṅgalo bhagavā, maṅgalā itthī’’ti ca pumitthiliṅgā jātā.
Thus, even the word puñña, which is exclusively neuter, becomes masculine as "puñño abhisaṅkhāro" by referring to abhisaṅkhāra; similarly, words like paduma and maṅgala, which are exclusively neuter, become masculine and feminine as "padumo bhagavā, padumā devī, maṅgalo bhagavā, maṅgalā itthī" by referring to another object.
Thật vậy, từ puñña (phước) vốn tuyệt đối là giống trung, nhưng do liên hệ với abhisaṅkhāra (hành), nó trở thành giống đực: “puñño abhisaṅkhāro” (phước hành). Tương tự, các từ paduma (hoa sen) và maṅgala (điềm lành) vốn tuyệt đối là giống trung, nhưng do liên hệ với ý nghĩa khác, chúng trở thành giống đực và giống cái: “padumo bhagavā” (Đức Thế Tôn Paduma), “padumā devī” (Nữ thần Paduma), “maṅgalo bhagavā” (Đức Thế Tôn Maṅgala), và “maṅgalā itthī” (người nữ Maṅgalā).
Ekantapulliṅgāpi hatthivisesavācakā kālāvaka gaṅgeyyasaddādayo kulāpekkhanavasena ‘‘kālāvakañca gaṅgeyya’’ntiādinā napuṃsakaliṅgā jātā.
Even words that are exclusively masculine, denoting particular elephants, such as kālāvaka and gaṅgeyya, became neuter gender by referring to kula (family/clan), as in "kālāvakañca gaṅgeyya" and so forth.
Ngay cả các từ giống đực tuyệt đối như “kālāvaka” và “gaṅgeyya” dùng để chỉ các loại voi đặc biệt, cũng đã trở thành giống trung tính như “kālāvakañca gaṅgeyya” theo cách ám chỉ đến kulā (gia đình/loài).
Tadapekkhanavasena hi aṭṭhakathāyaṃ ‘‘kālāvako ca gaṅgeyyo’’tiādi pulliṅganiddeso dissati.
Indeed, by referring directly to them, masculine gender designations such as "kālāvako ca gaṅgeyyo" are seen in the Commentary.
Quả thật, trong Chú giải, sự chỉ định giống đực như “kālāvako ca gaṅgeyyo” được thấy theo cách ám chỉ đó.
Evaṃ taṃtadatthānamapekkhanavasena taṃtaṃpakatiliṅgaṃ nāsetvā aparaṃ liṅgaṃ patiṭṭhāpetvā niddeso dissati, na ca tāni sabbānipi liṅgāni taddhitavasena aññaliṅgāni jātāni, atha kho gahapatidhammādīnaṃ apekkhanavaseneva aññaliṅgāni jātāni, tasmā ‘‘petāni bhoti puttāni, khādamānā tuvaṃ pure.
In this way, by referring to various meanings, designations are seen which, having set aside the respective original gender, establish another gender. And not all those genders became other genders by means of taddhita (derivational suffixes); rather, they became other genders merely by referring to gahapatidhamma (the household life's duties) and so forth. Therefore, the gender inversion should be desired only in passages like "petāni bhoti puttāni, khādamānā tuvaṃ pure.
Như vậy, tùy theo sự mong đợi của từng ý nghĩa, sau khi loại bỏ giống tự nhiên của từng từ, một giống khác được thiết lập và trình bày. Không phải tất cả các giống đó đều trở thành giống khác do taddhita, mà là do sự mong đợi của các từ như gahapatidhammā (pháp của gia chủ) v.v. Do đó, trong các câu như ‘‘hỡi con, những người đã chết, xưa kia ngươi đã ăn.
Siviputtāni cavhaya.
Siviputtāni cavhaya.
Hãy gọi con trai của vua Sivi.
Evaṃ dhammāni sutvāna, vippasīdanti paṇḍitā’’tiādīsuyeva liṅgavipallāso icchitabbo anaññāpekkhakattā vutta dhammasaddādīnaṃ, na pana ‘‘citto gahapati, cittā itthī, satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā’’tiādīsu cittasaddādīnaṃ vipallāso icchitabbo gahapati dhammādīnaṃ apekkhakattā tesanti niṭṭhametthāvagantabbaṃ, idañca ekaccānaṃ sammohaṭṭhānaṃ, tasmā saddhammaṭṭhitiyā ayaṃ nīti saddhāsampannehi kulaputtehi sādhukaṃ manasi kātabbā.
Evaṃ dhammāni sutvāna, vippasīdanti paṇḍitā" because the mentioned words such as dhamma do not refer to anything else; but the inversion of words like citta in "citto gahapati, cittā itthī, satipaṭṭhāno dhammo, citto dhammo, cittā dhammā" should not be desired, because they refer to gahapati, dhammā, and so forth—this is the conclusion to be understood here. This is also a point of confusion for some, therefore this method, for the stability of the True Dhamma, should be well-heeded by young men of faith.
Các bậc hiền trí lắng nghe những pháp như vậy và trở nên thanh tịnh” thì sự đảo giống chỉ được chấp nhận đối với các từ như dhamma đã nói trên vì chúng không phụ thuộc vào từ khác, chứ không phải đối với các từ như citta trong các câu như “citta là gia chủ, citta là phụ nữ, satipaṭṭhāna là pháp, citta là pháp, citta là các pháp” vì chúng phụ thuộc vào gahapati dhammā (pháp của gia chủ) v.v. Đây là điều cần được hiểu rõ. Đây là điểm gây nhầm lẫn cho một số người, vì vậy quy tắc này cần được các thiện nam tử có đức tin ghi nhớ kỹ để duy trì Chánh Pháp.
2205
Badaratitthavihāravāsī ācariyadhammapālo pana ‘‘aparimāṇā padā aparimāṇā akkharā aparimāṇā byañjanāti pāḷippadese ‘padā akkharā byañjanā’ti liṅgavipallāso katoti daṭṭhabba’’nti āha.
However, Acariya Dhammapāla, residing in Badaratittha Vihāra, said: "It should be seen that in the Pāḷi passage 'padā akkharā byañjanā' regarding 'aparimāṇā padā aparimāṇā akkharā aparimāṇā byañjanā' (immeasurable words, immeasurable syllables, immeasurable consonants), a gender inversion has been made."
Tuy nhiên, Ācariya Dhammapāla, trú tại tu viện Badaratittha, nói: “Trong đoạn Pāḷi ‘aparimāṇā padā aparimāṇā akkharā aparimāṇā byañjanā’ (vô lượng từ, vô lượng chữ, vô lượng phụ âm), cần hiểu rằng đã có sự đảo giống của các từ ‘padā akkharā byañjanā’”.
Etthāpi mayaṃ ‘‘padā’’ti idaṃ ‘‘indriyā rūpā’’tiādīni viya napuṃsakaliṅgamevāti vadāma okārantavasena paṭhamekavacanantabhāvābhāvato, itaradvayaṃ pana napuṃsakaliṅgantipi pulliṅgantipi gahetabbaṃ niggahīta ntokārantavasena paṭhamekavacanantabhāvassūpalabbhanato.
Here too, we say that "padā" is neuter gender, like "indriyā rūpā" and so forth, due to the absence of its being a first-case singular ending in o; the other two, however, can be taken as either neuter or masculine, due to the presence of their being first-case singular endings ending in o with a niggahīta.
Ở đây, chúng tôi cũng nói rằng từ “padā” này là giống trung tính, giống như “indriyā rūpā” v.v., vì không có hình thái số ít cách thứ nhất tận cùng bằng okāra. Còn hai từ kia có thể được lấy là giống trung tính hoặc giống đực, vì có thể tìm thấy hình thái số ít cách thứ nhất tận cùng bằng niggahīta và okāra.
Tathā hi ‘‘puttāni latāni pabbatāni dhammānī’’tiādīnaṃyeva liṅgavipallāsāni icchitabbāni niggahītantavasena paṭhamekavacanantatāya anupaladdhito, tesa ñcokāra ntākārantavasena paṭhamekavacanantatādassanato.
Thus, gender inversions are to be desired only for "puttāni latāni pabbatāni dhammāni" and so forth, due to the absence of their being first-case singular endings ending in niggahīta, and because they are seen as first-case singular endings in o and ā.
Thật vậy, chỉ những từ như “puttāni latāni pabbatāni dhammāni” v.v. mới được chấp nhận là đảo giống, vì không tìm thấy hình thái số ít cách thứ nhất tận cùng bằng niggahīta, và vì thấy hình thái số ít cách thứ nhất tận cùng bằng okāra và ākāra của chúng.
‘‘Jarādhammaṃ mā jīrī’’ti idaṃ pana aññapadatthavasena napuṃsakaṃ jātanti daṭṭhabbaṃ.
However, "Jarādhammaṃ mā jīrī" should be understood as having become neuter by means of a compound sense (aññapadattha).
Tuy nhiên, từ “jarādhammaṃ mā jīrī” này cần được hiểu là đã trở thành giống trung tính theo nghĩa của một từ khác.
2206
Bhūtaṃ, bhūtāni, bhūtā.
Bhūtaṃ, bhūtāni, bhūtā.
Bhūtaṃ, bhūtāni, bhūtā.
Bhūtaṃ, bhūtāni, bhūte.
Bhūtaṃ, bhūtāni, bhūte.
Bhūtaṃ, bhūtāni, bhūte.
Bhūtena, bhūtehi, bhūtebhi.
Bhūtena, bhūtehi, bhūtebhi.
Bhūtena, bhūtehi, bhūtebhi.
Bhūtassa, bhūtānaṃ.
Bhūtassa, bhūtānaṃ.
Bhūtassa, bhūtānaṃ.
Bhūtā, bhūtasmā, bhūtamhā, bhūtehi, bhūtebhi.
Bhūtā, bhūtasmā, bhūtamhā, bhūtehi, bhūtebhi.
Bhūtā, bhūtasmā, bhūtamhā, bhūtehi, bhūtebhi.
Bhūtassa, bhūtānaṃ.
Bhūtassa, bhūtānaṃ.
Bhūtassa, bhūtānaṃ.
Bhūte, bhūtasmiṃ, bhūtamhi, bhūtesu.
Bhūte, bhūtasmiṃ, bhūtamhi, bhūtesu.
Bhūte, bhūtasmiṃ, bhūtamhi, bhūtesu.
Bho bhūta, bhavanto bhūtāni, bhavanto bhūtā.
Bho bhūta, bhavanto bhūtāni, bhavanto bhūtā.
Bho bhūta, bhavanto bhūtāni, bhavanto bhūtā.
Evaṃ cittanayena nāmikapadamālā bhavati.
In this way, the declension of nouns follows the pattern of citta.
Như vậy, chuỗi từ danh từ được hình thành theo cách của citta.
2207
Iminā nayena ‘‘mahābhūtaṃ bhavittaṃ bhūnaṃ bhavana’’miccādīnaṃ bhūdhātumayānaṃ niggahītantapadānaṃ aññesañca ‘‘vatta’’miccādīnaṃ niggahītantapadānaṃ nāmikapadamālā veditabbā.
In this way, the declension of niggahīta-ending words derived from the root bhū, such as "mahābhūtaṃ, bhavittaṃ, bhūnaṃ, bhavanaṃ," and other niggahīta-ending words, such as "vattaṃ," should be known.
Theo cách này, chuỗi từ danh từ của các từ tận cùng bằng niggahīta có gốc bhū như “mahābhūtaṃ bhavittaṃ bhūnaṃ bhavanaṃ” v.v. và các từ tận cùng bằng niggahīta khác như “vattaṃ” v.v. cần được biết.
2208
Vattaṃ rūpaṃ sotaṃ ghānaṃ, dukkhaṃ pupphaṃ jhānaṃ ñāṇaṃ;
Vattaṃ, rūpaṃ, sotaṃ, ghānaṃ, dukkhaṃ, pupphaṃ, jhānaṃ, ñāṇaṃ;
Vattaṃ, rūpaṃ, sotaṃ, ghānaṃ, dukkhaṃ, pupphaṃ, jhānaṃ, ñāṇaṃ;
2209
Dānaṃ sīlaṃ puññaṃ pāpaṃ, vajjaṃ saccaṃ yānaṃ chattaṃ.
Dānaṃ, sīlaṃ, puññaṃ, pāpaṃ, vajjaṃ, saccaṃ, yānaṃ, chattaṃ.
Dānaṃ, sīlaṃ, puññaṃ, pāpaṃ, vajjaṃ, saccaṃ, yānaṃ, chattaṃ.
2210
Sakaṭaṃ kanakaṃ tagaraṃ nagaraṃ, taraṇaṃ caraṇaṃ dharaṇaṃ maraṇaṃ;
Sakaṭaṃ, kanakaṃ, tagaraṃ, nagaraṃ, taraṇaṃ, caraṇaṃ, dharaṇaṃ, maraṇaṃ;
Sakaṭaṃ, kanakaṃ, tagaraṃ, nagaraṃ, taraṇaṃ, caraṇaṃ, dharaṇaṃ, maraṇaṃ;
2211
Nayanaṃ vadanaṃ karaṇaṃ lavanaṃ, vasanaṃ pavanaṃ bhavanaṃ gaganaṃ.
Nayanaṃ, vadanaṃ, karaṇaṃ, lavanaṃ, vasanaṃ, pavanaṃ, bhavanaṃ, gaganaṃ.
Nayanaṃ, vadanaṃ, karaṇaṃ, lavanaṃ, vasanaṃ, pavanaṃ, bhavanaṃ, gaganaṃ.
2212
Amataṃ puḷinaṃ mālaṃ, āsanaṃ savanaṃ mukhaṃ;
Amataṃ, puḷinaṃ, mālaṃ, āsanaṃ, savanaṃ, mukhaṃ;
Amataṃ, puḷinaṃ, mālaṃ, āsanaṃ, savanaṃ, mukhaṃ;
2213
Padumaṃ uppalaṃ vassaṃ, locanaṃ sādhanaṃ sukhaṃ.
Padumaṃ, uppalaṃ, vassaṃ, locanaṃ, sādhanaṃ, sukhaṃ.
Padumaṃ, uppalaṃ, vassaṃ, locanaṃ, sādhanaṃ, sukhaṃ.
2214
Tāṇaṃ mūlaṃ dhanaṃ kūlaṃ, maṅgalaṃ naḷinaṃ phalaṃ;
Tāṇaṃ, mūlaṃ, dhanaṃ, kūlaṃ, maṅgalaṃ, naḷinaṃ, phalaṃ;
Tāṇaṃ, mūlaṃ, dhanaṃ, kūlaṃ, maṅgalaṃ, naḷinaṃ, phalaṃ;
2215
Hiraññaṃ ambujaṃ dhaññaṃ, jālaṃ liṅgaṃ padaṃ jalaṃ.
Hiraññaṃ, ambujaṃ, dhaññaṃ, jālaṃ, liṅgaṃ, padaṃ, jalaṃ.
Hiraññaṃ, ambujaṃ, dhaññaṃ, jālaṃ, liṅgaṃ, padaṃ, jalaṃ.
2216
Aṅgaṃ paṇṇaṃ susānaṃ saṃ, āvudhaṃ hadayaṃ vanaṃ;
Aṅgaṃ, paṇṇaṃ, susānaṃ, saṃ, āvudhaṃ, hadayaṃ, vanaṃ;
Aṅgaṃ, paṇṇaṃ, susānaṃ, saṃ, āvudhaṃ, hadayaṃ, vanaṃ;
2217
Sopānaṃ cīvaraṃ pāṇaṃ, alātaṃ indriyaṃ kulaṃ.
Sopānaṃ, cīvaraṃ, pāṇaṃ, alātaṃ, indriyaṃ, kulaṃ.
Sopānaṃ, cīvaraṃ, pāṇaṃ, alātaṃ, indriyaṃ, kulaṃ.
2218
Lohaṃ kaṇaṃ balaṃ pīṭhaṃ, aṇḍaṃ ārammaṇaṃ puraṃ;
Lohaṃ, kaṇaṃ, balaṃ, pīṭhaṃ, aṇḍaṃ, ārammaṇaṃ, puraṃ;
Lohaṃ, kaṇaṃ, balaṃ, pīṭhaṃ, aṇḍaṃ, ārammaṇaṃ, puraṃ;
2219
Araññaṃ tīramassattha-miccādīni samuddhare.
Araññaṃ, tīram, assattha—and so forth should be gathered.
Araññaṃ, tīramassattha v.v. cần được lấy ra.
2220
Imāni cittasaddena sabbathāpi sadisāni, imāni pana visadisāni.
These are in every way similar to the word citta. These, however, are dissimilar.
Những từ này hoàn toàn giống với từ citta, nhưng những từ này thì khác.
Seyyathidaṃ –
Namely –
Cụ thể là –
2221
‘‘Cammaṃ vesma’’ntiādīni, ekadhāyeva bhijjare;
"Cammaṃ, vesma," and so forth, are inflected in one way;
“Cammaṃ, vesma” v.v. chỉ biến cách theo một cách;
2222
‘‘Kammaṃ thāmaṃ guṇava’’nti-ādīni tu anekadhā.
"Kammaṃ, thāmaṃ, guṇavaṃ," and so forth, are inflected in various ways.
Còn “kammaṃ, thāmaṃ, guṇavaṃ” v.v. thì biến cách theo nhiều cách.
2223
Kathaṃ?
How?
Như thế nào?
2224
Camme, cammasmiṃ, cammamhi, cammani, vesme, vesmasmiṃ, vesmamhi, vesmani, ghamme, ghammasmiṃ, ghammamhi, ghammani.
Camme, cammasmiṃ, cammamhi, cammani; vesme, vesmasmiṃ, vesmamhi, vesmani; ghamme, ghammasmiṃ, ghammamhi, ghammani.
Camme, cammasmiṃ, cammamhi, cammani, vesme, vesmasmiṃ, vesmamhi, vesmani, ghamme, ghammasmiṃ, ghammamhi, ghammani.
Evaṃ aññānipi yojetabbāni.
In this way, other words should also be inflected.
Như vậy, các từ khác cũng cần được ghép nối.
2225
Kammaṃ, kammāni, kammā.
Kammaṃ, kammāni, kammā.
Kammaṃ, kammāni, kammā.
Kammaṃ, kammāni, kamme.
Kammaṃ, kammāni, kamme.
Kammaṃ, kammāni, kamme.
Kammena, kammunā, kammanā, kammehi, kammebhi.
Kammena, kammunā, kammanā, kammehi, kammebhi.
Kammena, kammunā, kammanā, kammehi, kammebhi.
Kammassa, kammuno, kammānaṃ.
Kammassa, kammuno, kammānaṃ.
Kammassa, kammuno, kammānaṃ.
Kammasmā, kammamhā, kammunā, kammehi, kammebhi.
Kammasmā, kammamhā, kammunā, kammehi, kammebhi.
Kammasmā, kammamhā, kammunā, kammehi, kammebhi.
Kammassa, kammuno, kammānaṃ.
Kammassa, kammuno, kammānaṃ.
Kammassa, kammuno, kammānaṃ.
Kamme, kammasmiṃ, kammamhi, kammani, kammesu.
Kamme, kammasmiṃ, kammamhi, kammani, kammesu.
Kamme, kammasmiṃ, kammamhi, kammani, kammesu.
Bho kamma, bhavanto kammāni, bhavanto kammā.
Bho kamma, bhavanto kammāni, bhavanto kammā.
Bho kamma, bhavanto kammāni, bhavanto kammā.
2226
Thāmasaddassa pana tatiyekavacanaṭṭhānādīsu ‘‘thāmena, thāmunā, thāmassa, thāmuno’’ti ca, ‘‘thāmā, thāmasmā, thāmamhā, thāmunā’’ti ca yojetabbaṃ.
For the word thāma, in the third singular case and so forth, it should be inflected as "thāmena, thāmunā, thāmassa, thāmuno" and also as "thāmā, thāmasmā, thāmamhā, thāmunā."
Đối với từ thāma, tại vị trí số ít cách ba v.v. cần ghép nối là “thāmena, thāmunā, thāmassa, thāmuno” và “thāmā, thāmasmā, thāmamhā, thāmunā”.
2227
Vantu mantu imantupaccayavataṃ pana niggahītantasaddānaṃ ‘‘guṇavaṃ cittaṃ, rucimaṃ pupphaṃ, pāpimaṃ kulaṃ’’ iccādipayogavasena –
However, for niggahīta-ending words with the suffixes vantu, mantu, imantu, when used as in "guṇavaṃ cittaṃ, rucimaṃ pupphaṃ, pāpimaṃ kulaṃ," the inflection is as follows –
Còn đối với các từ tận cùng bằng niggahīta có hậu tố vantu, mantu, imantu, theo cách sử dụng như “guṇavaṃ cittaṃ, rucimaṃ pupphaṃ, pāpimaṃ kulaṃ” v.v. –
2228
Guṇavaṃ, guṇavantāni, guṇavantā, guṇavanti.
Guṇavaṃ, guṇavantāni, guṇavantā, guṇavanti.
Guṇavaṃ, guṇavantāni, guṇavantā, guṇavanti.
Guṇavantaṃ, guṇavantāni, guṇavante guṇavanti.
Guṇavantaṃ, guṇavantāni, guṇavante, guṇavanti.
Guṇavantaṃ, guṇavantāni, guṇavante guṇavanti.
Guṇavatā, guṇavantena, guṇavantehi, guṇavantebhi.
Guṇavatā, guṇavantena, guṇavantehi, guṇavantebhi.
Guṇavatā, guṇavantena, guṇavantehi, guṇavantebhi.
Guṇavato, guṇavantassa, guṇavataṃ, guṇavantānaṃ.
Guṇavato, guṇavantassa, guṇavataṃ, guṇavantānaṃ.
Guṇavato, guṇavantassa, guṇavataṃ, guṇavantānaṃ.
Guṇavatā, guṇavantā, guṇavantasmā, guṇavantamhā, guṇavantehi, guṇavantebhi.
Guṇavatā, guṇavantā, guṇavantasmā, guṇavantamhā, guṇavantehi, guṇavantebhi.
Guṇavatā, guṇavantā, guṇavantasmā, guṇavantamhā, guṇavantehi, guṇavantebhi.
Guṇavato, guṇavantassa, guṇavataṃ, guṇavantānaṃ.
Guṇavato, guṇavantassa, guṇavataṃ, guṇavantānaṃ.
Guṇavato, guṇavantassa, guṇavataṃ, guṇavantānaṃ.
Guṇavati, guṇavante, guṇavantasmiṃ, guṇavantamhi, guṇavantesu.
Guṇavati, guṇavante, guṇavantasmiṃ, guṇavantamhi, guṇavantesu.
Guṇavati, guṇavante, guṇavantasmiṃ, guṇavantamhi, guṇavantesu.
Bho guṇava, bhavanto guṇavantāni, guṇavanti.
Bho guṇava, bhavanto guṇavantāni, guṇavanti.
Bho guṇava, bhavanto guṇavantāni, guṇavanti.
2229
Evaṃ ‘‘rucimaṃ, rucimantāni, rucima’’ntiiccādinā, ‘‘pāpimaṃ, pāpimantāni, pāpima’’nti iccādinā ca yojetabbaṃ.
In this way, "rucimaṃ, rucimantāni, rucima" and so forth, and "pāpimaṃ, pāpimantāni, pāpima" and so forth, should be inflected.
Như vậy, cần ghép nối theo cách “rucimaṃ, rucimantāni, rucimaṃ” v.v. và “pāpimaṃ, pāpimantāni, pāpimaṃ” v.v.
Apicettha ‘‘guṇavaṃ balavaṃ yasavaṃ satimaṃ gatimaṃ’’iccādinā payogā vitthāretabbā.
Furthermore, here, usages like "guṇavaṃ balavaṃ yasavaṃ satimaṃ gatimaṃ" should be elaborated.
Hơn nữa, ở đây, các cách sử dụng như “guṇavaṃ balavaṃ yasavaṃ satimaṃ gatimaṃ” v.v. cần được mở rộng.
2230
Karontasaddassa ‘‘karontaṃ cittaṃ, karontaṃ kula’’nti payogavasena –
For the word karonta, when used as "karontaṃ cittaṃ, karontaṃ kula," the inflection is as follows –
Đối với từ karonta, theo cách sử dụng “karontaṃ cittaṃ, karontaṃ kulaṃ” –
2231
Karontaṃ, karontāni, karontā, karonti.
Karontaṃ, karontāni, karontā, karonti.
Karontaṃ, karontāni, karontā, karonti.
Karontaṃ, karontāni, karonte, karonti.
Karontaṃ, karontāni, karonte, karonti.
Karontaṃ, karontāni, karonte, karonti.
Karotā, karontena, karontehi, karontebhi.
Karotā, karontena, karontehi, karontebhi.
Karotā, karontena, karontehi, karontebhi.
Karoto, karato, karontassa, karontānaṃ, karotaṃ.
Karoto, karato, karontassa, karontānaṃ, karotaṃ.
Karoto, karato, karontassa, karontānaṃ, karotaṃ.
Karotā, karontā, karontasmā, karontamhā, karontehi, karontebhi.
Karotā, karontā, karontasmā, karontamhā, karontehi, karontebhi.
Karotā, karontā, karontasmā, karontamhā, karontehi, karontebhi.
Karoto, karato, karontassa, karontānaṃ, karotaṃ.
Karoto, karato, karontassa, karontānaṃ, karotaṃ.
Karoto, karato, karontassa, karontānaṃ, karotaṃ.
Karoti, karonte, karontasmiṃ, karontamhi, karontesu.
Karoti, karonte, karontasmiṃ, karontamhi, karontesu.
Karoti, karonte, karontasmiṃ, karontamhi, karontesu.
Bho karonta, bhavanto, karontāni, karontā, karontīti yojetabbaṃ.
Bho karonta, bhavanto, karontāni, karontā, karontīti should be inflected.
Bho karonta, bhavanto, karontāni, karontā, karontīti cần được ghép nối.
2232
Gacchantasaddassa tu ‘‘gacchantaṃ cittaṃ, gacchantaṃ kula’’nti payogavasena –
For the word gacchanta, when used as "gacchantaṃ cittaṃ, gacchantaṃ kula," the inflection is as follows –
Còn đối với từ gacchantī, theo cách sử dụng “gacchantaṃ cittaṃ, gacchantaṃ kulaṃ” –
2233
Gacchantaṃ, gacchantāni, gacchantā.
Gacchantaṃ, gacchantāni, gacchantā.
Gacchantaṃ, gacchantāni, gacchantā.
Gacchantaṃ, gacchantāni, gacchante.
Gacchantaṃ, gacchantāni, gacchante.
Gacchantaṃ, gacchantāni, gacchante.
Gacchatā, gacchantena, gacchantehi, gacchantebhi.
Gacchatā, gacchantena, gacchantehi, gacchantebhi.
Gacchatā, gacchantena, gacchantehi, gacchantebhi.
Gacchato, gacchantassa, gacchantānaṃ, gacchataṃ.
Gacchato, gacchantassa, gacchantānaṃ, gacchataṃ.
Của người đang đi, cho người đang đi; của những người đang đi, cho những người đang đi.
Gacchatā, gacchantā, gacchantasmā, gacchantamhā, gacchantehi, gacchantebhi.
Gacchatā, gacchantā, gacchantasmā, gacchantamhā, gacchantehi, gacchantebhi.
Bởi người đang đi, từ người đang đi; bởi những người đang đi, từ những người đang đi.
Gacchato, gacchantassa, gacchantānaṃ, gacchataṃ.
Gacchato, gacchantassa, gacchantānaṃ, gacchataṃ.
Của người đang đi, cho người đang đi; của những người đang đi, cho những người đang đi.
Gacchati, gacchante, gacchantasmiṃ, gacchantamhi, gacchantesu.
Gacchati, gacchante, gacchantasmiṃ, gacchantamhi, gacchantesu.
Ở người đang đi, trong người đang đi; ở những người đang đi, trong những người đang đi.
Bho gacchaṃ, bho gacchantā, bhavanto gacchantāni, gacchantāti yojetabbaṃ.
Bho gacchaṃ, bho gacchantā, bhavanto gacchantāni, gacchantāti should be joined.
Phải phối hợp như: Hỡi người đang đi, hỡi những người đang đi, hỡi các vị đang đi, hỡi những người đang đi.
2234
Evaṃ ‘‘carantaṃ dadantaṃ tiṭṭhantaṃ cintayanta’’ntiādīsupi nāmikapadamālā yojetabbā.
Similarly, in "carantaṃ, dadantaṃ, tiṭṭhantaṃ, cintayantaṃ," etc., the nominal declension table should be applied.
Tương tự, trong các từ như ‘‘carantaṃ, dadantaṃ, tiṭṭhantaṃ, cintayantaṃ’’ (đang đi, đang cho, đang đứng, đang suy nghĩ), chuỗi danh từ cũng phải được phối hợp như vậy.
2235
Mahantasaddassa pana koci bhedo, tathā hi ‘‘bārāṇasirajjaṃ nāma mahā’’ti evaṃ ‘‘mahā’’iti napuṃsakapayogadassanato ‘‘mahantaṃ, mahā, mahantāni, mahantā.
However, there is some difference in the word mahanta. Thus, since the neuter usage "mahā" is seen as in "Bārāṇasirajjaṃ nāma mahā," the sequence should be understood as "mahantaṃ, mahā, mahantāni, mahantā.
Tuy nhiên, từ mahanta (vĩ đại) có một số khác biệt, vì chúng ta thấy cách dùng giống như ‘‘bārāṇasirajjaṃ nāma mahā’’ (Vương quốc Bārāṇasī là vĩ đại), tức là cách dùng giống như ‘‘mahā’’ ở giống trung tính, nên thứ tự phải được hiểu là ‘‘mahantaṃ, mahā, mahantāni, mahantā.
Mahantaṃ, mahantāni, mahante.
Mahantaṃ, mahantāni, mahante.
Mahantaṃ, mahantāni, mahante.
Mahatā’’ti kamo veditabbo.
Mahatā."
Mahatā’’ (vĩ đại, vĩ đại, những cái vĩ đại, những người vĩ đại; cái vĩ đại, những cái vĩ đại, những người vĩ đại; bởi cái vĩ đại).
Sabbānetāni cittasaddena visadisāni.
All these are dissimilar to the word citta.
Tất cả những từ này đều khác với từ citta (tâm).
2236
Savinicchayoyaṃ niggahītantanapuṃsakaliṅgānaṃ pakatirūpassa nāmikapadamālāvibhāgo.
This is the decisive distinction of the nominal declension table for natural forms of neuter words ending in a nasal consonant.
Đây là sự phân loại chuỗi danh từ của dạng gốc của các từ giống trung tính kết thúc bằng niggahīta với sự phân tích.
2237
Avaṇṇukārantatāpakatikaṃ niggahītantaṃ
Neuter words ending in an -a vowel, naturally having a nasal consonant suffix, are completed.
Giống trung tính kết thúc bằng niggahīta, có dạng gốc kết thúc bằng nguyên âm a đã hoàn tất.
2238
Napuṃsakaliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
Neuter words ending in a nasal consonant are completed.
Giống trung tính đã hoàn tất.
2239
Idāni tassīlatthassa katarassassa atthavibhāvi iccetassa saddassa nāmikapadamālaṃ vakkhāma pubbācariyamataṃ purecaraṃ katvā –
Now, we will explain the nominal declension table of the word atthavibhāvi, which signifies the habitual quality, taking the opinion of previous teachers as our guide –
Bây giờ, chúng tôi sẽ trình bày chuỗi danh từ của từ atthavibhāvi (người phân tích ý nghĩa) có nghĩa là ‘có thói quen đó’, với ý kiến của các học giả tiền bối làm nền tảng –
2240
Aṭṭhi, aṭṭhī, aṭṭhīni.
Aṭṭhi, aṭṭhī, aṭṭhīni.
Xương, hai xương, nhiều xương.
Aṭṭhiṃ, aṭṭhī, aṭṭhīni.
Aṭṭhiṃ, aṭṭhī, aṭṭhīni.
Cái xương, hai xương, nhiều xương.
Aṭṭhinā, aṭṭhīhi, aṭṭhībhi.
Aṭṭhinā, aṭṭhīhi, aṭṭhībhi.
Bởi cái xương, bởi hai xương, bởi nhiều xương.
Aṭṭhissa, aṭṭhino, aṭṭhīnaṃ.
Aṭṭhissa, aṭṭhino, aṭṭhīnaṃ.
Của cái xương, cho cái xương; của hai xương, cho hai xương; của nhiều xương, cho nhiều xương.
Aṭṭhinā, aṭṭhīhi, aṭṭhībhi.
Aṭṭhinā, aṭṭhīhi, aṭṭhībhi.
Từ cái xương, từ hai xương, từ nhiều xương.
Aṭṭhissa, aṭṭhino, aṭṭhīnaṃ.
Aṭṭhissa, aṭṭhino, aṭṭhīnaṃ.
Của cái xương, cho cái xương; của hai xương, cho hai xương; của nhiều xương, cho nhiều xương.
Aṭṭhismiṃ, aṭṭhimhi, aṭṭhīsu.
Aṭṭhismiṃ, aṭṭhimhi, aṭṭhīsu.
Ở cái xương, trong cái xương; ở hai xương, trong hai xương; ở nhiều xương, trong nhiều xương.
Bho aṭṭhi, bhavanto aṭṭhī, bhavanto aṭṭhīni.
Bho aṭṭhi, bhavanto aṭṭhī, bhavanto aṭṭhīni.
Hỡi xương, hỡi hai xương, hỡi nhiều xương.
Yamakamahātheramataṃ.
The opinion of Yamakamahāthera.
Ý kiến của Yamakamahāthera.
2241
Kiñcāpettha nissakkavacanaṭṭhāne ‘‘aṭṭhismā, aṭṭhimhā’’ti padāni anāgatāni, tathāpi tattha tattha taṃsadisappayogadassanā gahetabbāni.
Although in this case, the words "aṭṭhismā, aṭṭhimhā" do not appear in the ablative case, they should be understood as present due to the appearance of similar usages in various places.
Mặc dù các từ ‘‘aṭṭhismā, aṭṭhimhā’’ không xuất hiện ở vị trí của cách xuất xứ ở đây, nhưng chúng phải được chấp nhận vì có sự xuất hiện của các cách dùng tương tự ở những nơi khác.
Yathā pana aṭṭhisaddassa, evaṃ ‘‘satthi dadhi vāri akkhi acchi’’iccādīnampi rūpāni bhavanti.
Just as with the word aṭṭhi, so too are the forms of "satthi, dadhi, vāri, akkhi, acchi," etc.
Cũng như từ aṭṭhi (xương), các dạng của ‘‘satthi (đùi), dadhi (sữa đông), vāri (nước), akkhi (mắt), acchi (mắt)’’ v.v. cũng được hình thành.
2242
Atthavibhāvi, atthavibhāvī, atthavibhāvīni.
Atthavibhāvi, atthavibhāvī, atthavibhāvīni.
Người phân tích ý nghĩa, hai người phân tích ý nghĩa, nhiều người phân tích ý nghĩa.
Atthavibhāviṃ, atthavibhāvī, atthavibhāvīni.
Atthavibhāviṃ, atthavibhāvī, atthavibhāvīni.
Người phân tích ý nghĩa, hai người phân tích ý nghĩa, nhiều người phân tích ý nghĩa.
Atthavibhāvinā, atthavibhāvīhi, atthavibhāvībhi.
Atthavibhāvinā, atthavibhāvīhi, atthavibhāvībhi.
Bởi người phân tích ý nghĩa, bởi hai người phân tích ý nghĩa, bởi nhiều người phân tích ý nghĩa.
Atthavibhāvissa, atthavibhāvino, atthavibhāvīnaṃ.
Atthavibhāvissa, atthavibhāvino, atthavibhāvīnaṃ.
Của người phân tích ý nghĩa, cho người phân tích ý nghĩa; của hai người phân tích ý nghĩa, cho hai người phân tích ý nghĩa; của nhiều người phân tích ý nghĩa, cho nhiều người phân tích ý nghĩa.
Atthavibhāvinā, atthavibhāvismā atthavibhāvimhā, atthavibhāvīhi, atthavibhāvībhi.
Atthavibhāvinā, atthavibhāvismā, atthavibhāvimhā, atthavibhāvīhi, atthavibhāvībhi.
Từ người phân tích ý nghĩa, từ người phân tích ý nghĩa, từ người phân tích ý nghĩa; từ hai người phân tích ý nghĩa, từ nhiều người phân tích ý nghĩa.
Atthavibhāvissa, atthavibhāvino, atthavibhāvīnaṃ.
Atthavibhāvissa, atthavibhāvino, atthavibhāvīnaṃ.
Của người phân tích ý nghĩa, cho người phân tích ý nghĩa; của hai người phân tích ý nghĩa, cho hai người phân tích ý nghĩa; của nhiều người phân tích ý nghĩa, cho nhiều người phân tích ý nghĩa.
Atthavibhāvismiṃ, atthavibhāvimhi, atthavibhāvīsu.
Atthavibhāvismiṃ, atthavibhāvimhi, atthavibhāvīsu.
Ở người phân tích ý nghĩa, trong người phân tích ý nghĩa; ở hai người phân tích ý nghĩa, trong hai người phân tích ý nghĩa; ở nhiều người phân tích ý nghĩa, trong nhiều người phân tích ý nghĩa.
Bho atthavibhāvi, bhavanto atthavibhāvī, bhavanto atthavibhāvīni.
Bho atthavibhāvi, bhavanto atthavibhāvī, bhavanto atthavibhāvīni.
Hỡi người phân tích ý nghĩa, hỡi hai người phân tích ý nghĩa, hỡi nhiều người phân tích ý nghĩa.
2243
Evaṃ ‘‘dhammavibhāvi, cittānuparivatti, sukhakāri’’iccādīnipi.
Similarly, "dhammavibhāvi, cittānuparivatti, sukhakāri," etc., are formed.
Tương tự, ‘‘dhammavibhāvi (người phân tích Dhamma), cittānuparivatti (người theo dõi tâm), sukhakāri (người tạo ra hạnh phúc)’’ v.v. cũng vậy.
Tattha aṭṭhi satthiādīni padhānaliṅgāni anaññāpekkhakattā, atthavibhāvi dhammavibhāviādīni appadhānaliṅgāni aññāpekkhakattā.
Among these, aṭṭhi, satthi and so on are independent gender words because they do not depend on others, whereas atthavibhāvi, dhammavibhāvi and so on are dependent gender words because they depend on others.
Trong đó, các từ như aṭṭhi, satthi v.v. là các danh từ chính vì chúng không phụ thuộc vào từ khác, còn các từ như atthavibhāvi, dhammavibhāvi v.v. là các danh từ phụ vì chúng phụ thuộc vào từ khác.
2244
Savinicchayoyaṃ ikārantanapuṃsakaliṅgānaṃ pakatirūpassa nāmikapadamālāvibhāgo.
This is the decisive distinction of the nominal declension table for natural forms of neuter words ending in -i.
Đây là sự phân loại chuỗi danh từ của dạng gốc của các từ giống trung tính kết thúc bằng i với sự phân tích.
2245
Ivaṇṇantatāpakatikaṃ ikārantanapuṃsakaliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
Neuter words ending in the -i vowel, naturally having an -i sound, are completed.
Giống trung tính kết thúc bằng nguyên âm i, có dạng gốc kết thúc bằng nguyên âm i đã hoàn tất.
2246
Idāni katarassassa gotrabhu iccetassa saddassa nāmikapadamālaṃ vakkhāma pubbācariyamataṃ purecaraṃ katvā –
Now, we will explain the nominal declension table of the word gotrabhu which has a short -u, taking the opinion of previous teachers as our guide –
Bây giờ, chúng tôi sẽ trình bày chuỗi danh từ của từ gotrabhu (người vượt qua dòng dõi) có nguyên âm cuối ngắn, với ý kiến của các học giả tiền bối làm nền tảng –
2247
Āyu, āyū, āyūni.
Āyu, āyū, āyūni.
Tuổi thọ, hai tuổi thọ, nhiều tuổi thọ.
Āyuṃ, āyū, āyūni.
Āyuṃ, āyū, āyūni.
Tuổi thọ, hai tuổi thọ, nhiều tuổi thọ.
Āyunā, āyūhi, āyūbhi.
Āyunā, āyūhi, āyūbhi.
Bởi tuổi thọ, bởi hai tuổi thọ, bởi nhiều tuổi thọ.
Āyussa, āyuno, āyūnaṃ.
Āyussa, āyuno, āyūnaṃ.
Của tuổi thọ, cho tuổi thọ; của hai tuổi thọ, cho hai tuổi thọ; của nhiều tuổi thọ, cho nhiều tuổi thọ.
Āyunā, āyūhi, āyūbhi.
Āyunā, āyūhi, āyūbhi.
Từ tuổi thọ, từ hai tuổi thọ, từ nhiều tuổi thọ.
Āyussa, āyuno, āyūnaṃ.
Āyussa, āyuno, āyūnaṃ.
Của tuổi thọ, cho tuổi thọ; của hai tuổi thọ, cho hai tuổi thọ; của nhiều tuổi thọ, cho nhiều tuổi thọ.
Āyusmiṃ, āyumhi, āyūsu.
Āyusmiṃ, āyumhi, āyūsu.
Ở tuổi thọ, trong tuổi thọ; ở hai tuổi thọ, trong hai tuổi thọ; ở nhiều tuổi thọ, trong nhiều tuổi thọ.
Bho āyu, bhavanto āyū, bhavanto āyūni.
Bho āyu, bhavanto āyū, bhavanto āyūni.
Hỡi tuổi thọ, hỡi hai tuổi thọ, hỡi nhiều tuổi thọ.
Yamakamahātheramataṃ.
The opinion of Yamakamahāthera.
Ý kiến của Yamakamahāthera.
2248
Kiñcāpettha nissakkavacanaṭṭhāne ‘‘āyusmā, āyumhā’’ti padāni anāgatāni, tathāpi tattha tattha taṃsadisappayogadassanato gahetabbāni.
Although in this case, the words "āyusmā, āyumhā" do not appear in the ablative case, they should be understood as present due to the appearance of similar usages in various places.
Mặc dù các từ ‘‘āyusmā, āyumhā’’ không xuất hiện ở vị trí của cách xuất xứ ở đây, nhưng chúng phải được chấp nhận vì có sự xuất hiện của các cách dùng tương tự ở những nơi khác.
Ettha ca āyusaddo puṃnapuṃsakaliṅgo daṭṭhabbo.
And here, the word āyu should be understood as being of both masculine and neuter genders.
Ở đây, từ āyu (tuổi thọ) phải được xem là thuộc cả giống đực và giống trung tính.
Tathā hi pāḷiyaṃ aṭṭhakathāsu ca tassa dviliṅgatā dissati.
Thus, in the Pāḷi texts and commentaries, its dual gender is seen.
Thật vậy, trong Pāḷi và các bản chú giải, chúng ta thấy nó thuộc cả hai giống.
‘‘Punarāyu ca me laddho, evaṃ jānāhi mārisa.
For instance, in "Punarāyu ca me laddho, evaṃ jānāhi mārisa.
Trong các câu như ‘‘Punarāyu ca me laddho, evaṃ jānāhi mārisa. (Này bạn hiền, hãy biết rằng tôi đã đạt được tuổi thọ trở lại.)
Āyu cassā parikkhīṇo ahosī’’tiādīsu hi āyusaddo pulliṅgo, tabbasena ‘‘āyu, āyū, āyavo’’tiādinā bhikkhunayena yathāsambhavaṃ nāmikapadamālā yojetabbā.
Āyu cassā parikkhīṇo ahosī" and so on, the word āyu is masculine; accordingly, the nominal declension table should be applied, where appropriate, according to the pattern of bhikkhu, as "āyu, āyū, āyavo" and so on.
Āyu cassā parikkhīṇo ahosī’’ (Tuổi thọ của cô ấy đã cạn kiệt), từ āyu là giống đực, và theo đó, chuỗi danh từ phải được phối hợp theo cách của bhikkhu (tỳ khưu) với ‘‘āyu, āyū, āyavo’’ v.v. tùy theo khả năng.
‘‘Aggaṃ āyu ca vaṇṇo ca.
However, in "Aggaṃ āyu ca vaṇṇo ca.
Tuy nhiên, trong các câu như ‘‘Aggaṃ āyu ca vaṇṇo ca. (Tuổi thọ và sắc đẹp là tối thượng.)
Kittakaṃ panassa āyū’’tiādīsu pana napuṃsakaliṅgo, tabbasena ‘‘āyu, āyū, āyūnī’’ti yojitā.
Kittakaṃ panassa āyū" and so on, it is neuter; accordingly, "āyu, āyū, āyūnī" are joined.
Kittakaṃ panassa āyū’’ (Tuổi thọ của ông ta là bao nhiêu?), nó là giống trung tính, và theo đó, nó được phối hợp là ‘‘āyu, āyū, āyūnī’’.
2249
Gotrabhu, gotrabhū, gotrabhūni.
Gotrabhu, gotrabhū, gotrabhūni.
Người vượt qua dòng dõi, hai người vượt qua dòng dõi, nhiều người vượt qua dòng dõi.
Gotrabhuṃ, gotrabhū, gotrabhūni.
Gotrabhuṃ, gotrabhū, gotrabhūni.
Người vượt qua dòng dõi, hai người vượt qua dòng dõi, nhiều người vượt qua dòng dõi.
Gotrabhunā, gotrabhūhi, gotrabhūbhi.
Gotrabhunā, gotrabhūhi, gotrabhūbhi.
Bởi người vượt qua dòng dõi, bởi hai người vượt qua dòng dõi, bởi nhiều người vượt qua dòng dõi.
Gotrabhussa, gotrabhuno, gotrabhūnaṃ.
Gotrabhussa, gotrabhuno, gotrabhūnaṃ.
Của người vượt qua dòng dõi, cho người vượt qua dòng dõi; của hai người vượt qua dòng dõi, cho hai người vượt qua dòng dõi; của nhiều người vượt qua dòng dõi, cho nhiều người vượt qua dòng dõi.
Gotrabhunā, gotrabhusmā, gotrabhumhā, gotrabhūhi, gotrabhūbhi.
Gotrabhunā, gotrabhusmā, gotrabhumhā, gotrabhūhi, gotrabhūbhi.
Từ người vượt qua dòng dõi, từ người vượt qua dòng dõi, từ người vượt qua dòng dõi; từ hai người vượt qua dòng dõi, từ nhiều người vượt qua dòng dõi.
Gotrabhussa, gotrabhuno, gotrabhūnaṃ.
Gotrabhussa, gotrabhuno, gotrabhūnaṃ.
Của người vượt qua dòng dõi, cho người vượt qua dòng dõi; của hai người vượt qua dòng dõi, cho hai người vượt qua dòng dõi; của nhiều người vượt qua dòng dõi, cho nhiều người vượt qua dòng dõi.
Gotrabhusmiṃ, gotrabhumhi, gotrabhūsu.
Gotrabhusmiṃ, gotrabhumhi, gotrabhūsu.
Ở người vượt qua dòng dõi, trong người vượt qua dòng dõi; ở hai người vượt qua dòng dõi, trong hai người vượt qua dòng dõi; ở nhiều người vượt qua dòng dõi, trong nhiều người vượt qua dòng dõi.
Bho gotrabhu, bhavanto gotrabhū, bhavanto gotrabhūni.
Bho gotrabhu, bhavanto gotrabhū, bhavanto gotrabhūni.
Hỡi người vượt qua dòng dõi, hỡi hai người vượt qua dòng dõi, hỡi nhiều người vượt qua dòng dõi.
Bho gotrabhū, bho gotrabhūni, evaṃ bahuvacanaṃ vā.
Or, in the plural, Bho gotrabhū, bho gotrabhūni, thus.
Hoặc cách số nhiều như: Hỡi hai người vượt qua dòng dõi, hỡi nhiều người vượt qua dòng dõi.
Ayamamhākaṃ mataṃ, evaṃ ‘‘cittasahabhu’’iccādīnaṃ bhūdhātumayānaṃ ukārantasaddānaṃ aññesampi taṃsadisānaṃ nāmikapadamālā yojetabbā.
This is our opinion; similarly, the nominal declension table should be applied to other similar -u ending words formed from the root bhū, such as "cittasahabhu," etc.
Đây là ý kiến của chúng tôi; tương tự, chuỗi danh từ của các từ kết thúc bằng u được tạo thành từ gốc bhū (trở thành) như ‘‘cittasahabhu’’ (cùng tồn tại với tâm) v.v. và các từ tương tự khác cũng phải được phối hợp.
Puggalavācako pana ūkāranto gotrabhūsaddo pulliṅgapariyāpannattā sabbaññūnaye paviṭṭho.
However, the -ū ending word gotrabhū, referring to a person, falls under the masculine gender and is included in the pattern of sabbaññū.
Tuy nhiên, từ gotrabhū (người vượt qua dòng dõi) kết thúc bằng nguyên âm dài ū, là một từ chỉ cá nhân, thuộc giống đực và được đưa vào cách của sabbaññū (Đấng Toàn Tri).
Tatraññe saddā nāma ‘‘cakkhu vasu dhanu dāru tipu madhu siṅgu hiṅgu cittagu’’iccādayo.
Other such words include "cakkhu, vasu, dhanu, dāru, tipu, madhu, siṅgu, hiṅgu, cittagu," etc.
Các từ khác ở đây là ‘‘cakkhu (mắt), vasu (của cải), dhanu (cung), dāru (gỗ), tipu (thiếc), madhu (mật), siṅgu (sừng), hiṅgu (a-ngùy), cittagu (người bảo vệ tâm)’’ v.v.
2250
Savinicchayoyaṃ ukārantanapuṃsakaliṅgānaṃ pakatirūpassa nāmikapadamālāvibhāgo.
This is the decisive distinction of the nominal declension table for natural forms of neuter words ending in -u.
Đây là sự phân loại chuỗi danh từ của dạng gốc của các từ giống trung tính kết thúc bằng u với sự phân tích.
2251
Uvaṇṇokārantatāpakatikaṃ
Neuter words ending in the -u vowel, naturally having an -u sound,
Giống trung tính kết thúc bằng nguyên âm u, có dạng gốc kết thúc bằng nguyên âm u đã hoàn tất.
2252
Ukārantanapuṃsakaliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
Neuter words ending in -u are completed.
Giống trung tính tận cùng bằng U-kāra đã hoàn tất.
2253
Evaṃ niggahītanta ikāranta ukārantavasena tividhāni napuṃsakaliṅgāni niravasesato gahitāneva honti.
Thus, neuter words of three types—those ending in a nasal consonant, those ending in -i, and those ending in -u—are completely covered.
Như vậy, ba loại giống trung tính, tức là loại kết thúc bằng niggahīta, loại kết thúc bằng i và loại kết thúc bằng u, đã được trình bày đầy đủ.
Tesu kesañci niggahītantānaṃ kvaci paccattekavacanassa bahuvacanassa ekārādesavasena bhedo dissati.
Among these, some words ending in a nasal consonant show a difference in some singular and plural forms due to the substitution of -e.
Trong số đó, đối với một số từ kết thúc bằng niggahīta, có sự khác biệt trong cách số ít và số nhiều ở một số trường hợp, do sự thay thế bằng nguyên âm e.
Seyyathidaṃ?
For example?
Chẳng hạn như thế nào?
‘‘Sukhe dukkhe.
"Sukhe, dukkhe.
‘‘Sukhe dukkhe (trong hạnh phúc, trong khổ đau).
Ekūnapaññāsa ājīvakasate ekūnapaññāsa paribbājakasate’’iccevamādi.
Ekūnapaññāsa ājīvakasate, ekūnapaññāsa paribbājakasate" and so on.
Ekūnapaññāsa ājīvakasate ekūnapaññāsa paribbājakasate’’ (trong năm mươi Ājīvaka trừ một, trong năm mươi du sĩ trừ một) v.v.
Nanu bho evaṃvidhānaṃ rūpānaṃ pāḷiyaṃ dassanato ‘‘ekārantampi napuṃsakaliṅgaṃ atthī’’ti vattabbanti?
But, sir, since such forms are seen in Pāḷi, should it not be said that "there are also neuter words ending in -e"?
Chẳng phải nên nói rằng ‘‘cũng có giống trung tính kết thúc bằng e’’ vì các dạng như vậy được thấy trong Pāḷi sao?
Na vattabbaṃ niggahītantogadharūpavisesattā tesaṃ rūpānaṃ.
It should not be said, because those forms are specific forms included in words ending in a nasal consonant.
Không nên nói vậy, vì những dạng đó là những biến thể của các dạng kết thúc bằng niggahīta.
Ādesavasena hi siddhattā visuṃ ekārantaṃ napuṃsakaliṅgaṃ nāma natthi.
Indeed, because it is established by way of substitution, there is no neuter gender word ending in 'e' as a distinct class.
Vì chúng được hình thành thông qua sự thay thế, nên không có giống trung tính kết thúc bằng e riêng biệt.
Tasmā napuṃsakaliṅgānaṃ yathāvuttā tividhatāyeva gahetabbāti.
Therefore, only the aforementioned three kinds of neuter gender words should be understood.
Do đó, chỉ có ba loại giống trung tính như đã nói mới được chấp nhận.
2254
Napuṃsakānamiccevaṃ, liṅgānaṃ nayasālinī;
And thus, this word-list for the neuter genders, adorned with method,
Như vậy, chuỗi danh từ của các giống,
2255
Padamālā vibhattā me, sāsanatthaṃ mahesino.
has been arranged by me for the benefit of the Sāsana of the Great Seer.
đầy đủ theo quy tắc, đã được tôi phân loại vì lợi ích của giáo pháp của Đấng Đại Hiền.
2256
Yassesā paguṇā sadda-nītiresā subhāvitā;
For whom this well-developed Saddanīti is mastered,
Ai đã học kỹ ngữ pháp này,
2257
Sāsane kulaputtānaṃ, saraṇaṃ so parāyaṇaṃ.
that son of a good family becomes a refuge and a support in the Sāsana.
người ấy là nơi nương tựa, là chỗ dựa cho các thiện nam tử trong giáo pháp.
2258
Iti navaṅge sāṭṭhakathe piṭakattaye byappathagatīsu viññūnaṃ
Here ends the ninth chapter
Như vậy, trong tác phẩm Saddanīti, được biên soạn để các bậc trí giả
2259
Kosallatthāya kate saddanītippakaraṇe
on the division of nominal word-lists of the basic forms of neuter gender words
thành thạo trong các cách diễn đạt của Tam Tạng kinh điển cùng với chú giải và chín phần giáo pháp,
2260
Napuṃsakaliṅgānaṃ pakatirūpassa nāmikapadamālāvibhāgo
in the Saddanīti treatise, composed for the proficiency of the wise
phần phân loại chuỗi danh từ của dạng gốc của các giống trung tính
2261
Navamo paricchedo.
in the methods of designation in the Tipiṭaka with its commentaries and nine divisions.
là chương thứ chín đã hoàn tất.
2262

10. Liṅgattayamissakanāmikapadamālā

10. Word-lists of Mixed Three Genders

10. Chuỗi Danh Từ Hỗn Hợp Ba Giống

Next Page →