Table of Contents

Saṃyuttanikāya (pu-vi)

Edit
5
Saṃgāyanassa pucchā vissajjanā
Questions and Answers concerning the Recitation
Hỏi Đáp Về Kết Tập
6
Pucchā – paṭhamamahāsaṃgītikāle āvuso dhammasaṃgāhakā mahākassapādayo mahātheravarā porāṇasaṃgītikārā paṭhamaṃ vinayapiṭakaṃ saṃgāyitvā tadanantaraṃ suttantapiṭakaṃ saṃgāyantā dīghanikāyañca majjhimanikāyañca saṃgāyitvā tadanantaraṃ kiṃnāma pāvacanaṃ saṃgāyiṃsu.
Question – Friend, during the First Great Council, after the eminent Elder Mahākassapa and other Dhamma reciters of old recited the Vinaya Piṭaka, and then, while reciting the Suttanta Piṭaka, after reciting the Dīgha Nikāya and Majjhima Nikāya, what teaching did they recite next?
Hỏi – Thưa chư Hiền, vào thời kỳ Đại Kết Tập lần thứ nhất, các bậc Đại Trưởng lão cao quý như ngài Mahākassapa và những vị kết tập giáo pháp thời xưa, sau khi kết tập Tạng Luật trước, rồi sau đó kết tập Tạng Kinh, kết tập Trường Bộ Kinh và Trung Bộ Kinh, tiếp theo đó đã kết tập giáo pháp tên là gì?
7
Vissajjanā – paṭhamamahāsaṃgītikāle bhante dhammasaṃgāhakā mahākassapādayo porāṇatheravarā paṭhamaṃ vinayapiṭakaṃ saṃgāyitvā tadanantaraṃ suttantapiṭakaṃ saṃgāyantā dīghanikāyañca majjhimanikāyañca saṃgāyitvā tadanantaraṃ sattahi ca suttasahassehi sattahi ca suttasatehi dvāsaṭṭhiyā ca suttehi paṭimaṇḍitaṃ bhāṇavārasataparimāṇaṃ saṃyuttanikāyaṃ nāma pāvacanaṃ saṃgāyiṃsu.
Answer – Venerable sir, during the First Great Council, after the eminent Elder Mahākassapa and other Dhamma reciters of old recited the Vinaya Piṭaka, and then, while reciting the Suttanta Piṭaka, after reciting the Dīgha Nikāya and Majjhima Nikāya, they recited the teaching called Saṃyutta Nikāya, adorned with seven thousand seven hundred and sixty-two suttas, amounting to one hundred recitations (bhāṇavāras).
Đáp – Bạch chư Tôn giả, vào thời kỳ Đại Kết Tập lần thứ nhất, các bậc Đại Trưởng lão cao quý như ngài Mahākassapa và những vị kết tập giáo pháp thời xưa, sau khi kết tập Tạng Luật trước, rồi sau đó kết tập Tạng Kinh, kết tập Trường Bộ Kinh và Trung Bộ Kinh, tiếp theo đó đã kết tập giáo pháp tên là Tương Ưng Bộ Kinh, được trang hoàng bởi bảy ngàn bảy trăm sáu mươi hai bài kinh, có số lượng một trăm chương tụng.
8
Pucchā – saṃyuttanikāye ca āvuso sagāthāvaggo nidānavaggo khandhavaggo saḷāyatanavaggo mahāvaggoti pañcasaṃyuttappakaraṇāni, tesu paṭhamaṃ kataraṃ saṃyuttappakaraṇaṃ te saṃgāyiṃsu.
Question – And in the Saṃyutta Nikāya, friend, there are five divisions of Saṃyuttas: Sagāthā Vagga, Nidāna Vagga, Khandha Vagga, Saḷāyatana Vagga, and Mahā Vagga. Of these, which Saṃyutta division did they recite first?
Hỏi – Thưa chư Hiền, trong Tương Ưng Bộ có năm tập Tương Ưng là: Tương Ưng Có Kệ, Tương Ưng Nhân Duyên, Tương Ưng Uẩn, Tương Ưng Sáu Xứ và Tương Ưng Đại Phẩm. Trong số đó, các vị ấy đã kết tập tập Tương Ưng nào trước tiên?
9
Vissajjanā – pañcasu bhante saṃyuttappakaraṇesu paṭhamaṃ sagāthāvaggasaṃyuttappakaraṇaṃ saṃgāyiṃsu.
Answer – Venerable sir, of the five Saṃyutta divisions, they first recited the Sagāthā Vagga Saṃyutta division.
Đáp – Bạch chư Tôn giả, trong năm tập Tương Ưng, các vị ấy đã kết tập tập Tương Ưng Có Kệ trước tiên.
10
Pucchā – sagāthāvaggepi āvuso devatāsaṃyuttādivasena ekādasasaṃyuttāni, tesu paṭhamaṃ kataraṃ saṃyuttaṃ te saṃgāyiṃsu.
Question – And in the Sagāthā Vagga, friend, there are eleven Saṃyuttas, starting with the Devatā Saṃyutta. Of these, which Saṃyutta did they recite first?
Hỏi – Thưa chư Hiền, ngay cả trong Tương Ưng Có Kệ, có mười một Tương Ưng như Tương Ưng Chư Thiên, v.v. Trong số đó, các vị ấy đã kết tập Tương Ưng nào trước tiên?
11
Vissajjanā – ekādasasu bhante saṃyuttesu paṭhamaṃ devatāsaṃyuttaṃ saṃgāyiṃsu.
Answer – Venerable sir, of the eleven Saṃyuttas, they first recited the Devatā Saṃyutta.
Đáp – Bạch chư Tôn giả, trong mười một Tương Ưng, các vị ấy đã kết tập Tương Ưng Chư Thiên trước tiên.
12
Pucchā – devatāsaṃyuttepi āvuso naḷavaggādayo aṭṭha vaggā, oghataraṇasuttādīni ca ekāsīti suttāni, tesu paṭhamaṃ kataraṃ vaggaṃ katarañca suttaṃ sagāyiṃsu.
Question – And in the Devatā Saṃyutta, friend, there are eight vaggas, starting with the Naḷa Vagga, and eighty-one suttas, starting with the Oghataraṇa Sutta. Of these, which vagga and which sutta did they recite first?
Hỏi – Thưa chư Hiền, ngay cả trong Tương Ưng Chư Thiên, có tám phẩm như phẩm Naḷa, v.v., và tám mươi mốt bài kinh như kinh Vượt Khỏi Dòng Nước Lũ, v.v. Trong số đó, các vị ấy đã kết tập phẩm nào và bài kinh nào trước tiên?
13
Vissajjanā – aṭṭhasu bhante vaggesu paṭhamaṃ naḷavaggaṃ ekāsītiyā ca suttesu paṭhamaṃ oghataraṇasuttaṃ saṃgāyiṃsu.
Answer – Venerable sir, of the eight vaggas, they first recited the Naḷa Vagga, and of the eighty-one suttas, they first recited the Oghataraṇa Sutta.
Đáp – Bạch chư Tôn giả, trong tám phẩm, các vị ấy đã kết tập phẩm Naḷa trước tiên, và trong tám mươi mốt bài kinh, các vị ấy đã kết tập kinh Vượt Khỏi Dòng Nước Lũ trước tiên.
14
Sādhu sādhu āvuso, mayampi dāni tatoyeva paṭṭhāya saṃgītipubbaṅgamāni pucchanavissajjanakiccāni āvahituṃ samārabhāra.
Excellent, excellent, friend! We too shall now begin the question and answer sessions, which are introductory to the council, starting from that point.
Lành thay, lành thay, thưa chư Hiền! Giờ đây chúng tôi cũng sẽ bắt đầu thực hiện các công việc hỏi đáp mở đầu cho việc kết tập từ đó.
15

Devatāsaṃyutta

Devatā Saṃyutta

Tương Ưng Chư Thiên

16
Oghataraṇasutta
Oghataraṇa Sutta
Kinh Vượt Khỏi Dòng Nước Lũ
17
Pucchā – tenāvuso bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena oghataraṇasuttaṃ kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Friend, where, concerning whom, in what context, and how was the Oghataraṇa Sutta spoken by the Blessed One, the Knower, the Seer, the Arahant, the Perfectly Enlightened One?
Hỏi – Thưa chư Hiền, kinh Vượt Khỏi Dòng Nước Lũ này đã được Đức Thế Tôn, bậc Toàn Tri, Toàn Kiến, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thuyết giảng ở đâu, về ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
18
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante aññataraṃ devataṃ ārabbha bhāsitaṃ, aññatarā bhante devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi, ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṃ etadavoca ‘‘kathaṃ nu tvaṃ mārisa oghamatarī’’ti,
Answer – Venerable sir, it was spoken in Sāvatthī, concerning a certain deity. Venerable sir, a certain deity, when the night was far advanced, with radiant beauty illuminating the entire Jeta Grove, approached the Blessed One. Having approached and paid homage to the Blessed One, she stood to one side. Standing to one side, that deity said this to the Blessed One: “How, indeed, good sir, did you cross the flood?”
Đáp – Bạch chư Tôn giả, kinh này đã được thuyết giảng ở Sāvatthī, về một vị thiên nhân nọ. Bạch chư Tôn giả, khi đêm đã khuya, với dung sắc tuyệt đẹp, một vị thiên nhân nọ đã chiếu sáng toàn bộ khu rừng Jetavana, rồi đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn, vị ấy đứng sang một bên. Đứng sang một bên, bạch chư Tôn giả, vị thiên nhân ấy đã bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Thưa Tôn giả, ngài đã vượt qua dòng nước lũ như thế nào?”
19
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ ‘‘apatiṭṭhaṃ khvāhaṃ āvuso anāyūhaṃ oghamatariṃ’’ti, evaṃ kho bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus: “Friend, I crossed the flood without standing, without striving.”
Bạch chư Tôn giả, trong bối cảnh đó, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng rằng: “Này chư Hiền, không đứng yên, không nỗ lực, Ta đã vượt qua dòng nước lũ.” Bạch chư Tôn giả, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng như vậy.
20
Accentisutta
Accenti Sutta
Kinh Thời Gian Trôi Qua
21
Pucchā – accentisuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Friend, where, concerning whom, in what context, and how was the Accenti Sutta spoken by the Blessed One?
Hỏi – Thưa chư Hiền, kinh Thời Gian Trôi Qua này đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, về ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
22
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante aññataraṃ devataṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken in Sāvatthī, concerning a certain deity.
Đáp – Bạch chư Tôn giả, kinh này đã được thuyết giảng ở Sāvatthī, về một vị thiên nhân nọ.
Aññatarā bhante devatā bhagavantaṃ etadavoca–
Venerable sir, a certain deity said this to the Blessed One:
Bạch chư Tôn giả, một vị thiên nhân nọ đã bạch với Đức Thế Tôn rằng:
23
‘‘Accenti kālā tarayanti rattiyo,
“Time flies by, nights pass swiftly,
“Thời gian trôi qua, đêm ngày dần qua,
24
Vayoguṇā anupubbaṃ jahanti,
Life's stages gradually diminish.
Các phẩm chất tuổi tác tuần tự bỏ đi.
25
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno,
Seeing this danger in death,
Thấy sự sợ hãi này trong cái chết,
26
Puññāni kayirātha sukhāvahānī’’ti–
One should do meritorious deeds that bring happiness.”
Hãy làm các phước thiện mang lại an lạc.”
27
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ –
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus:
Bạch chư Tôn giả, trong bối cảnh đó –
28
‘‘Accenti kālā tarayanti rattiyo,
“Time flies by, nights pass swiftly,
“Thời gian trôi qua, đêm ngày dần qua,
29
Vayoguṇā anupubbaṃ jahanti,
Life's stages gradually diminish.
Các phẩm chất tuổi tác tuần tự bỏ đi.
30
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno,
Seeing this danger in death,
Thấy sự sợ hãi này trong cái chết,
31
Lokāmisaṃ pajahe santipekkho’’ti –
One who seeks peace should abandon worldly allurements.”
Kẻ tìm cầu an tịnh hãy từ bỏ mồi đời.”
32
Evaṃ kho bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
This, venerable sir, is how it was spoken by the Blessed One.
Bạch chư Tôn giả, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng như vậy.
33
Sattisutta
Satti Sutta
Kinh Mũi Giáo
34
Pucchā – sattisuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Friend, where, concerning whom, in what context, and how was the Satti Sutta spoken by the Blessed One?
Hỏi – Thưa chư Hiền, kinh Mũi Giáo này đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, về ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
35
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante aññataraṃ devataṃ ārabbha bhāsitaṃ, aññatarā bhante devatā bhagavantaṃ etadavoca–
Answer – Venerable sir, it was spoken in Sāvatthī, concerning a certain deity. Venerable sir, a certain deity said this to the Blessed One:
Đáp – Bạch chư Tôn giả, kinh này đã được thuyết giảng ở Sāvatthī, về một vị thiên nhân nọ. Bạch chư Tôn giả, một vị thiên nhân nọ đã bạch với Đức Thế Tôn rằng:
36
‘‘Sattiyā viya omaṭṭho, ḍayhamānova matthake;
“Like one struck by a dart, or as if one's head is aflame;
“Như bị mũi giáo đâm, như đầu bị cháy,
37
Kāmarāgappahānāya, sato bhikkhu paribbaje’’ti–
A mindful bhikkhu should wander forth for the abandoning of sensual desire.”
Tỳ-kheo chánh niệm hãy du hành để đoạn trừ dục ái.”
38
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ–
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus:
Bạch chư Tôn giả, trong bối cảnh đó –
39
Sattiyā viya omaṭṭho ḍayhamānova matthake;
“Like one struck by a dart, or as if one's head is aflame;
Như bị mũi giáo đâm, như đầu bị cháy,
40
Sakkāyadiṭṭhippahānāya, sato bhikkhu paribbajeti;
A mindful bhikkhu should wander forth for the abandoning of identity view (sakkāyadiṭṭhi).”
Tỳ-kheo chánh niệm hãy du hành để đoạn trừ tà kiến thân kiến;
41
Evaṃ kho bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
This, venerable sir, is how it was spoken by the Blessed One.
Bạch chư Tôn giả, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng như vậy.
42
Sattiyā viya omaṭṭho, ḍayhamānova matthake;
Like one struck by a dart, or as if one's head is aflame;
Như bị mũi giáo đâm, như đầu bị cháy,
43
Kāmarāgappahānāya, sato bhikkhu paribbaje –
A mindful bhikkhu should wander forth for the abandoning of sensual desire.
Tỳ-kheo chánh niệm hãy du hành để đoạn trừ dục ái –
44
Sattiyā viya omaṭṭho, ḍayhamānova matthake,
Like one struck by a dart, or as if one's head is aflame;
Như bị mũi giáo đâm, như đầu bị cháy,
45
Sakkāyadiṭṭhippamānāya, sato bhikkhu paribbaje –
A mindful bhikkhu should wander forth for the abandoning of identity view (sakkāyadiṭṭhi).
Tỳ-kheo chánh niệm hãy du hành để đoạn trừ tà kiến thân kiến –
46
Jaṭāsutta
Jaṭā Sutta
Kinh Rối Rắm
47
Pucchā – jaṭāsuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Friend, where, concerning whom, in what context, and how was the Jaṭā Sutta spoken by the Blessed One?
Hỏi – Thưa chư Hiền, kinh Rối Rắm này đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, về ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
48
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante aññataraṃ devataṃ ārabbha bhāsitaṃ, aññatarā bhante devatā bhavagantaṃ etadavoca–
Answer – Venerable sir, it was spoken in Sāvatthī, concerning a certain deity. Venerable sir, a certain deity said this to the Blessed One:
Đáp – Bạch chư Tôn giả, kinh này đã được thuyết giảng ở Sāvatthī, về một vị thiên nhân nọ. Bạch chư Tôn giả, một vị thiên nhân nọ đã bạch với Đức Thế Tôn rằng:
49
‘‘Anto jaṭā bahijaṭā, jaṭāya jaṭitā pajā;
“Inwardly entangled, outwardly entangled, humanity is entangled in a tangle;
“Trong thì rối rắm, ngoài thì rối rắm, chúng sanh bị rối rắm bởi sự rối rắm;
50
Taṃ taṃ gotama pucchāmi, ko imaṃ vijaṭaye jaṭa’’nti–
I ask you, Gotama, who can untangle this tangle?”
Này Gotama, con hỏi ngài, ai có thể gỡ bỏ sự rối rắm này?”
51
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ –
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus:
Bạch chư Tôn giả, trong bối cảnh đó –
52
Sīle patiṭṭhāya naro sapañño, cittaṃ paññañca bhāvayaṃ;
Established in virtue, a discerning person, developing mind and wisdom;
Người có trí tuệ, an trú trong giới, tu tập tâm và tuệ;
53
Ātāpī nipako bhikkhu, so imaṃ vijaṭaye jaṭaṃ.
An ardent, diligent bhikkhu, he can untangle this tangle.
Tỳ-kheo tinh cần, khéo léo, người ấy có thể gỡ bỏ sự rối rắm này.
54
Yesaṃ rāgo ca doso ca, avijjā ca virājitā;
For whom lust, hatred, and ignorance are eradicated;
Những ai tham ái và sân hận, vô minh đã được diệt trừ;
55
Khīṇāsavā arahanto, tesaṃ vijaṭitā jaṭāti;
Arahants whose defilements (āsavas) are destroyed—for them the tangle is untangled.
Những bậc A-la-hán đã tận trừ các lậu hoặc, sự rối rắm của họ đã được gỡ bỏ;
56
Evamādinā bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Venerable sir, it was spoken by the Blessed One in this manner.
Bạch chư Tôn giả, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng như vậy.
57
Sīle patiṭṭhāya naro sapañño, cittaṃ paññañca bhāvayaṃ;
Established in virtue, a discerning person, developing mind and wisdom;
Người có trí tuệ, an trú trong giới, tu tập tâm và tuệ;
58
Ātāpī nipako bhikkhu, so imaṃ vijaṭaye jaṭaṃ–
An ardent, diligent bhikkhu, he can untangle this tangle.
Tỳ-kheo tinh cần, khéo léo, người ấy có thể gỡ bỏ sự rối rắm này –
59
Yesaṃ rāgo ca doso ca, avijjā ca virājitā;
For whom lust, hatred, and ignorance are eradicated;
Những ai tham ái và sân hận, vô minh đã được diệt trừ;
60
Khīṇāsavā arahanto, tesaṃ vijaṭitā jaṭā–
Arahants whose defilements (āsavas) are destroyed—for them the tangle is untangled.
Những bậc A-la-hán đã tận trừ các lậu hoặc, sự rối rắm của họ đã được gỡ bỏ –
61
Yattha nāmañca rūpañca, asesaṃ uparujjhati;
Where name-and-form (nāmarūpa) completely ceases without remainder;
Nơi nào danh và sắc, hoàn toàn chấm dứt không còn sót lại;
62
Paṭighaṃ rūpasaññā ca, etthesā chijjate jaṭā.
And impingement (paṭigha) and perception of form (rūpasaññā)—there this tangle is cut.
Cùng với sự va chạm và tưởng về sắc, tại đó sự rối rắm này bị cắt đứt.
63
Accharāsutta
Accharā Sutta
Kinh Thiên Nữ
64
Pucchā – accharāsuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Friend, where, concerning whom, in what context, and how was the Accharā Sutta spoken by the Blessed One?
Hỏi – Thưa chư Hiền, kinh Thiên Nữ này đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, về ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
65
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante aññataraṃ devaputtaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken in Sāvatthī, concerning a certain devaputta.
Đáp – Bạch chư Tôn giả, kinh này đã được thuyết giảng ở Sāvatthī, về một vị thiên tử nọ.
Aññataro bhante devaputto bhagavantaṃ etadavoca–
Venerable sir, a certain devaputta said this to the Blessed One:
Bạch chư Tôn giả, một vị thiên tử nọ đã bạch với Đức Thế Tôn rằng:
66
‘‘Accharāgaṇasaṅghaṭṭhaṃ, pisāca gaṇasevitaṃ;
“Encountered by hordes of fairies, frequented by hordes of demons;
“Khu rừng hoang vu tên là Mê Hoặc,
67
Vanantaṃ mohanaṃ nāma, kathaṃ yātrā bhavissatī’’ti.
That confusing forest, how will one journey through it?”
Nơi tụ tập nhiều thiên nữ, nơi quỷ thần trú ngụ, làm sao có thể đi qua?”
68
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ–
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus:
Bạch chư Tôn giả, trong bối cảnh đó –
69
‘‘Ujuko nāma so maggo, abhayā nāma sā disā,
“Straight is that path, secure is that direction,
“Con đường đó tên là Thẳng, phương đó tên là Bất Hại,
70
Ratho akūjano nāma, dhammacakkehi saṃyuto.
The chariot is called 'Soundless,' equipped with Dhamma wheels.
Chiếc xe đó tên là Không Kêu, được trang bị bánh xe Pháp.
71
Hirī tassa apālambo, satyassa parivāraṇaṃ;
Conscience (hiri) is its pole, mindfulness (sati) is its enclosure;
Tàm là trục của nó, niệm là sự bao bọc của nó;
72
Dhammāhaṃ sārathiṃ brūmi, sammādiṭṭhi purejavaṃ.
I declare Dhamma to be the charioteer, with right view (sammādiṭṭhi) as the forerunner.
Ta gọi Pháp là người đánh xe, Chánh Kiến dẫn đầu.
73
Yassa etādisaṃ yānaṃ, itthiyā purisassa vā;
Whose vehicle is of this kind, whether woman or man;
Ai có cỗ xe như vậy, dù là nữ hay nam;
74
Sa ve etena yānena, nibbānasseva santike’’ti.
Verily, by this vehicle, one is close to Nibbāna.”
Người ấy chắc chắn sẽ ở gần Niết Bàn với cỗ xe đó.”
75
Evaṃ kho bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Indeed, venerable sir, this was spoken by the Blessed One.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã thuyết giảng như vậy.
76
Accharāgaṇasaṅghuṭṭhaṃ, pisācagaṇasevitaṃ;
Filled with throngs of celestial nymphs, haunted by hosts of devils;
Rừng rậm ấy vang dội tiếng nhóm tiên nữ, được nhóm Dạ Xoa trú ngụ;
77
Vanantaṃ mohanaṃ nāma, kathaṃ yātrā bhavissati–
A bewildering forest—how will the journey proceed?
Nơi rừng mê hoặc ấy, làm sao có thể du hành?
78
Jarāsutta
On Old Age
Kinh Jarā
79
Pucchā – jarāsuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Sutta on Old Age spoken by the Blessed One?
Hỏi – Này chư Hiền, Kinh Jarā đã được Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, liên quan đến ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
80
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante aññataraṃ devataṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī, concerning a certain deity.
Đáp – Bạch Thế Tôn, đã được thuyết giảng tại Sāvatthī, liên quan đến một vị thiên nhân nọ.
Aññatarā bhante devatā bhagavantaṃ etadavoca–
Venerable sir, a certain deity said this to the Blessed One:
Bạch Thế Tôn, một vị thiên nhân nọ đã bạch với Thế Tôn rằng:
81
‘‘Kiṃ su yāva jarā sādhu, kiṃ su sādhu patiṭṭhitaṃ;
“What, pray, is good until old age? What, pray, is well established?
“Điều gì là tốt đẹp cho đến tuổi già, điều gì được thiết lập tốt đẹp?
82
Kiṃ su narānaṃ ratanaṃ, kiṃ su corehi dūhara’’nti.
What, pray, is a jewel for humans? What, pray, is difficult for thieves to steal?”
Điều gì là châu báu của loài người, điều gì không thể bị trộm cướp?”
83
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ–
Venerable sir, in that context, (it was said):
Bạch Thế Tôn, trong bối cảnh ấy,
84
‘‘Sīlaṃ yāva jarā sādhu, saddhā sādhu patiṭṭhitā;
“Virtue, pray, is good until old age; faith, pray, is well established;
“Giới hạnh là tốt đẹp cho đến tuổi già, tín tâm được thiết lập tốt đẹp;
85
Paññā narānaṃ ratanaṃ, puññaṃ corehi dūhara’’nti.
Wisdom is a jewel for humans; merit is difficult for thieves to steal.”
Trí tuệ là châu báu của loài người, phước đức không thể bị trộm cướp.”
86
Evaṃ kho bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Indeed, venerable sir, this was spoken by the Blessed One.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã thuyết giảng như vậy.
87
Kiṃ su yāva jarā sādhu.
What, pray, is good until old age?
Điều gì là tốt đẹp cho đến tuổi già?
88
Kiṃ su sādhu patiṭṭhitaṃ.
What, pray, is well established?
Điều gì được thiết lập tốt đẹp?
89
Kiṃ su narānaṃ ratanaṃ.
What, pray, is a jewel for humans?
Điều gì là châu báu của loài người?
90
Kiṃ su corehi dūharaṃ.
What, pray, is difficult for thieves to steal?
Điều gì không thể bị trộm cướp?
91

Devaputtasaṃyutta

Connected Discourses with Deities

Tương Ưng Thiên Tử

92
Subrahmasutta
On Subrahmā
Kinh Subrahmā
93
Pucchā – tenāvuso bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena subrahmasuttaṃ kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ katañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Subrahmasutta spoken by the Blessed One, the Knower, the Seer, the Arahant, the Perfectly Self-Awakened One?
Hỏi – Này chư Hiền, Kinh Subrahmā đã được Thế Tôn, bậc biết, bậc thấy, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, thuyết giảng ở đâu, liên quan đến ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
Kīdiso ca tattha dhammapaṭiggāhakassa dhammassavanānisaṃso adhigato.
And what was the benefit of hearing the Dhamma attained by the recipient of the Dhamma in that case?
Và quả báo của việc nghe pháp đã được người thọ nhận pháp đạt được ở đó là gì?
94
Vissajjanā – rājagahe bhante subrahmadevaputtaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Rājagaha, concerning the deity Subrahmā.
Đáp – Bạch Thế Tôn, đã được thuyết giảng tại Rājagaha, liên quan đến thiên tử Subrahmā.
Subrahmā bhante devaputto maraṇabhayabhīto bhagavantaṃ upasaṅkamitvā etadavoca–
Venerable sir, the deity Subrahmā, terrified by the fear of death, approached the Blessed One and said this:
Bạch Thế Tôn, thiên tử Subrahmā, vì sợ hãi sự chết, đã đến gần Thế Tôn và bạch rằng:
95
‘‘Niccaṃ utrastamidaṃ cittaṃ, niccaṃ ubbiggamidaṃ mano;
“This mind is constantly anxious, this heart is constantly agitated;
“Tâm này thường run sợ, ý này thường hoảng loạn;
96
Anuppannesu kicchesu, atho uppatitesu ca;
Both when troubles have not arisen, and when they have arisen;
Trong những khó khăn chưa phát sinh, và cả những điều đã phát sinh;
97
Sace atthi anutrastaṃ, taṃ me akkhāhi pucchito’’ti–
If there is something fearless, please declare it to me, as I have asked.”
Nếu có điều gì không run sợ, xin Ngài hãy nói cho con khi con đã hỏi.”
98
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ.
Venerable sir, in that context, (it was said):
Bạch Thế Tôn, trong bối cảnh ấy,
99
‘‘Nāññatra bojjā tapasā, nāññatrindriyasaṃvarā;
“Not apart from awakening, not apart from asceticism, not apart from restraint of the faculties;
“Ngoài sự giác ngộ, ngoài sự khổ hạnh, ngoài sự chế ngự các căn;
100
Nāññatra sabbanissaggā, sotthiṃ passāmi pāṇina’’nti.
Not apart from the relinquishment of all, do I see security for living beings.”
Ngoài sự từ bỏ tất cả, ta không thấy sự an ổn cho chúng sinh.”
101
Evaṃ kho bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Indeed, venerable sir, this was spoken by the Blessed One.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã thuyết giảng như vậy.
Desanāpariyosāne ca bhante subrahmassa devaputtassa tasmiṃyeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi, ‘‘yaṃkiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamma’’nti.
And venerable sir, at the conclusion of the discourse, the pure and stainless Eye of Dhamma arose in the deity Subrahmā, right there on that seat, (realizing) “Whatever is of the nature to arise, all that is of the nature to cease.”
Và bạch Thế Tôn, khi bài giảng kết thúc, ngay tại chỗ ngồi ấy, thiên tử Subrahmā đã phát sinh pháp nhãn ly trần, vô cấu, rằng: “Bất cứ pháp gì có tính chất tập khởi, tất cả pháp ấy đều có tính chất đoạn diệt.”
102
Niccaṃ utrastamidaṃ cittaṃ, niccaṃ ubbiggamidaṃ mano;
This mind is constantly anxious, this heart is constantly agitated;
Tâm này thường run sợ, ý này thường hoảng loạn;
103
Anuppannesu kicchesu, atho uppatitesu ca;
Both when troubles have not arisen, and when they have arisen;
Trong những khó khăn chưa phát sinh, và cả những điều đã phát sinh;
104
Sace atthi anutrasta, taṃ me akkhāhi pucchito-hu–
If there is something fearless, please declare it to me, as I have asked.
Nếu có điều gì không run sợ, xin Ngài hãy nói cho con khi con đã hỏi.
105
Nāññatra bojjā tapasā, nāññatrindriyasaṃvarā;
Not apart from awakening, not apart from asceticism, not apart from restraint of the faculties;
Ngoài sự giác ngộ, ngoài sự khổ hạnh, ngoài sự chế ngự các căn;
106
Nāññatra sabbanissaggā, sotthiṃ passāmi pāṇinaṃ–
Not apart from the relinquishment of all, do I see security for living beings.
Ngoài sự từ bỏ tất cả, ta không thấy sự an ổn cho chúng sinh.
107
Rohitassasutta
On Rohitassa
Kinh Rohitassa
108
Pucchā – rohitassasuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Rohitassasutta spoken by the Blessed One?
Hỏi – Này chư Hiền, Kinh Rohitassa đã được Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, liên quan đến ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
109
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante rohitassaṃ devaputtaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī, concerning the deity Rohitassa.
Đáp – Bạch Thế Tôn, đã được thuyết giảng tại Sāvatthī, liên quan đến thiên tử Rohitassa.
Rohitasso bhante devaputto bhagavantaṃ etadavoca ‘‘yattha nu kho bhante na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjati, sakkā nu kho so bhante gamanena lokassa anto ñātuṃ vā daṭṭhuṃ vā pāpuṇituṃ vā’’ti.
Venerable sir, the deity Rohitassa approached the Blessed One and said, “Venerable sir, is it possible to know, see, or reach the end of the world by traveling to where there is no birth, no old age, no death, no passing away, and no reappearance?”
Bạch Thế Tôn, thiên tử Rohitassa đã bạch với Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, nơi nào không sinh, không già, không chết, không chuyển sinh, không tái sinh, liệu có thể đi đến, thấy được hay đạt được tận cùng thế gian bằng cách đi không?”
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ ‘‘yattha kho āvuso na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjati, nāhaṃ taṃ gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ aṭṭheyyaṃ patteyyanti vadāmī’’ti evamādinā bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus: “Friend, I declare that it is not by traveling that one can know, see, or reach the end of the world where there is no birth, no old age, no death, no passing away, and no reappearance,” and so forth.
Bạch Thế Tôn, trong bối cảnh ấy, Thế Tôn đã thuyết giảng bằng những lời như vầy: “Này Hiền giả, nơi nào không sinh, không già, không chết, không chuyển sinh, không tái sinh, ta không nói rằng tận cùng thế gian ấy có thể được biết, được thấy, được đạt đến bằng cách đi.”
110

Kosalasaṃyutta

Connected Discourses with Kosala

Tương Ưng Kosala

111
Daharasutta
On the Young (King)
Kinh Dahara
112
Pucchā – daharasuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Daharasutta spoken by the Blessed One?
Hỏi – Này chư Hiền, Kinh Dahara đã được Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, liên quan đến ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
113
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī, concerning King Pasenadi of Kosala.
Đáp – Bạch Thế Tôn, đã được thuyết giảng tại Sāvatthī, liên quan đến vua Pasenadi nước Kosala.
Rājā bhante pasenadi kosalo yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi, ekamantaṃ nisinno kho bhante rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca ‘‘bhavampi no gotamo ‘anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti paṭijānātī’’ti.
Venerable sir, King Pasenadi of Kosala approached the Blessed One, exchanged greetings with him, and sat down to one side. Having sat down to one side, venerable sir, King Pasenadi of Kosala said this to the Blessed One: “Does the Venerable Gotama also claim, ‘I am fully awakened to unsurpassed perfect self-awakening’?”
Bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala đã đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đã đàm luận thân mật với Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên, bạch với Thế Tôn rằng: “Ngài Gotama đã tuyên bố rằng ‘đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác’ phải không?”
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ ‘‘yañhi taṃ mahārāja sammā vadamānovadeyya ‘anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti, mameva taṃ sammā vadamāno vadeyyā’’ti evamādinā bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus: “Indeed, great king, if one were to speak rightly, one would say, ‘I am fully awakened to unsurpassed perfect self-awakening’,” and so forth.
Bạch Thế Tôn, trong bối cảnh ấy, Thế Tôn đã thuyết giảng bằng những lời như vầy: “Này Đại vương, nếu ai nói đúng rằng ‘đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác’, thì người ấy phải nói về chính ta.”
114
Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano;
Therefore, indeed, a wise person, seeing their own welfare,
Vì vậy, người trí, khi thấy lợi ích cho bản thân;
115
Bhujaṅgamaṃ pāvakañca, khattiyañca yasassinaṃ;
Should properly deal with a snake, fire, and a renowned Khattiya;
Đối với rắn độc, lửa và vị vua vinh hiển;
116
Bhikkhuñca sīlasampannaṃ, sammadeva samācare–
And a monk endowed with virtue.
Và đối với Tỳ-kheo đầy đủ giới hạnh, hãy đối xử đúng đắn.
117
Attarakkhitasutta
On Self-Protection
Kinh Attarakkhita
118
Pucchā – attarakkhitasuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Attarakkhitasutta spoken by the Blessed One?
Hỏi – Này chư Hiền, Kinh Attarakkhita đã được Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, liên quan đến ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
119
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante rājānaṃyeva pasenadiṃ kosalaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī, concerning King Pasenadi of Kosala.
Đáp – Bạch Thế Tôn, đã được thuyết giảng tại Sāvatthī, liên quan đến chính vua Pasenadi nước Kosala.
Rājā bhante pasenadi kosalo bhagavantaṃ upasaṅkamitvā ‘‘idha mayhaṃ bhante rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādī’’ti evamādikaṃ vacanaṃ avoca.
Venerable sir, King Pasenadi of Kosala approached the Blessed One and spoke thus: “Here, venerable sir, as I was alone and secluded, a thought arose in my mind thus…,” and so forth.
Bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala đã đến gần Thế Tôn và bạch những lời như vầy: “Bạch Thế Tôn, khi con ở một mình, ẩn dật, suy nghĩ trong tâm con đã khởi lên như thế này.”
Bhagavā ca bhante evametaṃ mahārāja evametaṃ mahārājāti evamādinā vibhajitvā bhāsitaṃ.
Venerable sir, the Blessed One, having elucidated it thus: “It is so, great king! It is so, great king!”—thus was it spoken.
Và bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã phân tích và thuyết giảng bằng những lời như vầy: “Đúng vậy, Đại vương, đúng vậy, Đại vương.”
120
Kāyena saṃvaro sādhu, sādhu vācāya saṃvaro;
Restraint in body is good; restraint in speech is good;
Chế ngự thân là tốt đẹp, chế ngự lời nói là tốt đẹp;
121
Manasā saṃvaro sādhu, sādhu, sabbattha saṃvaro;
Restraint in mind is good; indeed, restraint everywhere is good;
Chế ngự ý là tốt đẹp, chế ngự tất cả là tốt đẹp;
122
Sabbattha saṃvuto lajjī, rakkhitoti pavuccati.
Restrained everywhere, one who is modest is said to be protected.
Người biết hổ thẹn, được chế ngự khắp nơi, được gọi là người được bảo vệ.
123
Appakasutta
On the Few
Kinh Appaka
124
Pucchā – appakasuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Appakasutta spoken by the Blessed One?
Hỏi – Này chư Hiền, Kinh Appaka đã được Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, liên quan đến ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
125
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante rājānaṃyeva pasenadiṃ kosalaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī, concerning King Pasenadi of Kosala.
Đáp – Bạch Thế Tôn, đã được thuyết giảng tại Sāvatthī, liên quan đến chính vua Pasenadi nước Kosala.
Rājā bhante pasenadi kosalo bhagavantaṃ upasaṅkamitvā ‘‘idha mayhaṃ bhante rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi appakā te sattā lokasmiṃ, ye uḷāre uḷāre bhoge labhitvā na ceva majjanti na ca pamajjanti, na ca kāmesu gedhaṃ āpajjantī’’ti evamādikaṃ vacanaṃ avoca.
Venerable sir, King Pasenadi of Kosala approached the Blessed One and spoke thus: “Here, venerable sir, as I was alone and secluded, a thought arose in my mind thus: ‘Few are those beings in the world who, having obtained vast and abundant enjoyments, neither become intoxicated nor heedless, nor fall into greed for sense pleasures’,” and so forth.
Bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala đã đến gần Thế Tôn và bạch những lời như vầy: “Bạch Thế Tôn, khi con ở một mình, ẩn dật, suy nghĩ trong tâm con đã khởi lên như thế này: ‘Có rất ít chúng sinh trên thế gian này, sau khi đạt được những của cải lớn lao, mà không say đắm, không phóng dật, và không tham đắm các dục lạc.’”
Bhagavā ca bhante ‘‘evametaṃ mahārāja evametaṃ mahārājā’’ti evamādinā appakasuttaṃ bhāsitaṃ.
And venerable sir, the Blessed One spoke the Appakasutta thus: “It is so, great king! It is so, great king!” and so forth.
Và bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã thuyết giảng Kinh Appaka bằng những lời như vầy: “Đúng vậy, Đại vương, đúng vậy, Đại vương.”
126
Mallikāsutta
On Mallikā
Kinh Mallikā
127
Pucchā – mallikāsuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Mallikāsutta spoken by the Blessed One?
Hỏi – Này chư Hiền, Kinh Mallikā đã được Thế Tôn thuyết giảng ở đâu, liên quan đến ai, trong bối cảnh nào và như thế nào?
128
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante rājānaṃyeva pasenadiṃ kosalaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī, concerning King Pasenadi of Kosala.
Đáp – Bạch Thế Tôn, đã được thuyết giảng tại Sāvatthī, liên quan đến chính vua Pasenadi nước Kosala.
Rājā bhante pasenadi kosalo mallikaṃ deviṃ etadavoca ‘‘atthi nu kho te mallike kocañño attanā piyataro’’ti.
Venerable sir, King Pasenadi of Kosala said this to Queen Mallikā: “Mallikā, is there anyone else dearer to you than yourself?”
Bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala đã hỏi hoàng hậu Mallikā rằng: “Này Mallikā, nàng có ai khác thân yêu hơn bản thân mình không?”
Tasmiṃ vatthusmiṃ sabbādisā anuparigamma cetasāti evamādinā bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus: “Having traversed all directions with the mind,” and so forth.
Bạch Thế Tôn, trong bối cảnh ấy, Thế Tôn đã thuyết giảng bằng những lời như vầy: “Sau khi đi khắp mọi phương hướng bằng tâm…”
129
Sabbā disā anuparigamma cetasā, nevajjhagā piyataramattanā kvaci.
Having traversed all directions with the mind, one nowhere found anyone dearer than oneself.
Sau khi đi khắp mọi phương hướng bằng tâm, không tìm thấy ai thân yêu hơn bản thân mình ở bất cứ đâu.
Evaṃ piyo puthu attā paresaṃ, tasmā na hiṃse paramattakāmo–
So dear is the self to others too; therefore, one who loves oneself should not harm another.
Tương tự, bản thân mình cũng rất thân yêu đối với người khác, do đó, người yêu quý bản thân không nên làm hại người khác.
130
Sattajaṭilasutta
On Seven Ascetics with Matted Hair
Kinh Sattajaṭila
131
Pucchā – tenāvuso bhagavatā…pe… sammāsambuddhena sattajaṭilasuttaṃ kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Sattajaṭila Sutta spoken by the Blessed One, the Perfectly Enlightened One?
Câu hỏi – Thưa chư hiền, Đức Thế Tôn…v.v… bậc Chánh Đẳng Giác đã thuyết kinh Bảy Vị Búi Tóc ở đâu, liên quan đến ai, trong trường hợp nào và đã thuyết như thế nào?
132
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante rājānaṃ pasenadiṃ kosalaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī, concerning King Pasenadi of Kosala.
Câu trả lời – Thưa đại đức, kinh này đã được thuyết tại Sāvatthī, liên quan đến vua Pasenadi xứ Kosala.
Rājā bhante pasenadi kosalo acirapakkantesu sattasu ca jaṭilesu sattasu ca nigaṇṭhesu sattasu ca acelakesu sattasu ca ekasāṭakesu sattasu ca paribbājakesu yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi, ekamantaṃ nisinno kho bhante rājā pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca ‘‘ye te bhante loke arahanto vā arahattamaggaṃ vā samāpannā, ete tesaṃ aññatarā’’ti.
Venerable sir, King Pasenadi of Kosala, after seven ascetics with matted hair, seven Nigaṇṭhas, seven naked ascetics, seven ascetics with a single cloth, and seven wandering ascetics had just departed, approached the Blessed One. Having approached, he paid homage to the Blessed One and sat down to one side. As he sat to one side, Venerable sir, King Pasenadi of Kosala said to the Blessed One: "Venerable sir, those who are Arahants in the world, or who have entered the path to Arahantship, these are among them."
Thưa đại đức, vua Pasenadi xứ Kosala, sau khi bảy vị ẩn sĩ búi tóc, bảy vị Nigaṇṭha, bảy vị Acelaka, bảy vị Ekasāṭaka và bảy vị du sĩ vừa rời đi không lâu, đã đến chỗ Đức Thế Tôn, sau khi đến và đảnh lễ Đức Thế Tôn, vua ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên rồi, thưa đại đức, vua Pasenadi xứ Kosala đã thưa với Đức Thế Tôn lời này: “Thưa đại đức, những vị A-la-hán hoặc những vị đã đạt đến đạo quả A-la-hán trên thế gian này, các vị ấy là một trong số họ.”
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ ‘‘dujjānaṃ kho etaṃ mahārāja tayā gihinā kāmabhoginā puttasambādhasayanaṃ ajjhāvasantena kāsiṇacandanaṃ paccanubhontena mālāgandhavilepanaṃ dhārayantena jātarūparajataṃ sādiyantena ‘‘ime vā arahanto, ime vā arahattamaggaṃ samāpannā’’ti evamādinā bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus: "It is difficult, great king, for you, a householder, a consumer of sense pleasures, dwelling in a bed crowded with children, enjoying Kāsi sandalwood, wearing garlands, perfumes, and ointments, and delighting in gold and silver, to know 'these are Arahants, or these have entered the path to Arahantship.'"
Thưa đại đức, trong trường hợp ấy, Đức Thế Tôn đã thuyết như sau: “Này đại vương, thật khó để ngài, một gia chủ sống đời dục lạc, sống trong cảnh con cái đông đúc, hưởng thụ gỗ chiên đàn Kāsī, mang vòng hoa, hương liệu và phấn sáp, chấp nhận vàng bạc, có thể biết được ‘những vị này là A-la-hán, những vị này đã đạt đến đạo quả A-la-hán’,” và những lời tương tự.
133
Na vaṇṇarūpena naro sujāno, na vissase ittaradassanena;
A person is not easily known by outward appearance, nor should one trust a fleeting sight;
Người không dễ được biết qua vẻ bề ngoài, chớ tin vào cái nhìn thoáng qua;
134
Susaññatānañhi viyañjanena, asaññatā lokamimaṃ caranti.
For those unrestrained wander in this world, under the guise of the well-restrained.
Vì những kẻ không tự chế ngự, vẫn đi khắp thế gian này với vẻ tự chế ngự.
135
Patirūpako mattikākuṇḍalova, lohaḍḍhamāsova suvaṇṇachanno;
Like a counterfeit, a clay earring, or a copper coin plated with gold,
Như một chiếc khuyên tai đất sét giả, như một đồng tiền đồng mạ vàng;
136
Caranti loke parivārachannā, anto asuddhā bahisobhamānā-hū
They wander in the world, concealed by their retinue, impure within, but outwardly shining.
Những kẻ bất tịnh bên trong nhưng sáng chói bên ngoài, đi khắp thế gian với vẻ ngoài che đậy.
137
Pañcarājasutta
Pañcarāja Sutta
Kinh Năm Vị Vua
138
Pucchā – pañcarājasuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Pañcarāja Sutta spoken by the Blessed One?
Câu hỏi – Thưa chư hiền, Đức Thế Tôn đã thuyết kinh Năm Vị Vua ở đâu, liên quan đến ai, trong trường hợp nào và đã thuyết như thế nào?
139
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante rājānaṃyeva pasenadiṃ kosalaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī, concerning King Pasenadi of Kosala himself.
Câu trả lời – Thưa đại đức, kinh này đã được thuyết tại Sāvatthī, liên quan đến chính vua Pasenadi xứ Kosala.
Rājā bhante pasenadi kosalo bhagavantaṃ etadavoca ‘‘kiṃ nu kho bhante kāmānaṃ agga’’nti.
Venerable sir, King Pasenadi of Kosala said to the Blessed One: "What, Venerable sir, is the foremost of sense pleasures?"
Thưa đại đức, vua Pasenadi xứ Kosala đã thưa với Đức Thế Tôn lời này: “Thưa đại đức, vậy cái gì là tối thượng của các dục?”
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ ‘‘manāpapariyantaṃ khvāhaṃ mahārāja pañcasu kāmaguṇesu agganti vadāmī’’ti evamādinā bhante bhagavatā bhāsitaṃ.
Venerable sir, in that context, the Blessed One spoke thus: "Great king, I declare that among the five strands of sense pleasure, that which is agreeable is the foremost."
Thưa đại đức, trong trường hợp ấy, Đức Thế Tôn đã thuyết như sau: “Này đại vương, Ta nói rằng sự mãn ý là tối thượng trong năm loại dục lạc,” và những lời tương tự.
140
Idha bhante amhākaṃ pañcannaṃ rājūnaṃ pañcahi kāmaguṇehi samappitānaṃ samaṅgībhūtānaṃ paricārayamānānaṃ ayamantarākathā udapādiṃ ‘kiṃ nu kho kāmānaṃ agga’nti–
Here, Venerable sir, among us five kings, indulging in, endowed with, and enjoying the five strands of sense pleasure, this discussion arose: 'What, indeed, is the foremost of sense pleasures?'
Thưa đại đức, ở đây, giữa năm vị vua chúng tôi, đang hưởng thụ và hòa hợp với năm loại dục lạc, đã nảy sinh cuộc đàm thoại này: ‘Cái gì là tối thượng của các dục?’
141
Padumaṃ yathā kokanadaṃ sugandhaṃ, pāto siyā phullamavītagandhaṃ.
As a fragrant red lotus, blooming in the morning, its scent undiminished.
Như hoa sen kokanada tỏa hương thơm, nở rộ vào buổi sáng với hương thơm không phai.
Aṅgīrasaṃ passa virocamānaṃ, tapantamādiccamivantalikkhe–
Behold Aṅgīrasa shining, like the sun blazing in the sky.
Hãy nhìn bậc Aṅgīrasa rực rỡ, như mặt trời chiếu sáng trên bầu trời.
142
Dutiyaaputtakasutta
Second Aputtaka Sutta
Kinh Người Con Thứ Hai Không Thừa Kế
143
Pucchā – dutiyaaputtakasuttaṃ panāvuso bhagavatā kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Venerable sir, where, concerning whom, in what context, and how was the Second Aputtaka Sutta spoken by the Blessed One?
Câu hỏi – Thưa chư hiền, Đức Thế Tôn đã thuyết kinh Người Con Thứ Hai Không Thừa Kế ở đâu, liên quan đến ai, trong trường hợp nào và đã thuyết như thế nào?
144
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante rājānaṃyeva pasenadiṃ kosalaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī, concerning King Pasenadi of Kosala himself.
Câu trả lời – Thưa đại đức, kinh này đã được thuyết tại Sāvatthī, liên quan đến chính vua Pasenadi xứ Kosala.
Rājā bhante pasenadi kosalo bhagavantaṃ upasaṅkamitvā ‘‘idha bhante sāvatthiyaṃ seṭṭhi gahapati kālaṅkato, tamahaṃ aputtakaṃ sāpateyyaṃ rājantepuraṃ atiharitvā āgacchāmī’’ti evamādikaṃ vacanaṃ avoca.
Venerable sir, King Pasenadi of Kosala approached the Blessed One and spoke these words: "Here, Venerable sir, a wealthy householder in Sāvatthī has passed away childless, and I have just brought his property to the royal palace."
Thưa đại đức, vua Pasenadi xứ Kosala đã đến gặp Đức Thế Tôn và thưa những lời như sau: “Thưa đại đức, ở đây tại Sāvatthī, một phú hộ gia chủ đã qua đời, con đến mang tài sản không người thừa kế đó về cung điện hoàng gia.”
Bhagavā ca bhante ‘‘evametaṃ mahārāja, evametaṃ mahārāja, bhūtapubbaṃ so mahārāja seṭṭhi gahapati taggarasikhiṃ nāma paccekasambuddhaṃ piṇḍapātena paṭipādesī’’ti evamādinā tassa seṭṭhissa gahapatissa atītaṃ vatthuṃ āharitvā pariyosāne catūhi gāthāhi bhāsitaṃ.
And the Blessed One, Venerable sir, having related the past story of that wealthy householder, saying, "So it is, great king, so it is, great king. Formerly, great king, that wealthy householder offered alms-food to a Paccekasambuddha named Taggarasikhī," concluded with four verses.
Thưa đại đức, Đức Thế Tôn đã thuyết: “Đúng vậy, đại vương, đúng vậy, đại vương, thuở xưa, đại vương, phú hộ gia chủ đó đã cúng dường vật thực cho vị Độc Giác Phật tên là Taggarasikhī,” và những lời tương tự, sau khi kể lại câu chuyện quá khứ của phú hộ gia chủ đó, và kết thúc bằng bốn bài kệ.
145
Dhaññaṃ dhanaṃ rajataṃ jātarūpaṃ, pariggahaṃ vāpi yadatthi kiñci,
Grain, wealth, silver, gold, or any possession that exists,
Lúa, tiền, bạc, vàng hay bất cứ tài sản nào khác,
146
Dāsā kammakarā pessā, ye cassa anujīvino.
Slaves, workers, servants, and those who depend on him—
Kẻ nô lệ, người làm công, người hầu, và những ai sống nhờ vào người đó.
147
Sabbaṃ nādāya gantabbaṃ, sabbaṃ nikkhippagāminaṃ;
None of it can be taken along; all must be left behind by the one who departs.
Tất cả đều không thể mang theo, tất cả đều phải bỏ lại khi ra đi;
148
Yañca karoti kāyena, vācāya udacetasā.
But what one does by body, speech, or mind,
Những gì người đó làm bằng thân, bằng lời nói hay bằng ý nghĩ.
149
Tañhi tassa sakaṃ hoti, taṃva ādāya gacchati;
That indeed is one’s own; that one takes along;
Chính điều đó là của riêng người đó, chính điều đó người đó mang theo;
150
Taṃvassa anugaṃ hoti, chāyāva anapāyinī.
That follows one, like a shadow that never departs.
Chính điều đó theo người đó, như bóng không rời.
151
Tasmā kareyya kalyāṇaṃ, nicayaṃ samparāyikaṃ;
Therefore, one should do good, accumulating for the future;
Vì vậy, hãy làm điều thiện, tích lũy cho đời sau;
152
Puññāni paralokasmiṃ, patiṭṭhā honti pāṇinaṃ –
Merits are the support for beings in the other world.
Phước báu ở đời sau, là nơi nương tựa cho chúng sinh.
153

Mārasaṃyutta

Mārasaṃyutta

Tương Ưng Ma Vương

154
Tapokammasutta
Tapokamma Sutta
Kinh Khổ Hạnh
155
Pucchā – tapokammasuttaṃ panāvuso bhagavatā jinena kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Friends, where, concerning whom, on what occasion, and how was the Tapokamma Sutta spoken by the Blessed One, the Conqueror?
Câu hỏi – Thưa chư hiền, Đức Thế Tôn, bậc Toàn Thắng, đã thuyết kinh Khổ Hạnh ở đâu, liên quan đến ai, trong trường hợp nào và đã thuyết như thế nào?
156
Vissajjanā – uruvelāyaṃ bhante māraṃ pāpimantaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Uruvelā concerning Māra, the Evil One.
Câu trả lời – Thưa đại đức, kinh này đã được thuyết tại Uruvelā, liên quan đến Ma vương Ác ma.
Māro bhante pāpimā bhagavantaṃ upasaṅkamitvā gāthāya ajjhabhāsi.
Venerable sir, Māra, the Evil One, having approached the Blessed One, addressed him with a verse.
Thưa đại đức, Ma vương Ác ma đã đến gặp Đức Thế Tôn và nói lên bài kệ.
157
‘‘Tapokammā apakkamma, yena sujjhanti māṇavā;
‘‘Having departed from ascetic practices, by which young men are purified;
“Rời bỏ khổ hạnh, nhờ đó người ta được thanh tịnh;
158
Asuddho maññasi suddho, suddhimaggā aparaddho’’ti.
You, impure, think yourself pure, you have strayed from the path to purity.’’
Ngươi nghĩ mình thanh tịnh trong khi không thanh tịnh, ngươi đã lạc khỏi con đường thanh tịnh.”
159
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ–
Venerable sir, on that occasion–
Thưa đại đức, trong trường hợp ấy –
160
‘‘Anattasaṃhitaṃ ñatvā, yaṃ kiñci amaraṃ tapaṃ;
‘‘Having known that any ascetic practice, though deemed immortal, is not conducive to welfare,
“Biết rằng bất cứ khổ hạnh nào không liên quan đến vô ngã,
161
Sabbaṃ natthāvahaṃ hoti, phiyārittaṃva dhammani;
All of it leads to destruction, like a broken reed in a bellows;
Tất cả đều đưa đến sự hủy diệt, như một cái trống bị thủng;
162
Sīlaṃ samādhi paññañca, maggaṃ bodhāya bhāvayaṃ;
Cultivating morality, concentration, and wisdom, the path to awakening,
Ta tu tập giới, định và tuệ, con đường dẫn đến giác ngộ;
163
Pattosmi paramaṃ suddhiṃ, nihato tvamasi antakā’’ti.
I have attained supreme purity; you, O Destroyer, are vanquished.’’
Ta đã đạt được sự thanh tịnh tối thượng, ngươi, kẻ hủy diệt, đã bị đánh bại.”
164
Evaṃ kho bhante bhagavatā jinena bhāsitaṃ.
Venerable sir, it was thus spoken by the Blessed One, the Conqueror.
Thưa đại đức, Đức Thế Tôn, bậc Toàn Thắng, đã thuyết như vậy.
165
Tapokammā apakkamma, ye na sujjhanti māṇavā;
Having departed from ascetic practices, by which young men are purified;
Rời bỏ khổ hạnh, nhờ đó người ta được thanh tịnh;
166
Asuddho maññasi suddho, suddhimaggā aparaddho–
You, impure, think yourself pure, you have strayed from the path to purity–
Ngươi nghĩ mình thanh tịnh trong khi không thanh tịnh, ngươi đã lạc khỏi con đường thanh tịnh.
167
Anatthasaṃhitaṃ utvā, yaṃkiñci amaraṃ tapaṃ;
Having known that any ascetic practice, though deemed immortal, is not conducive to welfare,
Biết rằng bất cứ khổ hạnh nào không liên quan đến vô ngã,
168
Sabbaṃ natthāvahaṃ hoti, phiyārittaṃva dhammani;
All of it leads to destruction, like a broken reed in a bellows;
Tất cả đều đưa đến sự hủy diệt, như một cái trống bị thủng;
169
Hatthirājavaṇṇasutta
Hatthirājavaṇṇa Sutta
Kinh Hình Dạng Vua Voi
170
Pucchā – hatthirājavaṇṇasuttaṃ panāvuso bhavagatā jinena kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kathañca bhāsitaṃ.
Question – Friends, where, concerning whom, on what occasion, and how was the Hatthirājavaṇṇa Sutta spoken by the Blessed One, the Conqueror?
Câu hỏi – Thưa chư hiền, Đức Thế Tôn, bậc Toàn Thắng, đã thuyết kinh Hình Dạng Vua Voi ở đâu, liên quan đến ai, trong trường hợp nào và đã thuyết như thế nào?
171
Vissajjanā – uruvelāyaṃ bhante mārakaṃyeva pāpimantaṃ ārabbha bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Uruvelā concerning Māra, the Evil One.
Câu trả lời – Thưa đại đức, kinh này đã được thuyết tại Uruvelā, liên quan đến chính Ma vương Ác ma.
Māro bhante pāpimā bhagavato bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo mahantaṃ hatthirājavaṇṇaṃ abhinimminitvā yena bhagavā tenupasaṅkami.
Venerable sir, Māra, the Evil One, desiring to produce fear, terror, and horripilation in the Blessed One, created the form of a great elephant king and approached the Blessed One.
Thưa đại đức, Ma vương Ác ma, muốn làm cho Đức Thế Tôn sợ hãi, run rẩy, dựng tóc gáy, đã hóa ra hình dạng một con vua voi lớn và đến chỗ Đức Thế Tôn.
172
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ–
Venerable sir, on that occasion–
Thưa đại đức, trong trường hợp ấy –
173
‘‘Saṃsaraṃ dīghamaddhānaṃ, vaṇṇaṃ katvā subhāsubhaṃ;
‘‘Wandering for a long time in saṃsāra, creating forms, both beautiful and ugly;
“Lang thang trong luân hồi dài lâu, tạo ra hình tướng tốt và xấu;
174
Alaṃ te tena pāpima, nihato tvamasi antakā’’ti.
Enough of that, O Evil One, you, O Destroyer, are vanquished.’’
Đủ rồi cho ngươi, Ác ma, ngươi, kẻ hủy diệt, đã bị đánh bại.”
175
Evaṃ kho bhante bhagavatā jinena bhāsitaṃ.
Venerable sir, it was thus spoken by the Blessed One, the Conqueror.
Thưa đại đức, Đức Thế Tôn, bậc Toàn Thắng, đã thuyết như vậy.
176
Saṃsaraṃ dīghamaddhānaṃ, vaṇṇaṃ katvā subhāsubhaṃ,
Wandering for a long time in saṃsāra, creating forms, both beautiful and ugly,
Lang thang trong luân hồi dài lâu, tạo ra hình tướng tốt và xấu,
177
Alaṃ te tena pāpima, nihato tvamasi antaka –
Enough of that, O Evil One, you, O Destroyer, are vanquished –
Đủ rồi cho ngươi, Ác ma, ngươi, kẻ hủy diệt, đã bị đánh bại.
178

Bhikkhunīsaṃyutta

Bhikkhunī Saṃyutta

Tương Ưng Tỳ Khưu Ni

179
Āḷavikāsutta
Āḷavikā Sutta
Kinh Āḷavikā
180
Pucchā – idāni āvuso bhikkhunī saṃyuttaṃ pucchāmi, yaṃ tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa sāvikāhi therīhi attano
Question – Friends, now I will ask about the Bhikkhunī Saṃyutta, which was spoken by the female disciples, the Therīs, of that Blessed One, the Arahant, the Perfectly Self-Awakened One,
Câu hỏi – Thưa chư hiền, bây giờ con xin hỏi về Tương Ưng Tỳ Khưu Ni, những lời mà các vị Trưởng lão Tỳ Khưu Ni, đệ tử của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đã thuyết để bày tỏ
181
Ca buddhasāsanassa ca yathābhūtaṃ guṇaṃ pakāsetvā bhāsitaṃ.
Proclaiming the true qualities of themselves and the Buddha’s Dispensation.
Phẩm chất chân thật của chính mình và của giáo pháp của Đức Phật.
Tatthāvuso paṭhamaṃ porāṇakehi mahākassapādīhi dhammasaṃgāhakehi theravarehi saṃgītaṃ āḷavikāsuttaṃ kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kena kathañca bhāsitaṃ.
Friends, where, concerning whom, on what occasion, and by whom and how was the Āḷavikā Sutta, which was first chanted by the ancient great elders, the Dhamma reciters, such as Mahākassapa, spoken?
Trong đó, thưa chư hiền, kinh Āḷavikā, được các vị Trưởng lão vĩ đại như Mahākassapa và những vị kết tập Chánh pháp thời xưa đã kết tập đầu tiên, đã được thuyết ở đâu, liên quan đến ai, trong trường hợp nào và bởi ai, như thế nào?
182
Vissajjanā – sāvatthiyaṃ bhante māraṃ pāpimantaṃ ārabbha āḷavikāya bhikkhuniyā bhāsitaṃ.
Answer – Venerable sir, it was spoken at Sāvatthī by the bhikkhunī Āḷavikā concerning Māra, the Evil One.
Câu trả lời – Thưa đại đức, kinh này đã được thuyết tại Sāvatthī, liên quan đến Ma vương Ác ma, bởi Tỳ Khưu Ni Āḷavikā.
Māro bhante pāpimā āḷavikāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo vivekamhā cāvetukāmo āḷavikaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi–
Venerable sir, Māra, the Evil One, desiring to produce fear, terror, and horripilation in the bhikkhunī Āḷavikā, and to divert her from solitude, addressed the bhikkhunī Āḷavikā with a verse–
Thưa đại đức, Ma vương Ác ma, muốn làm cho Tỳ Khưu Ni Āḷavikā sợ hãi, run rẩy, dựng tóc gáy, muốn làm cho bà rời khỏi sự độc cư, đã nói với Tỳ Khưu Ni Āḷavikā bằng bài kệ –
183
‘‘Natthi nissaraṇaṃ loke, kiṃ vivekena kāhasi;
‘‘There is no escape in the world, what will you do with solitude?
“Không có lối thoát trên thế gian, ngươi sẽ làm gì với sự độc cư?”
184
Bhuñjassa kāmaratiyo, māhu pacchānutāpinī’’ti.
Enjoy sensual pleasures; don't be regretful later."
Hãy hưởng thụ các khoái lạc dục vọng, đừng để sau này phải hối tiếc.”
185
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ–
In that regard, venerable sir—
Thưa chư Tôn giả, trong trường hợp đó –
186
‘‘Atthi nissaraṇaṃ loke, paññāya me suphussitaṃ;
"There is an escape in the world, perfectly grasped by my wisdom;
“Có sự thoát ly trong đời, do tuệ của tôi đã thấu suốt;
187
Pamattabandhu pāpima, na tvaṃ jānāsi taṃ padaṃ;
O Evil One, kinsman of the heedless, you do not know that state;
Hỡi ác ma, bạn của kẻ phóng dật, ngươi không biết cảnh giới đó;
188
Sattisūlūpamā kāmā, khandhāsaṃ adhikuṭṭanā;
Sensual pleasures are like spears and stakes, a hacking up of the aggregates;
Dục vọng như gươm giáo, như cọc nhọn, là sự hành hạ các uẩn;
189
Yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi, arahi mayha sā ahū’’ti.
What you call sensual delight, that was for me disgust."
Điều ngươi gọi là khoái lạc dục vọng, đối với ta đó là sự bất lạc.”
190
Evaṃ kho bhante āḷavikāya bhikkhuniyā bhāsitaṃ.
Thus, venerable sir, was it spoken by the bhikkhuni Āḷavikā.
Thưa chư Tôn giả, Tỳ-khưu-ni Āḷavikā đã nói như vậy.
191
Natthi nissaraṇaṃ loke, kiṃ vivekena kāhasi;
There is no escape in the world; what will you do with seclusion?
Không có sự thoát ly trong đời, ngươi sẽ làm gì với sự độc cư;
192
Bhuñjassu kāmaratiyo, māhu pacchānutāpinī-hu–
Enjoy sensual pleasures; don't be regretful later.
Hãy hưởng thụ các khoái lạc dục vọng, đừng để sau này phải hối tiếc.
193
Atthi nissaraṇaṃ loke, paññāya me suphussitaṃ;
There is an escape in the world, perfectly grasped by my wisdom;
Có sự thoát ly trong đời, do tuệ của tôi đã thấu suốt;
194
Pamattabandhu pāpima, na tvaṃ jānāsi taṃ padaṃ.
O Evil One, kinsman of the heedless, you do not know that state.
Hỡi ác ma, bạn của kẻ phóng dật, ngươi không biết cảnh giới đó.
195
Sattisūlūpamā kāmā, khandhāsaṃ adhikuṭṭanā;
Sensual pleasures are like spears and stakes, a hacking up of the aggregates;
Dục vọng như gươm giáo, như cọc nhọn, là sự hành hạ các uẩn;
196
Yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi, arati mayha sā ahu–
What you call sensual delight, that was for me disgust.
Điều ngươi gọi là khoái lạc dục vọng, đối với ta đó là sự bất lạc.
197
Somāsutta
Somāsutta
Kinh Somā
198
Pucchā – somāsuttaṃ panāvuso kattha kaṃ ārabbha kismiṃ vatthusmiṃ kena kathañca bhāsitaṃ.
Question – Where, friends, was the Somāsutta spoken, concerning whom, on what occasion, and by whom and how?
Hỏi – Thưa chư Hiền giả, Kinh Somā được thuyết ở đâu, đề cập đến ai, trong trường hợp nào, do ai và như thế nào?
199
Vissajjanā – sāvatthiyaṃyeva bhante andhavane māraṃ pāpimantaṃ ārabbha somāya bhikkhuniyā bhāsitaṃ.
Answer – There, venerable sir, at Sāvatthī, in the Andhavana, it was spoken by the bhikkhuni Somā, concerning Māra the Evil One.
Đáp – Thưa chư Tôn giả, Kinh này được Tỳ-khưu-ni Somā thuyết tại Sāvatthī, trong rừng Andhavana, đề cập đến ác ma Māra.
Māro bhante pāpimā somāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo somaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi.
Māra the Evil One, venerable sir, desiring to arouse fear, terror, and goosebumps in the bhikkhuni Somā, desiring to dislodge her from concentration, addressed the bhikkhuni Somā with a verse.
Thưa chư Tôn giả, ác ma Māra muốn gây sợ hãi, run rẩy, dựng tóc gáy cho Tỳ-khưu-ni Somā, muốn làm cho cô ấy rời khỏi định, nên đã nói với Tỳ-khưu-ni Somā bằng bài kệ:
200
‘‘Yaṃ taṃ isīhi pattabbaṃ, ṭhānaṃ durabhisambhavaṃ;
"That state which is to be attained by sages, difficult to achieve;
“Cảnh giới mà các bậc ẩn sĩ đạt được, thật khó khăn để thành tựu;
201
Na taṃ dvaṅgulapaññāya, sakkā pappotumitthiyā’’ti.
It cannot be attained by a woman with two-fingered wisdom."
Một người nữ với trí tuệ hai tấc, không thể đạt đến cảnh giới đó.”
202
Tasmiṃ bhante vatthusmiṃ–
In that regard, venerable sir—
Thưa chư Tôn giả, trong trường hợp đó –
203
‘‘Itthibhāvo kiṃ kayirā, cittamhi susamāhite;
"What can a woman's state do when the mind is well concentrated;
“Thân nữ có thể làm gì, khi tâm đã được định tĩnh tốt đẹp;
204
Ñāṇamhi vattamānamhi, sammā dhammaṃ vipassato;
When wisdom is present, one rightly discerns the Dhamma;
Khi trí tuệ đang vận hành, quán chiếu Chánh Pháp một cách đúng đắn;
205
Yassa nūna siyā evaṃ, itthāhaṃ purisoti vā;
If one should indeed think, 'I am a woman' or 'I am a man';
Kẻ nào còn nghĩ: ‘Tôi là nữ’ hay ‘Tôi là nam’;
206
Kiñci vā pana aññasmi, taṃ māro vattumarahatī’’ti.
Or 'I am something else,' then Māra is fit to address that one."
Hoặc còn nghĩ đến bất cứ điều gì khác, kẻ đó là đối tượng để Māra nói.”
207
Evaṃ kho bhante somāya bhikkhuniyā ariyasāvikāya bhāsitaṃ.
Thus, venerable sir, was it spoken by the noble disciple, the bhikkhuni Somā.
Thưa chư Tôn giả, vị Thánh đệ tử Tỳ-khưu-ni Somā đã nói như vậy.
208
Yaṃ taṃ isīhi pattabbaṃ, ṭhānaṃ durabhisambhavaṃ;
That state which is to be attained by sages, difficult to achieve;
Cảnh giới mà các bậc ẩn sĩ đạt được, thật khó khăn để thành tựu;
209
Na taṃ dvaṅgulapaññāya, sakkā pappotumitthiyā–
It cannot be attained by a woman with two-fingered wisdom.
Một người nữ với trí tuệ hai tấc, không thể đạt đến cảnh giới đó.
210
Itthi bhāvo kiṃ kayirā, cittamhi susamāhite;
What can a woman's state do when the mind is well concentrated;
Thân nữ có thể làm gì, khi tâm đã được định tĩnh tốt đẹp;
211
Ñāṇamhi vatta mānamhi, sammā dhammaṃ vipassato.
When wisdom is present, one rightly discerns the Dhamma.
Khi trí tuệ đang vận hành, quán chiếu Chánh Pháp một cách đúng đắn.
212
Yassa nūna siyā evaṃ, itthāhaṃ purisoti vā;
If one should indeed think, 'I am a woman' or 'I am a man';
Kẻ nào còn nghĩ: ‘Tôi là nữ’ hay ‘Tôi là nam’;
213
Kiñci vā pana aññasmi, taṃ māro vattumarahati.
Or 'I am something else,' then Māra is fit to address that one.
Hoặc còn nghĩ đến bất cứ điều gì khác, kẻ đó là đối tượng để Māra nói.
214
Kisāgotamīsutta
Kisāgotamīsutta
Kinh Kisāgotamī
Next Page →