114. ‘‘Santi, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
Bhikkhus, there are forms cognizable by the eye that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
114. ‘‘Này các Tỳ-khưu, có những sắc pháp do mắt nhận biết, đáng ưa, đáng thích, đáng mến, có hình tướng khả ái, liên hệ đến dục, đáng say đắm.
Tañce, bhikkhu, abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato* , paṭimukkassa mārapāso.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said to have gone to Māra's abode, to have come under Māra's sway; Māra's snare is fastened on him.
Nếu vị tỳ khưu ấy hoan hỷ, tán dương, chấp thủ và an trú vào các sắc ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là đã đi vào trú xứ của Ma vương, đã đi vào quyền lực của Ma vương, đã bị tròng vào thòng lọng của Ma vương.
Baddho so mārabandhanena yathākāmakaraṇīyo pāpimato…pe….
He is bound by Māra's bond; the Evil One may do with him as he wishes…pe….
Vị ấy bị trói buộc bởi sự trói buộc của Ma vương, bị kẻ Ác ý làm theo ý muốn…v.v…
‘‘Santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
Bhikkhus, there are tastes cognizable by the tongue that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
“Này các tỳ khưu, có các vị do lưỡi nhận biết, đáng ước ao, đáng ưa thích, đáng hài lòng, có hình sắc đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng khơi dậy ái luyến.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato, paṭimukkassa mārapāso.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said to have gone to Māra's abode, to have come under Māra's sway; Māra's snare is fastened on him.
Nếu vị tỳ khưu ấy hoan hỷ, tán dương, chấp thủ và an trú vào các vị ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là đã đi vào trú xứ của Ma vương, đã đi vào quyền lực của Ma vương, đã bị tròng vào thòng lọng của Ma vương.
Baddho so mārabandhanena…pe….
He is bound by Māra's bond…pe….
Vị ấy bị trói buộc bởi sự trói buộc của Ma vương…v.v…
‘‘Santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
Bhikkhus, there are mental phenomena cognizable by the mind that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
“Này các tỳ khưu, có các pháp do ý nhận biết, đáng ước ao, đáng ưa thích, đáng hài lòng, có hình sắc đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng khơi dậy ái luyến.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato, paṭimukkassa mārapāso.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said to have gone to Māra's abode, to have come under Māra's sway; Māra's snare is fastened on him.
Nếu vị tỳ khưu ấy hoan hỷ, tán dương, chấp thủ và an trú vào các pháp ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là đã đi vào trú xứ của Ma vương, đã đi vào quyền lực của Ma vương, đã bị tròng vào thòng lọng của Ma vương.
Baddho so mārabandhanena yathākāmakaraṇīyo pāpimato.
He is bound by Māra's bond; the Evil One may do with him as he wishes.
Vị ấy bị trói buộc bởi sự trói buộc của Ma vương, bị kẻ Ác ý làm theo ý muốn.
‘‘Santi ca kho, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
But, bhikkhus, there are forms cognizable by the eye that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
“Và này các tỳ khưu, có các sắc do mắt nhận biết, đáng ước ao, đáng ưa thích, đáng hài lòng, có hình sắc đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng khơi dậy ái luyến.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said not to have gone to Māra's abode, not to have come under Māra's sway; Māra's snare is loosened from him.
Nếu vị tỳ khưu ấy không hoan hỷ, không tán dương, không chấp thủ và an trú vào các sắc ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là không đi vào trú xứ của Ma vương, không đi vào quyền lực của Ma vương, đã tháo gỡ thòng lọng của Ma vương.
Mutto so mārabandhanena na yathākāmakaraṇīyo pāpimato…pe….
He is freed from Māra's bond; the Evil One may not do with him as he wishes…pe….
Vị ấy được giải thoát khỏi sự trói buộc của Ma vương, không bị kẻ Ác ý làm theo ý muốn…v.v…
‘‘Santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
Bhikkhus, there are tastes cognizable by the tongue that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
“Này các tỳ khưu, có các vị do lưỡi nhận biết, đáng ước ao, đáng ưa thích, đáng hài lòng, có hình sắc đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng khơi dậy ái luyến.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said not to have gone to Māra's abode, not to have come under Māra's sway; Māra's snare is loosened from him.
Nếu vị tỳ khưu ấy không hoan hỷ, không tán dương, không chấp thủ và an trú vào các vị ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là không đi vào trú xứ của Ma vương, không đi vào quyền lực của Ma vương, đã tháo gỡ thòng lọng của Ma vương.
Mutto so mārabandhanena na yathākāmakaraṇīyo pāpimato…pe….
He is freed from Māra's bond; the Evil One may not do with him as he wishes…pe….
Vị ấy được giải thoát khỏi sự trói buộc của Ma vương, không bị kẻ Ác ý làm theo ý muốn…v.v…
‘‘Santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
Bhikkhus, there are mental phenomena cognizable by the mind that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
“Này các tỳ khưu, có các pháp do ý nhận biết, đáng ước ao, đáng ưa thích, đáng hài lòng, có hình sắc đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng khơi dậy ái luyến.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said not to have gone to Māra's abode, not to have come under Māra's sway; Māra's snare is loosened from him.
Nếu vị tỳ khưu ấy không hoan hỷ, không tán dương, không chấp thủ và an trú vào các pháp ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là không đi vào trú xứ của Ma vương, không đi vào quyền lực của Ma vương, đã tháo gỡ thòng lọng của Ma vương.
Mutto so mārabandhanena na yathākāmakaraṇīyo pāpimato’’ti.
He is freed from Māra's bond; the Evil One may not do with him as he wishes.”
Vị ấy được giải thoát khỏi sự trói buộc của Ma vương, không bị kẻ Ác ý làm theo ý muốn.”
Paṭhamaṃ.
The First.
(Kinh) thứ nhất.
115. ‘‘Santi, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
“Bhikkhus, there are forms cognizable by the eye that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
115. “Này các tỳ khưu, có các sắc do mắt nhận biết, đáng ước ao, đáng ưa thích, đáng hài lòng, có hình sắc đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng khơi dậy ái luyến.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu baddho cakkhuviññeyyesu rūpesu, āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato, paṭimukkassa mārapāso.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said to be bound by forms cognizable by the eye, to have gone to Māra's abode, to have come under Māra's sway; Māra's snare is fastened on him.
Nếu vị tỳ khưu ấy hoan hỷ, tán dương, chấp thủ và an trú vào các sắc ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là bị trói buộc trong các sắc do mắt nhận biết, đã đi vào trú xứ của Ma vương, đã đi vào quyền lực của Ma vương, đã bị tròng vào thòng lọng của Ma vương.
Baddho so mārabandhanena yathākāmakaraṇīyo pāpimato…pe….
He is bound by Māra's bond; the Evil One may do with him as he wishes…pe….
Vị ấy bị trói buộc bởi sự trói buộc của Ma vương, bị kẻ Ác ý làm theo ý muốn…v.v…
‘‘Santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
Bhikkhus, there are tastes cognizable by the tongue…pe… Bhikkhus, there are mental phenomena cognizable by the mind that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
“Này các tỳ khưu, có các vị do lưỡi nhận biết…v.v… Này các tỳ khưu, có các pháp do ý nhận biết, đáng ước ao, đáng ưa thích, đáng hài lòng, có hình sắc đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng khơi dậy ái luyến.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu baddho manoviññeyyesu dhammesu, āvāsagato mārassa, mārassa vasaṃ gato, paṭimukkassa mārapāso.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said to be bound by mental phenomena cognizable by the mind, to have gone to Māra's abode, to have come under Māra's sway; Māra's snare is fastened on him.
Nếu vị tỳ khưu ấy hoan hỷ, tán dương, chấp thủ và an trú vào các pháp ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là bị trói buộc trong các pháp do ý nhận biết, đã đi vào trú xứ của Ma vương, đã đi vào quyền lực của Ma vương, đã bị tròng vào thòng lọng của Ma vương.
Baddho so mārabandhanena yathākāmakaraṇīyo pāpimato…pe….
He is bound by Māra's bond; the Evil One may do with him as he wishes…pe….
Vị ấy bị trói buộc bởi sự trói buộc của Ma vương, bị kẻ Ác ý làm theo ý muốn…v.v…
‘‘Santi ca kho, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
But, bhikkhus, there are forms cognizable by the eye that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
“Và này các tỳ khưu, có các sắc do mắt nhận biết, đáng ước ao, đáng ưa thích, đáng hài lòng, có hình sắc đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng khơi dậy ái luyến.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu mutto cakkhuviññeyyehi rūpehi, nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said to be freed from forms cognizable by the eye, not to have gone to Māra's abode, not to have come under Māra's sway; Māra's snare is loosened from him.
Nếu vị tỳ khưu ấy không hoan hỷ, không tán dương, không chấp thủ và an trú vào các sắc ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là được giải thoát khỏi các sắc do mắt nhận biết, không đi vào trú xứ của Ma vương, không đi vào quyền lực của Ma vương, đã tháo gỡ thòng lọng của Ma vương.
Mutto so mārabandhanena na yathākāmakaraṇīyo pāpimato…pe….
He is freed from Māra's bond; the Evil One may not do with him as he wishes…pe….
Vị ấy được giải thoát khỏi sự trói buộc của Ma vương, không bị kẻ Ác ý làm theo ý muốn…v.v…
‘‘Santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
Bhikkhus, there are tastes cognizable by the tongue…pe… Bhikkhus, there are mental phenomena cognizable by the mind that are desirable, agreeable, charming, lovely, connected with sensual desires, and enticing.
“Này các tỳ khưu, có các vị do lưỡi nhận biết…v.v… Này các tỳ khưu, có các pháp do ý nhận biết, đáng ước ao, đáng ưa thích, đáng hài lòng, có hình sắc đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng khơi dậy ái luyến.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati – ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu mutto manoviññeyyehi dhammehi, nāvāsagato mārassa, na mārassa vasaṃ gato, ummukkassa mārapāso.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them, that bhikkhu, bhikkhus, is said to be freed from mental phenomena cognizable by the mind, not to have gone to Māra's abode, not to have come under Māra's sway; Māra's snare is loosened from him.
Nếu vị tỳ khưu ấy không hoan hỷ, không tán dương, không chấp thủ và an trú vào các pháp ấy – này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được gọi là được giải thoát khỏi các pháp do ý nhận biết, không đi vào trú xứ của Ma vương, không đi vào quyền lực của Ma vương, đã tháo gỡ thòng lọng của Ma vương.
Mutto so mārabandhanena na yathākāmakaraṇīyo pāpimato’’ti.
He is freed from Māra's bond; the Evil One may not do with him as he wishes.”
Vị ấy được giải thoát khỏi sự trói buộc của Ma vương, không bị kẻ Ác ý làm theo ý muốn.”
Dutiyaṃ.
The Second.
(Kinh) thứ hai.
116. ‘‘Nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ* , patteyyanti vadāmi.
“Bhikkhus, I do not say that by walking one can know, see, or reach the end of the world.
116. “Này các tỳ khưu, Ta không tuyên bố rằng có thể biết, thấy, hay đạt đến tận cùng của thế gian bằng cách đi.
Na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’’ti.
Yet, bhikkhus, I do not proclaim an end to suffering without having reached the end of the world.”
Thế nhưng, này các tỳ khưu, Ta cũng không tuyên bố rằng có thể chấm dứt khổ đau mà không đạt đến tận cùng của thế gian.”
Idaṃ vatvā bhagavā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
Having said this, the Blessed One rose from his seat and entered the monastery.
Sau khi nói điều này, Thế Tôn đứng dậy từ chỗ ngồi và đi vào tịnh xá.
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi – ‘‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi.
Then, not long after the Blessed One had departed, this thought occurred to those bhikkhus: “Friends, the Blessed One, having given us this brief statement of the teaching, without elaborating on its meaning, has risen from his seat and entered the monastery, saying: ‘Bhikkhus, I do not say that by walking one can know, see, or reach the end of the world.
Bấy giờ, không lâu sau khi Thế Tôn rời đi, các tỳ khưu ấy suy nghĩ rằng: “Này chư hiền, Thế Tôn đã nêu lên lời chỉ dạy tóm tắt này cho chúng ta mà không giải thích ý nghĩa một cách chi tiết, rồi đứng dậy từ chỗ ngồi và đi vào tịnh xá: ‘Này các tỳ khưu, Ta không tuyên bố rằng có thể biết, thấy, hay đạt đến tận cùng của thế gian bằng cách đi.
Na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti.
Yet, bhikkhus, I do not proclaim an end to suffering without having reached the end of the world.’
Thế nhưng, này các tỳ khưu, Ta cũng không tuyên bố rằng có thể chấm dứt khổ đau mà không đạt đến tận cùng của thế gian’.
Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’’ti?
Now, who might elaborate on the meaning of this brief statement of the teaching given by the Blessed One, the meaning of which has not been elaborated upon?”
Vậy ai có thể giải thích chi tiết ý nghĩa của lời chỉ dạy tóm tắt này đã được Thế Tôn nêu lên mà chưa được giải thích chi tiết?”
‘‘Idaṃ kho no, āvuso ānanda, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi.
“Friends Ānanda, the Blessed One, having given us this brief statement of the teaching, without elaborating on its meaning, has risen from his seat and entered the monastery, saying: ‘Bhikkhus, I do not say that by walking one can know, see, or reach the end of the world.
“Này hiền giả Ānanda, Thế Tôn đã nêu lên lời chỉ dạy tóm tắt này cho chúng tôi mà không giải thích ý nghĩa một cách chi tiết, rồi đứng dậy từ chỗ ngồi và đi vào tịnh xá: ‘Này các tỳ khưu, Ta không tuyên bố rằng có thể biết, thấy, hay đạt đến tận cùng của thế gian bằng cách đi.
Na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti.
Yet, bhikkhus, I do not proclaim an end to suffering without having reached the end of the world.’
Thế nhưng, này các tỳ khưu, Ta cũng không tuyên bố rằng có thể chấm dứt khổ đau mà không đạt đến tận cùng của thế gian’.
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi – ‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi.
Friends, it occurred to us, after the Blessed One had not long departed: ‘The Blessed One, friends, has given a brief discourse and, without elaborating on its meaning, has risen from his seat and entered the monastery, saying: “Monks, I do not say that the end of the world can be known, seen, or reached by going.
Này chư hiền, sau khi Thế Tôn vừa mới rời đi, chúng tôi đã nghĩ rằng: ‘Này chư hiền, Thế Tôn đã thuyết giảng một bài giáo huấn vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa chi tiết, rồi Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá – “Này chư Tỳ-kheo, Ta không nói rằng có thể biết, thấy, hay đạt đến tận cùng thế giới bằng cách đi.
Na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmīti.
Nor do I say, monks, that there is an end of suffering without reaching the end of the world.”
Và này chư Tỳ-kheo, Ta cũng không nói rằng có thể chấm dứt khổ đau mà không đạt đến tận cùng thế giới.”
Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti?
Who now might elaborate on the meaning of this brief discourse given by the Blessed One, the meaning of which was not elaborated on in detail?’
Ai có thể phân tích ý nghĩa chi tiết của bài giáo huấn vắn tắt này mà Thế Tôn đã thuyết giảng nhưng chưa phân tích chi tiết ý nghĩa?’
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ etadahosi – ‘ayaṃ kho, āvuso, āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Friends, it occurred to us: ‘Friends, this Venerable Ānanda is praised by the Teacher and esteemed by discerning fellow meditators.
Này chư hiền, chúng tôi đã nghĩ rằng: ‘Này chư hiền, Tôn giả Ānanda đã được Thế Tôn tán thán, và được các Phạm hạnh có trí tuệ coi trọng.
Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
The Venerable Ānanda is capable of elaborating on the meaning of this brief discourse given by the Blessed One, the meaning of which was not elaborated on in detail.
Tôn giả Ānanda có khả năng phân tích chi tiết ý nghĩa của bài giáo huấn vắn tắt này mà Thế Tôn đã thuyết giảng nhưng chưa phân tích chi tiết ý nghĩa.
Yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti.
Let us approach the Venerable Ānanda and ask him about this matter.’
Vậy chúng ta hãy đến chỗ Tôn giả Ānanda, và sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ānanda về vấn đề này.’
Vibhajatāyasmā ānando’’ti.
Let the Venerable Ānanda elaborate!”
Xin Tôn giả Ānanda hãy phân tích.”
‘‘Seyyathāpi, āvuso, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva, mūlaṃ atikkammeva, khandhaṃ sākhāpalāse sāraṃ pariyesitabbaṃ maññeyya; evaṃ sampadamidaṃ āyasmantānaṃ satthari sammukhībhūte taṃ bhagavantaṃ atisitvā amhe etamatthaṃ paṭipucchitabbaṃ maññatha* .
“Friends, it is just as if a man in search of heartwood, seeking heartwood, looking for heartwood, were to pass over a large, standing tree possessing heartwood, pass over its root, pass over its trunk, and think he should search for heartwood among its branches and leaves. Just so, venerable ones, is this matter for you, thinking it proper to question us, having bypassed the Blessed One, while the Teacher is present before you.
“Này chư hiền, ví như một người cần lõi cây, tìm kiếm lõi cây, đi tìm lõi cây, lại bỏ qua gốc cây, bỏ qua thân cây của một cây đại thọ có lõi, mà lại nghĩ rằng cần phải tìm lõi cây ở cành lá. Cũng vậy, chư Tôn giả đã bỏ qua Thế Tôn, khi Ngài đang hiện diện, mà lại nghĩ rằng cần phải hỏi chúng tôi về vấn đề này.
So hāvuso, bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati – cakkhubhūto, ñāṇabhūto, dhammabhūto, brahmabhūto, vattā, pavattā, atthassa ninnetā, amatassa dātā, dhammassāmī, tathāgato.
For, friends, the Blessed One knows what is to be known, sees what is to be seen—He is the Eye, He is Knowledge, He is Dhamma, He is Brahmā, the Speaker, the Expounder, the Guide to the Goal, the Giver of the Deathless, the Lord of Dhamma, the Tathāgata.
Này chư hiền, Thế Tôn là Đấng biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy – Ngài là Mắt, là Trí tuệ, là Pháp, là Phạm thiên, là Đấng thuyết giảng, là Đấng khởi xướng, là Đấng dẫn dắt đến mục đích, là Đấng ban cho bất tử, là Đấng chủ tể của Pháp, là Như Lai.
So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyātha.
It was indeed the proper time for you to question the Blessed One Himself about this matter.
Đó chính là thời điểm thích hợp để chư vị hỏi Thế Tôn về vấn đề này.
Yathā vo bhagavā byākareyya tathā vo dhāreyyāthā’’ti.
As the Blessed One would explain to you, so should you remember it.”
Chư vị hãy ghi nhớ những gì Thế Tôn đã giải thích cho chư vị.”
‘‘Addhāvuso ānanda, bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati – cakkhubhūto, ñāṇabhūto, dhammabhūto, brahmabhūto, vattā, pavattā, atthassa ninnetā, amatassa dātā, dhammassāmī, tathāgato.
“Indeed, friend Ānanda, the Blessed One knows what is to be known, sees what is to be seen—He is the Eye, He is Knowledge, He is Dhamma, He is Brahmā, the Speaker, the Expounder, the Guide to the Goal, the Giver of the Deathless, the Lord of Dhamma, the Tathāgata.
“Này Tôn giả Ānanda, chắc chắn Thế Tôn là Đấng biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy – Ngài là Mắt, là Trí tuệ, là Pháp, là Phạm thiên, là Đấng thuyết giảng, là Đấng khởi xướng, là Đấng dẫn dắt đến mục đích, là Đấng ban cho bất tử, là Đấng chủ tể của Pháp, là Như Lai.
So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyāma.
It was indeed the proper time for us to question the Blessed One Himself about this matter.
Đó chính là thời điểm thích hợp để chúng tôi hỏi Thế Tôn về vấn đề này.
Yathā no bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāma.
As the Blessed One would explain to us, so would we remember it.
Chúng tôi sẽ ghi nhớ những gì Thế Tôn đã giải thích cho chúng tôi.
Api cāyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
But still, friend Ānanda is praised by the Teacher and esteemed by discerning fellow meditators.
Tuy nhiên, Tôn giả Ānanda đã được Thế Tôn tán thán, và được các Phạm hạnh có trí tuệ coi trọng.
Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
And the Venerable Ānanda is capable of elaborating on the meaning of this brief discourse given by the Blessed One, the meaning of which was not elaborated on in detail.
Tôn giả Ānanda có khả năng phân tích chi tiết ý nghĩa của bài giáo huấn vắn tắt này mà Thế Tôn đã thuyết giảng nhưng chưa phân tích chi tiết ý nghĩa.
Vibhajatāyasmā ānando agaruṃ karitvā’’ti.
Let the Venerable Ānanda elaborate without hesitation.”
Xin Tôn giả Ānanda hãy vui lòng phân tích.”
‘‘Yaṃ kho vo, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi.
“Friends, as for the brief discourse that the Blessed One gave, without elaborating on its meaning, having risen from his seat and entered the monastery, saying: ‘Monks, I do not say that the end of the world can be known, seen, or reached by going.
“Này chư hiền, về bài giáo huấn vắn tắt mà Thế Tôn đã thuyết giảng, không phân tích ý nghĩa chi tiết, rồi Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá – ‘Này chư Tỳ-kheo, Ta không nói rằng có thể biết, thấy, hay đạt đến tận cùng thế giới bằng cách đi.
Na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti, imassa khvāhaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ ājānāmi.
Nor do I say, monks, that there is an end of suffering without reaching the end of the world’—I understand the meaning of this brief discourse given by the Blessed One, the meaning of which was not elaborated on in detail, as follows, friends.
Và này chư Tỳ-kheo, Ta cũng không nói rằng có thể chấm dứt khổ đau mà không đạt đến tận cùng thế giới’ – tôi hiểu ý nghĩa chi tiết của bài giáo huấn vắn tắt này mà Thế Tôn đã thuyết giảng nhưng chưa phân tích chi tiết ý nghĩa như sau.
Yena kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī – ayaṃ vuccati ariyassa vinaye loko.
Friends, that by which one perceives the world and conceives of the world in the world—this is called ‘the world’ in the Noble One’s discipline.
Này chư hiền, cái gì mà trong thế gian một người có thế gian tưởng, có thế gian kiến – cái đó được gọi là thế gian trong Giới luật của bậc Thánh.
Kena cāvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī?
And by what, friends, does one perceive the world and conceive of the world in the world?
Và này chư hiền, do cái gì mà trong thế gian một người có thế gian tưởng, có thế gian kiến?
Cakkhunā kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī.
Friends, by the eye one perceives the world and conceives of the world in the world.
Này chư hiền, do con mắt mà trong thế gian một người có thế gian tưởng, có thế gian kiến.
Sotena kho, āvuso… ghānena kho, āvuso… jivhāya kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī.
Friends, by the ear... by the nose... by the tongue, friends, one perceives the world and conceives of the world in the world.
Này chư hiền, do tai… do mũi… do lưỡi mà trong thế gian một người có thế gian tưởng, có thế gian kiến.
Kāyena kho, āvuso… manena kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī.
Friends, by the body... by the mind, friends, one perceives the world and conceives of the world in the world.
Này chư hiền, do thân… do ý mà trong thế gian một người có thế gian tưởng, có thế gian kiến.
Yena kho, āvuso, lokasmiṃ lokasaññī hoti lokamānī – ayaṃ vuccati ariyassa vinaye loko.
Friends, that by which one perceives the world and conceives of the world in the world—this is called ‘the world’ in the Noble One’s discipline.
Này chư hiền, cái gì mà trong thế gian một người có thế gian tưởng, có thế gian kiến – cái đó được gọi là thế gian trong Giới luật của bậc Thánh.
Yaṃ kho vo, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi.
Friends, as for the brief discourse that the Blessed One gave, without elaborating on its meaning, having risen from his seat and entered the monastery, saying: ‘Monks, I do not say that the end of the world can be known, seen, or reached by going.
Này chư hiền, về bài giáo huấn vắn tắt mà Thế Tôn đã thuyết giảng, không phân tích ý nghĩa chi tiết, rồi Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá – ‘Này chư Tỳ-kheo, Ta không nói rằng có thể biết, thấy, hay đạt đến tận cùng thế giới bằng cách đi.
Na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti, imassa khvāhaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi.
Nor do I say, monks, that there is an end of suffering without reaching the end of the world’—I understand the meaning of this brief discourse given by the Blessed One, the meaning of which was not elaborated on in detail, in such detail as this.
Và này chư Tỳ-kheo, Ta cũng không nói rằng có thể chấm dứt khổ đau mà không đạt đến tận cùng thế giới’ – tôi hiểu ý nghĩa chi tiết của bài giáo huấn vắn tắt này mà Thế Tôn đã thuyết giảng nhưng chưa phân tích chi tiết ý nghĩa như vậy.
Ākaṅkhamānā ca pana tumhe āyasmanto bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha.
However, venerable ones, if you wish, you may approach the Blessed One Himself and question Him about this matter.
Nếu chư Tôn giả muốn, chư vị có thể đến hỏi Thế Tôn về vấn đề này.
Yathā vo bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāthā’’ti.
As the Blessed One explains it to you, so should you remember it.”
Chư vị hãy ghi nhớ những gì Thế Tôn đã giải thích cho chư vị.”
‘‘Yaṃ kho no, bhante, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi.
“Venerable Sir, as for the brief discourse that the Blessed One gave, without elaborating on its meaning, having risen from his seat and entered the monastery, saying: ‘Monks, I do not say that the end of the world can be known, seen, or reached by going.
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã thuyết giảng một bài giáo huấn vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa chi tiết, rồi Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá – ‘Này chư Tỳ-kheo, Ta không nói rằng có thể biết, thấy, hay đạt đến tận cùng thế giới bằng cách đi.
Na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti.
Nor do I say, monks, that there is an end of suffering without reaching the end of the world.’
Và này chư Tỳ-kheo, Ta cũng không nói rằng có thể chấm dứt khổ đau mà không đạt đến tận cùng thế giới.’
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi – ‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – nāhaṃ, bhikkhave, gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ, daṭṭheyyaṃ, patteyyanti vadāmi.
Venerable Sir, it occurred to us, after the Blessed One had not long departed: ‘Friends, the Blessed One has given a brief discourse and, without elaborating on its meaning, has risen from his seat and entered the monastery, saying: “Monks, I do not say that the end of the world can be known, seen, or reached by going.
Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn vừa mới rời đi, chúng tôi đã nghĩ rằng: ‘Này chư hiền, Thế Tôn đã thuyết giảng một bài giáo huấn vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa chi tiết, rồi Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá – “Này chư Tỳ-kheo, Ta không nói rằng có thể biết, thấy, hay đạt đến tận cùng thế giới bằng cách đi.
Na ca panāhaṃ, bhikkhave, appatvā lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmī’ti.
Nor do I say, monks, that there is an end of suffering without reaching the end of the world.”’
Và này chư Tỳ-kheo, Ta cũng không nói rằng có thể chấm dứt khổ đau mà không đạt đến tận cùng thế giới.”
Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyāti?
Who now might elaborate on the meaning of this brief discourse given by the Blessed One, the meaning of which was not elaborated on in detail?
Ai có thể phân tích ý nghĩa chi tiết của bài giáo huấn vắn tắt này mà Thế Tôn đã thuyết giảng nhưng chưa phân tích chi tiết ý nghĩa?’
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ etadahosi – ‘ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Venerable Sir, it occurred to us: ‘This Venerable Ānanda is praised by the Teacher and esteemed by discerning fellow meditators.
Bạch Thế Tôn, chúng tôi đã nghĩ rằng: ‘Tôn giả Ānanda đã được Thế Tôn tán thán, và được các Phạm hạnh có trí tuệ coi trọng.
Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
The Venerable Ānanda is capable of elaborating on the meaning of this brief discourse given by the Blessed One, the meaning of which was not elaborated on in detail.
Tôn giả Ānanda có khả năng phân tích chi tiết ý nghĩa của bài giáo huấn vắn tắt này mà Thế Tôn đã thuyết giảng nhưng chưa phân tích chi tiết ý nghĩa.
Yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti.
Let us approach the Venerable Ānanda and ask him about this matter.’
Vậy chúng ta hãy đến chỗ Tôn giả Ānanda, và sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ānanda về vấn đề này.’
Atha kho mayaṃ, bhante, yenāyasmā ānando tenupasaṅkamimha; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipucchimha.
Then, Venerable Sir, we approached Venerable Ānanda; having approached, we questioned Venerable Ānanda about this matter.
Bạch ngài, khi ấy chúng con đã đi đến chỗ của Tôn giả Ānanda; sau khi đến, chúng con đã hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa của vấn đề đó.
Tesaṃ no, bhante, āyasmatā ānandena imehi ākārehi imehi padehi imehi byañjanehi attho vibhatto’’ti.
For us, Venerable Sir, Venerable Ānanda explained the meaning in these ways, with these words, and these phrases."
Bạch ngài, Tôn giả Ānanda đã giải thích ý nghĩa cho chúng con bằng những cách thức này, bằng những từ ngữ này, bằng những văn tự này.”
117. ‘‘Pubbeva me, bhikkhave, sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi – ‘yeme pañca kāmaguṇā cetaso samphuṭṭhapubbā atītā niruddhā vipariṇatā, tatra me cittaṃ bahulaṃ gacchamānaṃ gaccheyya paccuppannesu vā appaṃ vā anāgatesu’.
"Monks, before my enlightenment, when I was still an un-enlightened Bodhisatta, it occurred to me: 'Those five sense pleasures that were formerly experienced by the mind, that are past, ceased, and transformed—my mind, if it were to incline, would often incline towards those, or towards present ones, or slightly towards future ones.'
117. “Này các Tỳ khưu, ngay cả trước khi giác ngộ, khi còn là một vị Bồ-tát chưa giác ngộ, Ta đã có suy nghĩ này: ‘Đối với năm dục trưởng dưỡng mà tâm đã từng tiếp xúc, đã qua, đã diệt, đã biến hoại, tâm ta có thể hướng về đó rất nhiều, hoặc đối với những dục trưởng dưỡng trong hiện tại, hoặc ít hơn đối với những dục trưởng dưỡng trong tương lai’.
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘yeme pañca kāmaguṇā cetaso samphuṭṭhapubbā atītā niruddhā vipariṇatā, tatra me attarūpena appamādo sati cetaso ārakkho karaṇīyo’.
Monks, it then occurred to me: 'For those five sense pleasures that were formerly experienced by the mind, that are past, ceased, and transformed—regarding them, I must cultivate heedfulness, mindfulness, and mental guardianship for my own well-being.'
Này các Tỳ khưu, khi ấy Ta đã có suy nghĩ này: ‘Đối với năm dục trưởng dưỡng mà tâm đã từng tiếp xúc, đã qua, đã diệt, đã biến hoại, ta phải thực hành sự không dể duôi, chánh niệm và sự hộ trì tâm đối với chúng, vì lợi ích của chính mình’.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhākampi ye te pañca kāmaguṇā cetaso samphuṭṭhapubbā atītā niruddhā vipariṇatā, tatra vo cittaṃ bahulaṃ gacchamānaṃ gaccheyya paccuppannesu vā appaṃ vā anāgatesu.
Therefore, monks, for you too, those five sense pleasures that were formerly experienced by the mind, that are past, ceased, and transformed—your mind, if it were to incline, would often incline towards those, or towards present ones, or slightly towards future ones.
Do đó, này các Tỳ khưu, trong giáo pháp này, đối với năm dục trưởng dưỡng mà tâm các ngươi đã từng tiếp xúc, đã qua, đã diệt, đã biến hoại, tâm các ngươi có thể hướng về đó rất nhiều, hoặc đối với những dục trưởng dưỡng trong hiện tại, hoặc ít hơn đối với những dục trưởng dưỡng trong tương lai.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhākampi ye te pañca kāmaguṇā cetaso samphuṭṭhapubbā atītā niruddhā vipariṇatā, tatra vo attarūpehi appamādo sati cetaso ārakkho karaṇīyo.
Therefore, monks, for you too, regarding those five sense pleasures that were formerly experienced by the mind, that are past, ceased, and transformed—you must cultivate heedfulness, mindfulness, and mental guardianship for your own well-being.
Do đó, này các Tỳ khưu, trong giáo pháp này, đối với năm dục trưởng dưỡng mà tâm các ngươi đã từng tiếp xúc, đã qua, đã diệt, đã biến hoại, các ngươi phải thực hành sự không dể duôi, chánh niệm và sự hộ trì tâm đối với chúng, vì lợi ích của chính mình.
Tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’’ti.
Therefore, monks, that sphere should be known where the eye ceases and the perception of forms ceases; that sphere should be known... where the tongue ceases and the perception of tastes ceases; that sphere should be known... where the mind ceases and the perception of phenomena ceases; that sphere should be known."
Do đó, này các Tỳ khưu, trong giáo pháp này, cần phải biết xứ ấy, nơi mà mắt diệt và sắc tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy... cho đến... nơi mà lưỡi diệt và vị tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy... cho đến... nơi mà ý diệt và pháp tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy.”
Idaṃ vatvā bhagavā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
Having said this, the Bhagavā rose from his seat and entered the monastery.
Sau khi nói điều này, Đức Thế Tôn đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá.
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi – ‘‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.
Then, soon after the Bhagavā had departed, it occurred to those bhikkhus: "The Bhagavā, friends, having given a brief summary of this point, without elaborating on its meaning, rose from his seat and entered the monastery, saying: 'Therefore, monks, that sphere should be known where the eye ceases and the perception of forms ceases; that sphere should be known... where the tongue ceases and the perception of tastes ceases; that sphere should be known... where the mind ceases and the perception of phenomena ceases; that sphere should be known.'
Khi ấy, không lâu sau khi Đức Thế Tôn rời đi, các Tỳ khưu ấy đã có suy nghĩ này: “Này chư hiền, Đức Thế Tôn đã nêu lên đề mục một cách tóm tắt mà không giải thích ý nghĩa một cách chi tiết, rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá, rằng: ‘Do đó, này các Tỳ khưu, trong giáo pháp này, cần phải biết xứ ấy, nơi mà mắt diệt và sắc tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy... cho đến... nơi mà lưỡi diệt và vị tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy... cho đến... nơi mà ý diệt và pháp tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy’.
Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’’ti?
Now, who might elaborate on the meaning of this brief summary given by the Bhagavā, which was not elaborated upon?"
Ai có thể giải thích chi tiết ý nghĩa của đề mục mà Đức Thế Tôn đã nêu lên một cách tóm tắt mà không giải thích chi tiết này?”
‘‘Idaṃ kho no, āvuso ānanda, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.
"The Bhagavā, friend Ānanda, having given a brief summary of this point, without elaborating on its meaning, rose from his seat and entered the monastery, saying: 'Therefore, monks, that sphere should be known where the eye ceases and the perception of forms ceases; that sphere should be known... where the tongue ceases and the perception of tastes ceases; that sphere should be known... where the mind ceases and the perception of phenomena ceases; that sphere should be known.'
“Này hiền giả Ānanda, Đức Thế Tôn đã nêu lên đề mục một cách tóm tắt mà không giải thích ý nghĩa một cách chi tiết, rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá, rằng: ‘Do đó, này các Tỳ khưu, trong giáo pháp này, cần phải biết xứ ấy, nơi mà mắt diệt và sắc tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy... cho đến... nơi mà lưỡi diệt và vị tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy... cho đến... nơi mà ý diệt và pháp tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy’.
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi – ‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati se āyatane veditabbe…pe… yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.
Soon after the Bhagavā had departed, it occurred to us, friends: 'The Bhagavā, friends, having given a brief summary of this point, without elaborating on its meaning, rose from his seat and entered the monastery, saying: "Therefore, monks, that sphere should be known where the eye ceases and the perception of forms ceases; that sphere should be known... where the tongue ceases and the perception of tastes ceases; that sphere should be known... where the mind ceases and the perception of phenomena ceases; that sphere should be known."
Này hiền giả, không lâu sau khi Đức Thế Tôn rời đi, chúng tôi đã có suy nghĩ này: ‘Này chư hiền, Đức Thế Tôn đã nêu lên đề mục một cách tóm tắt mà không giải thích ý nghĩa một cách chi tiết, rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá, rằng: Do đó, này các Tỳ khưu, trong giáo pháp này, cần phải biết xứ ấy, nơi mà mắt diệt và sắc tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy... cho đến... nơi mà lưỡi diệt và vị tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy... cho đến... nơi mà ý diệt và pháp tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy’.
Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyāti?
Now, who might elaborate on the meaning of this brief summary given by the Bhagavā, which was not elaborated upon?
Ai có thể giải thích chi tiết ý nghĩa của đề mục mà Đức Thế Tôn đã nêu lên một cách tóm tắt mà không giải thích chi tiết này?
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ etadahosi – ‘ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Then it occurred to us, friends: "Indeed, Venerable Ānanda is praised by the Teacher and is esteemed by wise fellow practitioners.
Này hiền giả, khi ấy chúng tôi đã có suy nghĩ này: ‘Tôn giả Ānanda đây được Bậc Đạo Sư tán thán, được các vị đồng phạm hạnh có trí tôn trọng.
Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Venerable Ānanda is capable of elaborating on the meaning of this brief summary given by the Bhagavā, which was not elaborated upon.
Tôn giả Ānanda có khả năng giải thích chi tiết ý nghĩa của đề mục mà Đức Thế Tôn đã nêu lên một cách tóm tắt mà không giải thích chi tiết này.
Yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti.
Let us approach Venerable Ānanda and question him about this matter."'
Chúng ta hãy đi đến chỗ của Tôn giả Ānanda; sau khi đến, chúng ta hãy hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa của vấn đề này’.
Vibhajatāyasmā ānando’’ti.
May Venerable Ānanda explain it."
Mong Tôn giả Ānanda hãy giải thích.”
‘‘Yaṃ kho vo, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.
"Friends, as for that brief summary given by the Bhagavā, without elaborating on its meaning, when he rose from his seat and entered the monastery, saying: 'Therefore, monks, that sphere should be known where the eye ceases and the perception of forms ceases; that sphere should be known... where the mind ceases and the perception of phenomena ceases; that sphere should be known'—
“Này chư hiền, về đề mục mà Đức Thế Tôn đã nêu lên một cách tóm tắt mà không giải thích ý nghĩa một cách chi tiết, rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá, rằng: ‘Do đó, này các Tỳ khưu, trong giáo pháp này, cần phải biết xứ ấy, nơi mà mắt diệt và sắc tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy... cho đến... nơi mà ý diệt và pháp tưởng diệt; cần phải biết xứ ấy’.
Imassa khvāhaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ ājānāmi.
I understand the meaning of this brief summary given by the Bhagavā, which was not elaborated upon, as follows, friends.
Này chư hiền, tôi hiểu ý nghĩa chi tiết của đề mục mà Đức Thế Tôn đã nêu lên một cách tóm tắt mà không giải thích chi tiết này như sau.”
Saḷāyatananirodhaṃ no etaṃ, āvuso, bhagavatā sandhāya bhāsitaṃ – ‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe, yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.
“This, friends, is not what the Blessed One spoke concerning the cessation of the six sense bases: ‘Therefore, bhikkhus, that base is to be known, where the eye ceases and perception of forms ceases; that base is to be known…pe… where the mind ceases and perception of phenomena ceases; that base is to be known.’
Này chư hiền, không phải Thế Tôn đã nói điều này khi đề cập đến sự diệt của sáu xứ: ‘Này các Tỳ khưu, do đó, ở đây, xứ ấy cần được biết, nơi mà nhãn diệt và sắc tưởng diệt, xứ ấy cần được biết… cho đến… nơi mà ý diệt và pháp tưởng diệt, xứ ấy cần được biết’.
Ayaṃ kho, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.
The Blessed One, friends, having given this teaching in brief, without elaborating on its meaning, rose from his seat and entered the monastery, saying: ‘Therefore, bhikkhus, that base is to be known where the eye ceases and perception of forms ceases; that base is to be known…pe… where the mind ceases and perception of phenomena ceases; that base is to be known.’
Này chư hiền, đây là lời chỉ dạy tóm tắt mà Thế Tôn, sau khi nêu lên mà không phân tích ý nghĩa chi tiết, đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá: ‘Này các Tỳ khưu, do đó, ở đây, xứ ấy cần được biết, nơi mà nhãn diệt và sắc tưởng diệt, xứ ấy cần được biết… cho đến… nơi mà ý diệt và pháp tưởng diệt, xứ ấy cần được biết’.
Imassa khvāhaṃ, āvuso, bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi.
I understand the meaning of this brief teaching given by the Blessed One, without elaboration, in this detailed way, friends.
Này chư hiền, đối với lời chỉ dạy tóm tắt này đã được Thế Tôn nêu lên mà không phân tích ý nghĩa chi tiết, tôi hiểu ý nghĩa chi tiết của nó là như vậy.
Ākaṅkhamānā ca pana tumhe āyasmanto bhagavantaṃyeva upasaṅkamatha; upasaṅkamitvā etamatthaṃ puccheyyātha.
If you, venerable ones, wish, you may approach the Blessed One himself; having approached, you may ask him about this matter.
Tuy nhiên, nếu các Tôn giả mong muốn, hãy đến yết kiến chính Thế Tôn; sau khi đến yết kiến, hãy hỏi về ý nghĩa này.
Yathā vo bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāthā’’ti.
As the Blessed One explains it to you, so should you remember it.”
Như Thế Tôn giải thích cho quý vị, hãy ghi nhớ điều đó như vậy.”
‘‘Yaṃ kho no, bhante, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – ‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti, tesaṃ no, bhante, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi – ‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṃkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho – tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe…pe… yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.
“Bhante, the Blessed One gave a teaching in brief, without elaborating on its meaning, then rose from his seat and entered the monastery, saying: ‘Therefore, bhikkhus, that base is to be known where the eye ceases and perception of forms ceases; that base is to be known…pe… where the tongue ceases and perception of tastes ceases; that base is to be known…pe… where the mind ceases and perception of phenomena ceases; that base is to be known.’ Soon after the Blessed One had departed, Bhante, this thought occurred to us: ‘The Blessed One, friends, has given a teaching in brief, without elaborating on its meaning, then rose from his seat and entered the monastery, saying: “Therefore, bhikkhus, that base is to be known where the eye ceases and perception of forms ceases; that base is to be known…pe… where the mind ceases and perception of phenomena ceases; that base is to be known.”’
“Bạch Thế Tôn, lời chỉ dạy tóm tắt mà Thế Tôn, sau khi nêu lên mà không phân tích ý nghĩa chi tiết, đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá là: ‘Này các Tỳ khưu, do đó, ở đây, xứ ấy cần được biết, nơi mà nhãn diệt và sắc tưởng diệt, xứ ấy cần được biết… cho đến… nơi mà thiệt diệt và vị tưởng diệt, xứ ấy cần được biết… cho đến… nơi mà ý diệt và pháp tưởng diệt, xứ ấy cần được biết’. Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, khi Thế Tôn vừa đi khỏi không lâu, ý nghĩ này đã khởi lên: ‘Này chư hiền, đây là lời chỉ dạy tóm tắt mà Thế Tôn, sau khi nêu lên mà không phân tích ý nghĩa chi tiết, đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá: Này các Tỳ khưu, do đó, ở đây, xứ ấy cần được biết, nơi mà nhãn diệt và sắc tưởng diệt, xứ ấy cần được biết… cho đến… nơi mà ý diệt và pháp tưởng diệt, xứ ấy cần được biết’.
‘Ko nu kho imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti?
‘Who, indeed, might elaborate on the meaning of this brief teaching given by the Blessed One, the meaning of which was not elaborated?’
‘Vậy ai có thể phân tích chi tiết ý nghĩa của lời chỉ dạy tóm tắt này đã được Thế Tôn nêu lên mà không phân tích chi tiết?’
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ etadahosi – ‘ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Then, Bhante, this thought occurred to us: ‘Indeed, Venerable Ānanda is praised by the Teacher and is esteemed by wise fellow monks.
Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, ý nghĩ này đã khởi lên: ‘Tôn giả Ānanda đây được Bậc Đạo Sư tán thán, được các vị đồng phạm hạnh có trí tôn trọng.
Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṃkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Venerable Ānanda is capable of elaborating on the meaning of this brief teaching given by the Blessed One, the meaning of which was not elaborated.
Tôn giả Ānanda có khả năng phân tích chi tiết ý nghĩa của lời chỉ dạy tóm tắt này đã được Thế Tôn nêu lên mà không phân tích chi tiết.
Yaṃnūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti.
Let us, then, approach Venerable Ānanda; having approached, let us ask Venerable Ānanda about this matter.’
Hay là chúng ta hãy đi đến chỗ Tôn giả Ānanda; sau khi đến, chúng ta hãy hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa này’.
Atha kho mayaṃ, bhante, yenāyasmā ānando tenupasaṅkamimha; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipucchimha.
So, Bhante, we approached Venerable Ānanda; having approached, we asked Venerable Ānanda about this matter.
Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đã đi đến chỗ Tôn giả Ānanda; sau khi đến, chúng con đã hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa này.
Tesaṃ no, bhante, āyasmatā ānandena imehi ākārehi, imehi padehi, imehi byañjanehi attho vibhatto’’ti.
And Venerable Ānanda, Bhante, explained the meaning to us with these modes, these expressions, these phrases.”
Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ānanda đã phân tích ý nghĩa cho chúng con bằng những cách thức này, những từ cú này, những văn tự này.”
118. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.
At one time, the Blessed One was dwelling in Rājagaha, on Gijjhakūṭa Mountain.
118. Một thời, Thế Tôn trú tại Rājagaha, trên núi Gijjhakūṭa.
Atha kho sakko devānamindo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Then Sakka, king of the devas, approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he stood to one side.
Bấy giờ, Sakka, vua của chư thiên, đi đến nơi Thế Tôn ngự; sau khi đến, vị ấy đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng sang một bên.
Ekamantaṃ ṭhito kho sakko devānamindo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti?
Standing to one side, Sakka, king of the devas, said to the Blessed One: “What, Bhante, is the reason, what is the cause, why some beings here do not attain Nibbāna in this very life?
Đứng sang một bên, Sakka, vua của chư thiên, bạch với Thế Tôn điều này: “Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì mà ở đây, một số chúng sanh không parinibbāna (viên tịch) ngay trong hiện tại?
Ko pana, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti?
And what, Bhante, is the reason, what is the cause, why some beings here do attain Nibbāna in this very life?”
Và bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì mà ở đây, một số chúng sanh parinibbāna (viên tịch) ngay trong hiện tại?”
‘‘Santi kho, devānaminda, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
“There are, O king of devas, forms cognizable by the eye, desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensual desires, and arousing passion.
“Này Devānaminda, có những sắc pháp được nhận biết qua nhãn, khả ái, đáng yêu, đẹp lòng, có hình thức đáng ưa, liên hệ đến dục, đáng tham đắm.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and remains engrossed in them.
Nếu vị Tỳ khưu hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào sắc pháp ấy.
Tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti tadupādānaṃ.
For him, delighting in them, welcoming them, and remaining engrossed in them, consciousness dependent on that arises, connected with clinging.
Đối với vị ấy, người hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào sắc pháp ấy, thức của vị ấy trở nên nương tựa vào đó, có thủ chấp nơi đó.
Saupādāno, devānaminda, bhikkhu no parinibbāyati…pe….
A bhikkhu with clinging, O king of devas, does not attain Nibbāna…pe….
Này Devānaminda, vị Tỳ khưu có thủ chấp thì không parinibbāna… cho đến….
‘‘Santi kho, devānaminda, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi kho, devānaminda, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
“There are, O king of devas, tastes cognizable by the tongue…pe… There are, O king of devas, phenomena cognizable by the mind, desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensual desires, and arousing passion.
“Này Devānaminda, có những vị được nhận biết qua thiệt… cho đến… Này Devānaminda, có những pháp được nhận biết qua ý, khả ái, đáng yêu, đẹp lòng, có hình thức đáng ưa, liên hệ đến dục, đáng tham đắm.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and remains engrossed in them.
Nếu vị Tỳ khưu hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào pháp ấy.
Tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti tadupādānaṃ.
For him, delighting in them, welcoming them, and remaining engrossed in them, consciousness dependent on that arises, connected with clinging.
Đối với vị ấy, người hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào pháp ấy, thức của vị ấy trở nên nương tựa vào đó, có thủ chấp nơi đó.
Saupādāno, devānaminda, bhikkhu no parinibbāyati.
A bhikkhu with clinging, O king of devas, does not attain Nibbāna.
Này Devānaminda, vị Tỳ khưu có thủ chấp thì không parinibbāna.
Ayaṃ kho, devānaminda, hetu, ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti.
This, O king of devas, is the reason, this is the cause, why some beings here do not attain Nibbāna in this very life.”
Này Devānaminda, đây là nhân, đây là duyên mà do đó, ở đây, một số chúng sanh không parinibbāna ngay trong hiện tại.
‘‘Santi ca kho, devānaminda, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
“But there are, O king of devas, forms cognizable by the eye, desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensual desires, and arousing passion.
“Và này Devānaminda, có những sắc pháp được nhận biết qua nhãn, khả ái, đáng yêu, đẹp lòng, có hình thức đáng ưa, liên hệ đến dục, đáng tham đắm.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not remain engrossed in them.
Nếu vị Tỳ khưu không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào sắc pháp ấy.
Tassa taṃ anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato na tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti, na tadupādānaṃ.
For him, not delighting in them, not welcoming them, and not remaining engrossed in them, consciousness dependent on that does not arise, nor is it connected with clinging.
Đối với vị ấy, người không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào sắc pháp ấy, thức của vị ấy không nương tựa vào đó, không có thủ chấp nơi đó.
Anupādāno, devānaminda, bhikkhu parinibbāyati…pe….
A bhikkhu without clinging, O king of devas, attains Nibbāna…pe….
Này Devānaminda, vị Tỳ khưu không có thủ chấp thì parinibbāna… cho đến….
‘‘Santi kho, devānaminda, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi kho, devānaminda, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
“There are, O king of devas, tastes cognizable by the tongue…pe… There are, O king of devas, phenomena cognizable by the mind, desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensual desires, and arousing passion.
“Này Devānaminda, có những vị được nhận biết qua thiệt… cho đến… Này Devānaminda, có những pháp được nhận biết qua ý, khả ái, đáng yêu, đẹp lòng, có hình thức đáng ưa, liên hệ đến dục, đáng tham đắm.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not remain engrossed in them.
Nếu vị Tỳ khưu không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào pháp ấy.
Tassa taṃ anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato na tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti na tadupādānaṃ.
For him, not delighting in them, not welcoming them, and not remaining engrossed in them, consciousness dependent on that does not arise, nor is it connected with clinging.
Đối với vị ấy, người không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào pháp ấy, thức của vị ấy không nương tựa vào đó, không có thủ chấp nơi đó.
Anupādāno, devānaminda, bhikkhu parinibbāyati.
A bhikkhu without clinging, O king of devas, attains Nibbāna.
Này Devānaminda, vị Tỳ khưu không có thủ chấp thì parinibbāna.
Ayaṃ kho, devānaminda, hetu, ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti.
This, O king of devas, is the reason, this is the cause, why some beings here do attain Nibbāna in this very life.”
Này Devānaminda, đây là nhân, đây là duyên mà do đó, ở đây, một số chúng sanh parinibbāna ngay trong hiện tại.”
Pañcamaṃ.
Fifth.
Kinh thứ năm.
119. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.
At one time, the Blessed One was dwelling in Rājagaha, on Gijjhakūṭa Mountain.
119. Một thời, Thế Tôn trú tại Rājagaha, trên núi Gijjhakūṭa.
Atha kho pañcasikho gandhabbadevaputto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Then Pañcasikha, the Gandhabba deva-putta, approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he stood to one side.
Bấy giờ, Pañcasikha, con trai của một vị trời càn-thát-bà, đi đến nơi Thế Tôn ngự; sau khi đến, vị ấy đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng sang một bên.
Ekamantaṃ ṭhito kho pañcasikho gandhabbadevaputto bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti?
Standing to one side, Pañcasikha, the gandhabba divine being, said this to the Blessed One: "What, Bhante, is the reason, what is the cause, by which some beings here do not attain parinibbāna in this very life?
Thiên tử Gandhabba Pañcasikha đứng một bên, thưa với Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào, duyên nào khiến một số chúng sanh ở đây không đạt Niết Bàn ngay trong hiện tại?
Ko pana, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti?
And what, Bhante, is the reason, what is the cause, by which some beings here do attain parinibbāna in this very life?"
Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào, duyên nào khiến một số chúng sanh ở đây đạt Niết Bàn ngay trong hiện tại?”
‘‘Santi kho, pañcasikha, cakkhuviññeyyā rūpā…pe… santi kho, pañcasikha, manoviññeyyā dhammā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
"There are, Pañcasikha, forms cognizable by the eye… and there are, Pañcasikha, phenomena cognizable by the mind, that are desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensuality, and exciting lust.
“Này Pañcasikha, có những sắc pháp được nhận biết bằng mắt… (v.v.)... Này Pañcasikha, có những pháp được nhận biết bằng ý, đáng ưa, khả ái, khả lạc, đáng yêu, liên quan đến dục, và có khả năng lôi kéo.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them,
Nếu một Tỷ-kheo hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào chúng.
Tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti tadupādānaṃ.
for him, delighting in them, welcoming them, and clinging to them, consciousness becomes dependent on them, clinging to them.
Khi vị ấy hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào chúng, thì thức nương tựa vào đó, và sự chấp thủ cũng từ đó mà có.
Saupādāno, pañcasikha, bhikkhu no parinibbāyati.
A bhikkhu with clinging, Pañcasikha, does not attain parinibbāna.
Này Pañcasikha, một Tỷ-kheo còn chấp thủ thì không đạt Niết Bàn.
Ayaṃ kho, pañcasikha, hetu, ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti’’.
This, Pañcasikha, is the reason, this is the cause, by which some beings here do not attain parinibbāna in this very life."
Này Pañcasikha, đây là nguyên nhân, đây là duyên khiến một số chúng sanh ở đây không đạt Niết Bàn ngay trong hiện tại.”
‘‘Santi ca kho, pañcasikha, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā…pe… santi kho, pañcasikha, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
"But there are, Pañcasikha, forms cognizable by the eye that are desirable, agreeable, charming… and there are, Pañcasikha, phenomena cognizable by the mind that are desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensuality, and exciting lust.
“Này Pañcasikha, có những sắc pháp được nhận biết bằng mắt, đáng ưa, khả ái, khả lạc… (v.v.)... Này Pañcasikha, có những pháp được nhận biết bằng ý, đáng ưa, khả ái, khả lạc, đáng yêu, liên quan đến dục, và có khả năng lôi kéo.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati, tassa taṃ anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato na tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti, na tadupādānaṃ.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them, for him, not delighting in them, not welcoming them, and not clinging to them, consciousness does not become dependent on them, nor does it cling to them.
Nếu một Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào chúng, khi vị ấy không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào chúng, thì thức không nương tựa vào đó, và sự chấp thủ cũng không từ đó mà có.
Anupādāno, pañcasikha, bhikkhu parinibbāyati.
A bhikkhu without clinging, Pañcasikha, attains parinibbāna.
Này Pañcasikha, một Tỷ-kheo không chấp thủ thì đạt Niết Bàn.
Ayaṃ kho, pañcasikha, hetu, ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti.
This, Pañcasikha, is the reason, this is the cause, by which some beings here do attain parinibbāna in this very life."
Này Pañcasikha, đây là nguyên nhân, đây là duyên khiến một số chúng sanh ở đây đạt Niết Bàn ngay trong hiện tại.”
Chaṭṭhaṃ.
The Sixth.
Thứ sáu.
‘‘Evametaṃ, āvuso, hoti indriyesu aguttadvārassa, bhojane amattaññuno, jāgariyaṃ ananuyuttassa.
"It is so, friend, for one whose sense doors are unguarded, who is immoderate in eating, who is not devoted to wakefulness.
“Này Hiền giả, điều đó xảy ra đối với người không hộ trì các căn, không tiết độ trong ăn uống, không chuyên cần thức tỉnh.
‘So vatāvuso, bhikkhu indriyesu aguttadvāro bhojane amattaññū jāgariyaṃ ananuyutto yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ santānessatī’ti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
It is not possible, friend, that a bhikkhu whose sense doors are unguarded, who is immoderate in eating, and who is not devoted to wakefulness, will sustain a complete and pure spiritual life for as long as he lives.
‘Này Hiền giả, một Tỷ-kheo không hộ trì các căn, không tiết độ trong ăn uống, không chuyên cần thức tỉnh, có thể duy trì Phạm hạnh trọn vẹn và thanh tịnh suốt đời’— điều đó không thể có được.
‘So vatāvuso, bhikkhu indriyesu guttadvāro, bhojane mattaññū, jāgariyaṃ anuyutto yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ santānessatī’ti ṭhānametaṃ vijjati.
It is possible, friend, that a bhikkhu whose sense doors are guarded, who is moderate in eating, and who is devoted to wakefulness, will sustain a complete and pure spiritual life for as long as he lives.
‘Này Hiền giả, một Tỷ-kheo hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống, chuyên cần thức tỉnh, có thể duy trì Phạm hạnh trọn vẹn và thanh tịnh suốt đời’— điều đó có thể có được.
‘‘Kathañcāvuso, indriyesu guttadvāro hoti?
"And how, friend, is one whose sense doors are guarded?
“Này Hiền giả, thế nào là hộ trì các căn?
Idhāvuso, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī.
Here, friend, a bhikkhu, having seen a form with the eye, does not grasp at its general appearance or its detailed features.
Ở đây, này Hiền giả, một Tỷ-kheo thấy sắc bằng mắt, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati cakkhundriyaṃ, cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati.
Since covetousness and distress, evil unwholesome states, might flow in upon him if the eye faculty were to remain uncontrolled, he practices restraint for its control, he guards the eye faculty, he undertakes the restraint of the eye faculty.
Vì lý do gì mà nhãn căn không được hộ trì, khiến những pháp ác bất thiện như tham ái và ưu phiền có thể xâm nhập vị ấy, nên vị ấy thực hành để chế ngự, bảo vệ nhãn căn, đạt được sự chế ngự nhãn căn.
Sotena saddaṃ sutvā… ghānena gandhaṃ ghāyitvā… jivhāya rasaṃ sāyitvā… kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā… manasā dhammaṃ viññāya na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī.
Having heard a sound with the ear… having smelled an odor with the nose… having tasted a flavor with the tongue… having felt a tangible object with the body… having cognized a phenomenon with the mind, he does not grasp at its general appearance or its detailed features.
Nghe tiếng bằng tai… ngửi hương bằng mũi… nếm vị bằng lưỡi… xúc chạm bằng thân… nhận biết pháp bằng ý, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Yatvādhikaraṇamenaṃ manindriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati manindriyaṃ, manindriye saṃvaraṃ āpajjati.
Since covetousness and distress, evil unwholesome states, might flow in upon him if the mind faculty were to remain uncontrolled, he practices restraint for its control, he guards the mind faculty, he undertakes the restraint of the mind faculty.
Vì lý do gì mà ý căn không được hộ trì, khiến những pháp ác bất thiện như tham ái và ưu phiền có thể xâm nhập vị ấy, nên vị ấy thực hành để chế ngự, bảo vệ ý căn, đạt được sự chế ngự ý căn.
Evaṃ kho, āvuso, indriyesu guttadvāro hoti.
It is in this way, friend, that one's sense doors are guarded.
Này Hiền giả, như vậy là hộ trì các căn.
‘‘Kathañcāvuso, bhojane mattaññū hoti?
"And how, friend, is one moderate in eating?
“Này Hiền giả, thế nào là tiết độ trong ăn uống?
Idhāvuso, bhikkhu paṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ āhāreti – ‘neva davāya, na madāya, na maṇḍanāya, na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya, vihiṃsūparatiyā, brahmacariyānuggahāya.
Here, friend, a bhikkhu reflects wisely and partakes of food, not for amusement, not for intoxication, not for adornment, not for beautification, but only for the support and maintenance of this body, for ending harm, and for aiding the spiritual life.
Ở đây, này Hiền giả, một Tỷ-kheo quán xét kỹ lưỡng rồi thọ dụng thức ăn – ‘không phải để vui chơi, không phải để say đắm, không phải để trang sức, không phải để làm đẹp, mà chỉ để duy trì thân này, để tiếp tục cuộc sống, để chấm dứt sự tổn hại, để hỗ trợ Phạm hạnh.
Iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati, anavajjatā ca phāsuvihāro cā’ti.
'Thus I shall abolish old feelings and not arouse new feelings, and I shall be healthy, blameless, and live in comfort.'
Như vậy, ta sẽ diệt trừ cảm thọ cũ, không làm phát sinh cảm thọ mới, và ta sẽ có sự duy trì, không có lỗi lầm, và sống an lạc’.
Evaṃ kho, āvuso, bhojane mattaññū hoti.
It is in this way, friend, that one is moderate in eating.
Này Hiền giả, như vậy là tiết độ trong ăn uống.
‘‘Kathañcāvuso, jāgariyaṃ anuyutto hoti?
"And how, friend, is one devoted to wakefulness?
“Này Hiền giả, thế nào là chuyên cần thức tỉnh?
Idhāvuso, bhikkhu divasaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti.
Here, friend, during the day, by walking and sitting, a bhikkhu purifies his mind from obstructive mental states.
Ở đây, này Hiền giả, ban ngày, Tỷ-kheo tịnh hóa tâm mình khỏi các pháp chướng ngại bằng cách đi kinh hành và ngồi thiền.
Rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti.
In the first watch of the night, by walking and sitting, he purifies his mind from obstructive mental states.
Trong canh đầu của đêm, vị ấy tịnh hóa tâm mình khỏi các pháp chướng ngại bằng cách đi kinh hành và ngồi thiền.
Rattiyā majjhimaṃ yāmaṃ dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno, uṭṭhānasaññaṃ manasi karitvā.
In the middle watch of the night, he lies down on his right side in the lion's posture, placing one foot on the other, mindful and clearly comprehending, having set his mind on getting up.
Trong canh giữa của đêm, vị ấy nằm xuống theo tư thế sư tử nằm, nghiêng về phía bên phải, đặt chân này lên chân kia, chánh niệm tỉnh giác, tâm niệm đến sự thức dậy.
Rattiyā pacchimaṃ yāmaṃ paccuṭṭhāya caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti.
In the last watch of the night, having arisen, by walking and sitting, he purifies his mind from obstructive mental states.
Trong canh cuối của đêm, vị ấy thức dậy sớm, tịnh hóa tâm mình khỏi các pháp chướng ngại bằng cách đi kinh hành và ngồi thiền.
Evaṃ kho, āvuso, jāgariyaṃ anuyutto hoti.
It is in this way, friend, that one is devoted to wakefulness.
Này Hiền giả, như vậy là chuyên cần thức tỉnh.
Tasmātihāvuso, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘indriyesu guttadvārā bhavissāma, bhojane mattaññuno, jāgariyaṃ anuyuttā’ti.
Therefore, friend, you should train yourselves thus: 'We will be those whose sense doors are guarded, moderate in eating, and devoted to wakefulness.'
Vì vậy, này Hiền giả, các vị nên học tập như sau: ‘Chúng ta sẽ hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống, chuyên cần thức tỉnh’.
Evañhi vo, āvuso, sikkhitabba’’nti.
This is how you should train yourselves, friends."
Này Hiền giả, các vị nên học tập như vậy.”
Sattamaṃ.
The Seventh.
Thứ bảy.
121. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
121. At one time, the Blessed One was staying in Sāvatthī, in Jeta's Grove, Anāthapiṇḍika's monastery.
121. Một thời, Thế Tôn trú tại Sāvatthī, trong khu vườn của Anāthapiṇḍika ở Jetavana.
Atha kho bhagavato rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘‘paripakkā kho rāhulassa vimuttiparipācaniyā dhammā; yaṃnūnāhaṃ rāhulaṃ uttariṃ āsavānaṃ khaye vineyya’’nti.
Then, while the Blessed One was alone in seclusion, this thought arose in his mind: "The qualities leading to Rāhula's liberation are now mature; what if I were to further instruct Rāhula for the destruction of the taints?"
Rồi khi Thế Tôn đang ở một mình, nhập thất, một ý nghĩ khởi lên trong tâm Ngài: “Các pháp làm cho giải thoát của Rāhula đã chín muồi; vậy ta hãy hướng dẫn Rāhula sâu hơn nữa về sự đoạn tận các lậu hoặc.”
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto āyasmantaṃ rāhulaṃ āmantesi – ‘‘gaṇhāhi, rāhula, nisīdanaṃ.
Then, in the morning, the Blessed One dressed, took his bowl and robe, and entered Sāvatthī for alms. After his meal, having returned from his alms round, he addressed Venerable Rāhula: "Take your sitting mat, Rāhula.
Rồi vào buổi sáng, Thế Tôn đắp y, mang bát và y, đi khất thực ở Sāvatthī; sau bữa ăn, khi đã trở về từ chuyến khất thực, Ngài gọi Trưởng lão Rāhula và nói: “Này Rāhula, hãy lấy chỗ ngồi.
Yena andhavanaṃ tenupasaṅkamissāma divāvihārāyā’’ti.
We shall go to the Andhavana for the day's abiding."
Chúng ta sẽ đến rừng Andhavana để an trú ban ngày.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā rāhulo bhagavato paṭissutvā nisīdanaṃ ādāya bhagavantaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhi.
"Yes, Bhante," replied Venerable Rāhula, and taking his sitting mat, he followed behind the Blessed One.
“Vâng, bạch Thế Tôn,” Trưởng lão Rāhula vâng lời Thế Tôn, lấy chỗ ngồi và đi theo sau lưng Thế Tôn.
‘‘Evaṃ passaṃ, rāhula, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati, rūpesupi nibbindati, cakkhuviññāṇepi nibbindati, cakkhusamphassepi nibbindati, yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati…pe… jivhāyapi nibbindati, rasesupi nibbindati, jivhāviññāṇepi nibbindati, jivhāsamphassepi nibbindati, yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati…pe….
‘‘Seeing thus, Rāhula, the instructed noble disciple becomes disenchanted with the eye, disenchanted with forms, disenchanted with eye-consciousness, disenchanted with eye-contact, disenchanted with that which arises dependent on eye-contact—that which is feeling, perception, volitional formations, consciousness…pe… disenchanted with the tongue, disenchanted with tastes, disenchanted with tongue-consciousness, disenchanted with tongue-contact, disenchanted with that which arises dependent on tongue-contact—that which is feeling, perception, volitional formations, consciousness…pe….
“Này Rāhula, khi thấy như vậy, bậc Thánh đệ tử có nghe pháp trở nên nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc, nhàm chán đối với cái gì do duyên nhãn xúc mà sanh khởi, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức… (tương tự)… nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với các vị, nhàm chán đối với lưỡi thức, nhàm chán đối với lưỡi xúc, nhàm chán đối với cái gì do duyên lưỡi xúc mà sanh khởi, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức… (tương tự)…
‘‘Manasmimpi nibbindati, dhammesupi nibbindati, manoviññāṇepi nibbindati, manosamphassepi nibbindati, yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati.
Disenchanted with the mind, disenchanted with mental phenomena, disenchanted with mind-consciousness, disenchanted with mind-contact, disenchanted with that which arises dependent on mind-contact—that which is feeling, perception, volitional formations, consciousness.
nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc, nhàm chán đối với cái gì do duyên ý xúc mà sanh khởi, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức.
Nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.
Being disenchanted, he becomes dispassionate; through dispassion, he is liberated; when liberated, the knowledge arises: ‘Liberated is it’.
Khi nhàm chán, vị ấy ly tham; do ly tham, vị ấy được giải thoát; khi giải thoát, vị ấy có trí tuệ biết rằng mình đã giải thoát.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī’’ti.
He understands: ‘Destroyed is birth, the holy life has been lived, what was to be done has been done, there is no more for this state of being’.”
Vị ấy biết: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa’.”
122. ‘‘Saṃyojaniye ca, bhikkhave, dhamme desessāmi saṃyojanañca.
122. ‘‘Monks, I will teach you the saṃyojanīya dhammas and the saṃyojana itself.
122. “Này các Tỳ-khưu, Ta sẽ giảng cho các ông về các pháp trói buộc (saṃyojaniya) và sự trói buộc (saṃyojana).
Taṃ suṇātha.
Listen to that.
Hãy lắng nghe điều đó.
Katame ca, bhikkhave, saṃyojaniyā dhammā, katamañca saṃyojanaṃ?
And what, monks, are the saṃyojanīya dhammas, and what is the saṃyojana?
Này các Tỳ-khưu, thế nào là các pháp trói buộc, và thế nào là sự trói buộc?
Santi, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
There are, monks, forms cognizable by the eye—agreeable, desirable, charming, lovely, connected with sensual desires, arousing passion.
Này các Tỳ-khưu, có những sắc do mắt nhận biết, đáng ưa, khả ái, khả ý, đáng yêu, liên hệ đến dục, có tính chất lôi cuốn.
Ime vuccanti, bhikkhave, saṃyojaniyā dhammā.
These, monks, are called saṃyojanīya dhammas.
Này các Tỳ-khưu, đây được gọi là các pháp trói buộc.
Yo tattha chandarāgo, taṃ tattha saṃyojanaṃ…pe… santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
That desire and lust (chandarāga) for them, that is the saṃyojana there…pe… There are, monks, tastes cognizable by the tongue…pe… There are, monks, mental phenomena cognizable by the mind—agreeable, desirable, charming, lovely, connected with sensual desires, arousing passion.
Sự tham ái (chandarāga) đối với chúng, đó là sự trói buộc… (tương tự)… Này các Tỳ-khưu, có những vị do lưỡi nhận biết… (tương tự)… Này các Tỳ-khưu, có những pháp do ý nhận biết, đáng ưa, khả ái, khả ý, đáng yêu, liên hệ đến dục, có tính chất lôi cuốn.
Ime vuccanti, bhikkhave, saṃyojaniyā dhammā.
These, monks, are called saṃyojanīya dhammas.
Này các Tỳ-khưu, đây được gọi là các pháp trói buộc.
Yo tattha chandarāgo taṃ tattha saṃyojana’’nti.
That desire and lust (chandarāga) for them, that is the saṃyojana there.’’
Sự tham ái đối với chúng, đó là sự trói buộc.”
Navamaṃ.
The Ninth.
Thứ Chín.
123. ‘‘Upādāniye ca, bhikkhave, dhamme desessāmi upādānañca.
123. ‘‘Monks, I will teach you the upādāniya dhammas and upādāna itself.
123. “Này các Tỳ-khưu, Ta sẽ giảng cho các ông về các pháp chấp thủ (upādāniya) và sự chấp thủ (upādāna).
Taṃ suṇātha.
Listen to that.
Hãy lắng nghe điều đó.
Katame ca, bhikkhave, upādāniyā dhammā, katamañca upādānaṃ?
And what, monks, are the upādāniya dhammas, and what is upādāna?
Này các Tỳ-khưu, thế nào là các pháp chấp thủ, và thế nào là sự chấp thủ?
Santi, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
There are, monks, forms cognizable by the eye—agreeable, desirable, charming, lovely, connected with sensual desires, arousing passion.
Này các Tỳ-khưu, có những sắc do mắt nhận biết, đáng ưa, khả ái, khả ý, đáng yêu, liên hệ đến dục, có tính chất lôi cuốn.
Ime vuccanti, bhikkhave, upādāniyā dhammā.
These, monks, are called upādāniya dhammas.
Này các Tỳ-khưu, đây được gọi là các pháp chấp thủ.
Yo tattha chandarāgo, taṃ tattha upādānaṃ…pe… santi, bhikkhave, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
That desire and lust (chandarāga) for them, that is the upādāna there…pe… There are, monks, tastes cognizable by the tongue…pe… There are, monks, mental phenomena cognizable by the mind—agreeable, desirable, charming, lovely, connected with sensual desires, arousing passion.
Sự tham ái đối với chúng, đó là sự chấp thủ… (tương tự)… Này các Tỳ-khưu, có những vị do lưỡi nhận biết… (tương tự)… Này các Tỳ-khưu, có những pháp do ý nhận biết, đáng ưa, khả ái, khả ý, đáng yêu, liên hệ đến dục, có tính chất lôi cuốn.
Ime vuccanti, bhikkhave, upādāniyā dhammā.
These, monks, are called upādāniya dhammas.
Này các Tỳ-khưu, đây được gọi là các pháp chấp thủ.
Yo tattha chandarāgo taṃ tattha upādāna’’nti.
That desire and lust (chandarāga) for them, that is the upādāna there.’’
Sự tham ái đối với chúng, đó là sự chấp thủ.”
Dasamaṃ.
The Tenth.
Thứ Mười.
124. Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ.
124. On one occasion, the Blessed One was staying in Vesālī, in the Mahāvana, at the Kūṭāgārasālā.
124. Một thời, Thế Tôn trú tại Vesālī, trong Đại Lâm, tại giảng đường có nóc nhọn.
Atha kho uggo gahapati vesāliko yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ nisīdi.
Then Ugga, the householder from Vesālī, approached the Blessed One; having approached, he sat down to one side.
Rồi gia chủ Ugga người Vesālī đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, ông đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho uggo gahapati vesāliko bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti?
Seated to one side, Ugga, the householder from Vesālī, said to the Blessed One: ‘‘What, Venerable Sir, is the reason, what is the cause, why some beings here do not attain final Nibbāna (parinibbāyanti) in this very life?
Ngồi xuống một bên, gia chủ Ugga người Vesālī bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào, duyên cớ nào mà một số chúng sanh ở đây không đạt Niết Bàn ngay trong hiện tại?
Ko pana, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti?
And what, Venerable Sir, is the reason, what is the cause, why some beings here do attain final Nibbāna in this very life?’’
Và bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào, duyên cớ nào mà một số chúng sanh ở đây đạt Niết Bàn ngay trong hiện tại?”
‘‘Santi kho, gahapati, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
“Householder, there are forms cognizable by the eye, desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensual pleasures, and inciting lust.
“Thưa gia chủ, có những sắc (rūpā) khả kiến (cakkhuviññeyyā) đáng ưa (iṭṭhā), khả ái (kantā), khả hỷ (manāpā), khả lạc (piyarūpā), liên hệ đến dục (kāmūpasaṃhitā), và gây nhiễm (rajanīyā).
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them,
Nếu vị Tỷ-kheo hoan hỷ (abhinandati) với chúng, tán thán (abhivadati) chúng, và bám víu (ajjhosāya tiṭṭhati) vào chúng.
Tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti tadupādānaṃ.
then for him, delighting in them, welcoming them, and clinging to them, consciousness becomes dependent on that, with clinging to that.
Khi vị ấy hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào chúng, thì thức (viññāṇaṃ) của vị ấy nương vào chúng (tannissitaṃ) và có sự chấp thủ (tadupādānaṃ).
Saupādāno, gahapati, bhikkhu no parinibbāyati…pe… santi kho, gahapati, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi kho, gahapati, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
A bhikkhu who is with clinging, householder, does not attain final Nibbāna… There are, householder, tastes cognizable by the tongue… There are, householder, phenomena cognizable by the mind, desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensual pleasures, and inciting lust.
Thưa gia chủ, vị Tỷ-kheo có chấp thủ (saupādāno) thì không đạt Niết-bàn (no parinibbāyati)… (tương tự như vậy)… Thưa gia chủ, có những vị (jivhāviññeyyā) khả vị (rasā)… (tương tự như vậy)… Thưa gia chủ, có những pháp (dhammā) khả ý (manoviññeyyā) đáng ưa, khả ái, khả hỷ, khả lạc, liên hệ đến dục, và gây nhiễm.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them,
Nếu vị Tỷ-kheo hoan hỷ với chúng, tán thán chúng, và bám víu vào chúng.
Tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti tadupādānaṃ.
then for him, delighting in them, welcoming them, and clinging to them, consciousness becomes dependent on that, with clinging to that.
Khi vị ấy hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào chúng, thì thức của vị ấy nương vào chúng và có sự chấp thủ.
Saupādāno, gahapati, bhikkhu no parinibbāyati.
A bhikkhu who is with clinging, householder, does not attain final Nibbāna.
Thưa gia chủ, vị Tỷ-kheo có chấp thủ thì không đạt Niết-bàn.
Ayaṃ kho, gahapati, hetu, ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti.
This, householder, is the reason, this is the cause, why some beings here do not attain final Nibbāna in this very life.
Thưa gia chủ, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến một số chúng sinh ở đây không đạt Niết-bàn ngay trong hiện tại.”
‘‘Santi ca kho, gahapati, cakkhuviññeyyā rūpā, iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
“But, householder, there are forms cognizable by the eye, desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensual pleasures, and inciting lust.
“Tuy nhiên, thưa gia chủ, có những sắc khả kiến đáng ưa, khả ái, khả hỷ, khả lạc, liên hệ đến dục, và gây nhiễm.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them,
Nếu vị Tỷ-kheo không hoan hỷ (nābhinandati) với chúng, không tán thán (nābhivadati) chúng, không bám víu (nājjhosāya tiṭṭhati) vào chúng.
Tassa taṃ anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato na tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti, na tadupādānaṃ.
then for him, not delighting in them, not welcoming them, and not clinging to them, consciousness does not become dependent on that, nor with clinging to that.
Khi vị ấy không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào chúng, thì thức của vị ấy không nương vào chúng, và không có sự chấp thủ.
Anupādāno, gahapati, bhikkhu parinibbāyati…pe… santi kho, gahapati, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi kho, gahapati, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
A bhikkhu who is without clinging, householder, attains final Nibbāna… There are, householder, tastes cognizable by the tongue… There are, householder, phenomena cognizable by the mind, desirable, agreeable, charming, pleasing, associated with sensual pleasures, and inciting lust.
Thưa gia chủ, vị Tỷ-kheo không có chấp thủ (anupādāno) thì đạt Niết-bàn (parinibbāyati)… (tương tự như vậy)… Thưa gia chủ, có những vị khả vị… (tương tự như vậy)… Thưa gia chủ, có những pháp khả ý đáng ưa, khả ái, khả hỷ, khả lạc, liên hệ đến dục, và gây nhiễm.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati, tassa taṃ anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them, then for him, not delighting in them, not welcoming them, and not clinging to them,
Nếu vị Tỷ-kheo không hoan hỷ với chúng, không tán thán chúng, không bám víu vào chúng.
Na tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti, na tadupādānaṃ.
consciousness does not become dependent on that, nor with clinging to that.
Thức của vị ấy không nương vào chúng, và không có sự chấp thủ.
Anupādāno, gahapati, bhikkhu parinibbāyati.
A bhikkhu who is without clinging, householder, attains final Nibbāna.
Thưa gia chủ, vị Tỷ-kheo không có chấp thủ thì đạt Niết-bàn.
Ayaṃ kho, gahapati, hetu ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti.
This, householder, is the reason, this is the cause, why some beings here attain final Nibbāna in this very life.”
Thưa gia chủ, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến một số chúng sinh ở đây đạt Niết-bàn ngay trong hiện tại.”
Paṭhamaṃ.
The first discourse is concluded.
Bài kinh thứ nhất.
125. Ekaṃ samayaṃ bhagavā vajjīsu viharati hatthigāme.
125. At one time the Blessed One was staying in the Vajjī country, at Hatthigāma.
125. Một thời, Đức Thế Tôn trú tại Vajjī, ở Hatthigāma.
Atha kho uggo gahapati hatthigāmako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ nisīdi.
Then Ugga, the householder of Hatthigāma, approached the Blessed One; having approached, he sat down to one side.
Rồi gia chủ Ugga ở Hatthigāma đi đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho uggo gahapati hatthigāmako bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ko nu kho, bhante, hetu ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti?
Seated to one side, Ugga, the householder of Hatthigāma, said to the Blessed One: “What, venerable sir, is the reason, what is the cause, why some beings here do not attain final Nibbāna in this very life?
Khi ngồi xuống một bên, gia chủ Ugga ở Hatthigāma bạch Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Ngài, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến một số chúng sinh ở đây không đạt Niết-bàn ngay trong hiện tại?
Ko pana, bhante hetu ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti?
And what, venerable sir, is the reason, what is the cause, why some beings here do attain final Nibbāna in this very life?”
Và bạch Ngài, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến một số chúng sinh ở đây đạt Niết-bàn ngay trong hiện tại?”
(Yathā purimasuttantaṃ, evaṃ vitthāretabbaṃ).
(This should be elaborated as in the previous discourse.)
(Nên trình bày rộng ra như bài kinh trước).
Ayaṃ kho, gahapati, hetu ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantīti.
“This, householder, is the reason, this is the cause, why some beings here attain final Nibbāna in this very life.”
“Thưa gia chủ, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến một số chúng sinh ở đây đạt Niết-bàn ngay trong hiện tại.”
Dutiyaṃ.
The second discourse is concluded.
Bài kinh thứ hai.
126. Ekaṃ samayaṃ bhagavā nāḷandāyaṃ viharati pāvārikambavane.
126. At one time the Blessed One was staying in Nāḷanda, in Pāvārika’s mango grove.
126. Một thời, Đức Thế Tôn trú tại Nāḷanda, trong rừng xoài Pāvārika.
Atha kho, upāli gahapati, yena bhagavā tenupasaṅkami…pe… ekamantaṃ nisinno kho, upāli gahapati, bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti?
Then Upāli, the householder, approached the Blessed One… Seated to one side, Upāli, the householder, said to the Blessed One: “What, venerable sir, is the reason, what is the cause, why some beings here do not attain final Nibbāna in this very life?
Rồi gia chủ Upāli đi đến chỗ Đức Thế Tôn… (tương tự như vậy)… Khi ngồi xuống một bên, gia chủ Upāli bạch Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Ngài, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến một số chúng sinh ở đây không đạt Niết-bàn ngay trong hiện tại?
Ko pana, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti?
And what, venerable sir, is the reason, what is the cause, why some beings here do attain final Nibbāna in this very life?”
Và bạch Ngài, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến một số chúng sinh ở đây đạt Niết-bàn ngay trong hiện tại?”
(Yathā purimasuttantaṃ, evaṃ vitthāretabbaṃ).
(This should be elaborated as in the previous discourse.)
(Nên trình bày rộng ra như bài kinh trước).
Ayaṃ kho, gahapati, hetu ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantīti.
“This, householder, is the reason, this is the cause, why some beings here attain final Nibbāna in this very life.”
“Thưa gia chủ, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến một số chúng sinh ở đây đạt Niết-bàn ngay trong hiện tại.”
Tatiyaṃ.
The third discourse is concluded.
Bài kinh thứ ba.
127. Ekaṃ samayaṃ āyasmā piṇḍolabhāradvājo kosambiyaṃ viharati ghositārāme.
127. At one time Venerable Piṇḍolabhāradvāja was staying in Kosambī, at Ghositārāma.
127. Một thời, Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja trú tại Kosambī, trong tịnh xá Ghositārāma.
Atha kho rājā udeno yenāyasmā piṇḍolabhāradvājo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā piṇḍolabhāradvājena saddhiṃ sammodi.
Then King Udena approached Venerable Piṇḍolabhāradvāja; having approached, he exchanged greetings with Venerable Piṇḍolabhāradvāja.
Rồi vua Udena đi đến chỗ Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja; sau khi đến, vua chào hỏi Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja một cách thân mật.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Having concluded the polite and amiable conversation, he sat down to one side.
Sau khi trao đổi những lời chào hỏi thân mật và đáng nhớ, vua ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho rājā udeno āyasmantaṃ piṇḍolabhāradvājaṃ etadavoca – ‘‘ko nu kho, bho bhāradvāja, hetu ko paccayo yenime daharā bhikkhū susū* kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikīḷitāvino kāmesu yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caranti, addhānañca āpādentī’’ti?
Seated to one side, King Udena said to Venerable Piṇḍolabhāradvāja: “What, Master Bhāradvāja, is the reason, what is the cause, why these young bhikkhus, with fresh black hair, endowed with the fortune of youth, in the prime of life, not having indulged in sensual pleasures before, lead the fully complete and perfectly pure holy life throughout their lives, and also extend it long?”
Khi ngồi xuống một bên, vua Udena bạch Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja rằng: “Thưa Tôn giả Bhāradvāja, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến những vị Tỷ-kheo trẻ tuổi này, tóc còn xanh đen, đang ở độ tuổi thanh xuân tươi đẹp, ở tuổi đời đầu tiên, chưa từng vui đùa với các dục, lại sống phạm hạnh hoàn toàn và thanh tịnh trọn đời, và tiếp nối lâu dài?”
‘‘Vuttaṃ kho etaṃ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena – ‘etha tumhe, bhikkhave, mātumattīsu mātucittaṃ upaṭṭhapetha, bhaginimattīsu bhaginicittaṃ upaṭṭhapetha, dhītumattīsu dhītucittaṃ upaṭṭhapethā’ti.
“This was stated, great king, by the Blessed One, the Knower, the Seer, the Arahant, the Perfectly Self-Enlightened One: ‘Come, bhikkhus, establish the mind of a mother towards those who are like mothers, establish the mind of a sister towards those who are like sisters, establish the mind of a daughter towards those who are like daughters.’
“Thưa Đại vương, điều này đã được Đức Thế Tôn, bậc Toàn Tri, bậc Toàn Giác, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, thuyết giảng rằng: ‘Này các Tỷ-kheo, hãy thiết lập tâm như mẹ đối với những người phụ nữ ở tuổi mẹ, hãy thiết lập tâm như chị em đối với những người phụ nữ ở tuổi chị em, hãy thiết lập tâm như con gái đối với những người phụ nữ ở tuổi con gái’.”
Ayaṃ kho, mahārāja, hetu, ayaṃ paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikīḷitāvino kāmesu yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caranti, addhānañca āpādentī’’ti.
This, great king, is the reason, this is the cause, why these young bhikkhus, with fresh black hair, endowed with the fortune of youth, in the prime of life, not having indulged in sensual pleasures before, lead the fully complete and perfectly pure holy life throughout their lives, and also extend it long.”
“Thưa Đại vương, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến những vị Tỷ-kheo trẻ tuổi này, tóc còn xanh đen, đang ở độ tuổi thanh xuân tươi đẹp, ở tuổi đời đầu tiên, chưa từng vui đùa với các dục, lại sống phạm hạnh hoàn toàn và thanh tịnh trọn đời, và tiếp nối lâu dài.”
‘‘Lolaṃ* kho, bho bhāradvāja, cittaṃ.
“Indeed, Master Bhāradvāja, the mind is fickle.
“Thưa Tôn giả Bhāradvāja, tâm quả là phóng túng.
Appekadā mātumattīsupi lobhadhammā uppajjanti, bhaginimattīsupi lobhadhammā uppajjanti, dhītumattīsupi lobhadhammā uppajjanti.
Sometimes, even towards those who are like mothers, desires arise; even towards those who are like sisters, desires arise; even towards those who are like daughters, desires arise.
Đôi khi, ngay cả đối với những người phụ nữ ở tuổi mẹ, tâm tham dục cũng khởi lên; đối với những người phụ nữ ở tuổi chị em, tâm tham dục cũng khởi lên; đối với những người phụ nữ ở tuổi con gái, tâm tham dục cũng khởi lên.
Atthi nu kho, bho bhāradvāja, añño ca hetu, añño ca paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā…pe… addhānañca āpādentī’’ti?
Is there, Master Bhāradvāja, any other reason, any other cause, why these young bhikkhus, with fresh black hair… and also extend it long?”
Thưa Tôn giả Bhāradvāja, có nguyên nhân nào khác, điều kiện nào khác khiến những vị Tỷ-kheo trẻ tuổi này, tóc còn xanh đen… (tương tự như vậy)… và tiếp nối lâu dài không?”
‘‘Vuttaṃ kho etaṃ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena – ‘etha tumhe, bhikkhave, imameva kāyaṃ uddhaṃ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṃ pūraṃ nānappakārassa asucino paccavekkhatha – atthi imasmiṃ kāye kesā lomā nakhā dantā taco maṃsaṃ nhāru* aṭṭhi aṭṭhimiñjaṃ* vakkaṃ hadayaṃ yakanaṃ kilomakaṃ pihakaṃ papphāsaṃ antaṃ antaguṇaṃ udariyaṃ karīsaṃ pittaṃ semhaṃ pubbo lohitaṃ sedo medo assu vasā kheḷo siṅghāṇikā lasikā mutta’nti.
“This was stated, great king, by the Blessed One, the Knower, the Seer, the Arahant, the Perfectly Self-Enlightened One: ‘Come, bhikkhus, contemplate this very body, from the soles of the feet upwards, from the top of the hair downwards, enclosed by skin, full of various kinds of impurities: there are in this body hair, body-hair, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, bone-marrow, kidneys, heart, liver, diaphragm, spleen, lungs, intestines, intestinal membranes, stomach, excrement, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, grease, saliva, mucus, joint-fluid, urine.’
“Thưa Đại vương, điều này đã được Đức Thế Tôn, bậc Toàn Tri, bậc Toàn Giác, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, thuyết giảng rằng: ‘Này các Tỷ-kheo, các ngươi hãy quán sát chính thân này, từ lòng bàn chân trở lên, từ ngọn tóc trở xuống, bị bao bọc bởi da, chứa đầy những thứ bất tịnh đủ loại – trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy xương, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, dạ dày, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ lỏng, nước miếng, nước mũi, dịch khớp, nước tiểu’.
Ayampi kho, mahārāja, hetu, ayaṃ paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā…pe… addhānañca āpādentī’’ti.
This too, great king, is a reason, this is a cause, why these young bhikkhus, with fresh black hair… and also extend it long.”
Thưa Đại vương, đây cũng là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến những vị Tỷ-kheo trẻ tuổi này, tóc còn xanh đen… (tương tự như vậy)… và tiếp nối lâu dài.”
‘‘Ye te, bho bhāradvāja, bhikkhū bhāvitakāyā bhāvitasīlā bhāvitacittā bhāvitapaññā, tesaṃ taṃ sukaraṃ hoti.
“Those bhikkhus, Master Bhāradvāja, whose bodies are developed, whose morality is developed, whose minds are developed, whose wisdom is developed—for them that is easy.
“Thưa Tôn giả Bhāradvāja, những vị Tỷ-kheo nào đã tu tập thân, tu tập giới, tu tập tâm, tu tập tuệ, thì việc đó dễ dàng đối với họ.
Ye ca kho te, bho bhāradvāja, bhikkhū abhāvitakāyā abhāvitasīlā abhāvitacittā abhāvitapaññā, tesaṃ taṃ dukkaraṃ hoti.
But those bhikkhus, Master Bhāradvāja, whose bodies are not developed, whose morality is not developed, whose minds are not developed, whose wisdom is not developed—for them that is difficult.
Còn những vị Tỷ-kheo nào chưa tu tập thân, chưa tu tập giới, chưa tu tập tâm, chưa tu tập tuệ, thì việc đó khó khăn đối với họ.
Appekadā, bho bhāradvāja, asubhato manasi karissāmīti* subhatova* āgacchati.
Sometimes, Master Bhāradvāja, when one intends to focus on the unbeautiful, it appears as beautiful.
Thưa Tôn giả Bhāradvāja, đôi khi, khi quán tưởng về sự bất tịnh, thì lại hiện ra là sự tịnh.”
Atthi nu kho, bho bhāradvāja, añño ca kho hetu añño ca paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā…pe… addhānañca āpādentī’’ti?
“Is there, Venerable Bhāradvāja, another cause and another condition for these young monks, with soft, black hair… to prolong their practice?”
Thưa Tôn giả Bhāradvāja, có nguyên nhân nào khác, có điều kiện nào khác khiến những tỳ-khưu trẻ tuổi này, tóc còn đen nhánh…pe… lại có thể duy trì* lâu dài không?
‘‘Vuttaṃ kho etaṃ, mahārāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena – ‘etha tumhe, bhikkhave, indriyesu guttadvārā viharatha.
“That was indeed stated, great king, by the Blessed One, the Knower, the Seer, the Arahant, the Perfectly Self-Awakened One: ‘Come, monks, dwell with the doors of your senses guarded.
“Đại vương, điều này đã được Đức Thế Tôn, bậc thấy biết, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, thuyết giảng rằng: ‘Này các tỳ-khưu, hãy sống với các căn được hộ trì.
Cakkhunā rūpaṃ disvā mā nimittaggāhino ahuvattha, mānubyañjanaggāhino.
Having seen a form with the eye, do not grasp at its signs or its features.
Khi thấy sắc bằng mắt, chớ nắm giữ tướng chung, chớ nắm giữ tướng riêng.
Yatvādhikaraṇamenaṃ cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjatha.
If, while dwelling with the eye faculty unguarded, evil unwholesome states of covetousness and distress should flow in, practice for its restraint.
Để ngăn chặn những pháp bất thiện, ác độc như tham ái và ưu phiền không xâm chiếm khi nhãn căn không được hộ trì, hãy thực hành sự tiết chế.
Rakkhatha cakkhundriyaṃ; cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjatha.
Guard the eye faculty; undertake the restraint of the eye faculty.
Hãy bảo vệ nhãn căn; hãy thực hành sự tiết chế đối với nhãn căn.
Sotena saddaṃ sutvā…pe… ghānena gandhaṃ ghāyitvā… jivhāya rasaṃ sāyitvā… kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā… manasā dhammaṃ viññāya mā nimittaggāhino ahuvattha, mānubyañjanaggāhino.
Having heard a sound with the ear… having smelled a scent with the nose… having tasted a flavor with the tongue… having felt a tactile sensation with the body… having cognized a mental phenomenon with the mind, do not grasp at its signs or its features.
Khi nghe tiếng bằng tai…pe… khi ngửi mùi bằng mũi… khi nếm vị bằng lưỡi… khi xúc chạm bằng thân… khi nhận thức pháp bằng ý, chớ nắm giữ tướng chung, chớ nắm giữ tướng riêng.
Yatvādhikaraṇamenaṃ manindriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya paṭipajjatha.
If, while dwelling with the mind faculty unguarded, evil unwholesome states of covetousness and distress should flow in, practice for its restraint.
Để ngăn chặn những pháp bất thiện, ác độc như tham ái và ưu phiền không xâm chiếm khi ý căn không được hộ trì, hãy thực hành sự tiết chế.
Rakkhatha manindriyaṃ; manindriye saṃvaraṃ āpajjathā’ti.
Guard the mind faculty; undertake the restraint of the mind faculty.’
Hãy bảo vệ ý căn; hãy thực hành sự tiết chế đối với ý căn’.
Ayampi kho, mahārāja, hetu ayaṃ paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikīḷitāvino kāmesu yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caranti, addhānañca āpādentī’’ti.
This too, great king, is a cause, this is a condition, for these young monks, with soft, black hair, endowed with the blessing of youth, in the prime of life, not having enjoyed sense pleasures, to lead the complete and purified spiritual life for as long as they live, and to prolong it.”
Đại vương, đây cũng là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến những tỳ-khưu trẻ tuổi này, tóc còn đen nhánh, được phú cho tuổi trẻ tốt đẹp, ở tuổi đời đầu tiên, không đắm mình trong các dục, vẫn thực hành phạm hạnh hoàn hảo, thanh tịnh trọn đời, và duy trì* lâu dài.”
‘‘Acchariyaṃ, bho bhāradvāja; abbhutaṃ, bho bhāradvāja!
“Wonderful, Venerable Bhāradvāja! Amazing, Venerable Bhāradvāja!
“Thật kỳ diệu thay, Tôn giả Bhāradvāja! Thật phi thường thay, Tôn giả Bhāradvāja!
Yāva subhāsitaṃ cidaṃ* , bho bhāradvāja, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena.
How well spoken, Venerable Bhāradvāja, is this by the Blessed One, the Knower, the Seer, the Arahant, the Perfectly Self-Awakened One.
Thật là lời thuyết giảng vô cùng tốt đẹp, Tôn giả Bhāradvāja, của Đức Thế Tôn, bậc thấy biết, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác.
Esova kho, bho bhāradvāja, hetu, esa paccayo yenime daharā bhikkhū susū kāḷakesā bhadrena yobbanena samannāgatā paṭhamena vayasā anikīḷitāvino kāmesu yāvajīvaṃ paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caranti, addhānañca āpādentīti.
This indeed, Venerable Bhāradvāja, is the cause, this is the condition, for these young monks, with soft, black hair, endowed with the blessing of youth, in the prime of life, not having enjoyed sense pleasures, to lead the complete and purified spiritual life for as long as they live, and to prolong it.
Chính đây, thưa Tôn giả Bhāradvāja, là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến những tỳ-khưu trẻ tuổi này, tóc còn đen nhánh, được phú cho tuổi trẻ tốt đẹp, ở tuổi đời đầu tiên, không đắm mình trong các dục, vẫn thực hành phạm hạnh hoàn hảo, thanh tịnh trọn đời, và duy trì* lâu dài.
Ahampi kho, bho* bhāradvāja, yasmiṃ samaye arakkhiteneva kāyena, arakkhitāya vācāya, arakkhitena cittena, anupaṭṭhitāya satiyā, asaṃvutehi indriyehi antepuraṃ pavisāmi, ativiya maṃ tasmiṃ samaye lobhadhammā parisahanti.
Indeed, Venerable Bhāradvāja, at whatever time I enter the inner palace with an unguarded body, unguarded speech, unguarded mind, unestablished mindfulness, and unrestrained senses, at that time states of greed overwhelm me excessively.
Thưa Tôn giả Bhāradvāja, khi tôi bước vào hậu cung với thân không được hộ trì, lời nói không được hộ trì, tâm không được hộ trì, chánh niệm không an trú, và các căn không được chế ngự, thì lúc ấy các pháp tham ái xâm chiếm tôi một cách mãnh liệt.
Yasmiñca khvāhaṃ, bho bhāradvāja, samaye rakkhiteneva kāyena, rakkhitāya vācāya, rakkhitena cittena, upaṭṭhitāya satiyā, saṃvutehi indriyehi antepuraṃ pavisāmi, na maṃ tathā tasmiṃ samaye lobhadhammā parisahanti.
But at whatever time, Venerable Bhāradvāja, I enter the inner palace with a guarded body, guarded speech, guarded mind, established mindfulness, and restrained senses, at that time states of greed do not overwhelm me in the same way.
Còn khi tôi, thưa Tôn giả Bhāradvāja, bước vào hậu cung với thân được hộ trì, lời nói được hộ trì, tâm được hộ trì, chánh niệm an trú, và các căn được chế ngự, thì lúc ấy các pháp tham ái không xâm chiếm tôi như vậy.
Abhikkantaṃ, bho bhāradvāja; abhikkantaṃ, bho bhāradvāja!
Excellent, Venerable Bhāradvāja! Excellent, Venerable Bhāradvāja!
Tuyệt vời thay, Tôn giả Bhāradvāja! Tuyệt vời thay, Tôn giả Bhāradvāja!
Seyyathāpi, bho bhāradvāja, nikkujjitaṃ* vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya, cakkhumanto rūpāni dakkhantīti; evamevaṃ bhotā bhāradvājena anekapariyāyena dhammo pakāsito.
Just as, Venerable Bhāradvāja, one would set upright what was overturned, reveal what was hidden, point out the way to one who was lost, or carry an oil lamp in the darkness so that those with eyes might see forms; in the same way, the Dhamma has been made clear in many ways by you, Venerable Bhāradvāja.
Ví như, Tôn giả Bhāradvāja, lật ngửa cái bị úp, mở ra cái bị che kín, chỉ đường cho người lạc lối, hay thắp đèn trong bóng tối để những người có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Tôn giả Bhāradvāja đã thuyết giảng Pháp bằng nhiều phương cách khác nhau.
Esāhaṃ, bho bhāradvāja, taṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca.
I go for refuge to that Blessed One, Venerable Bhāradvāja, and to the Dhamma, and to the Saṅgha of monks.
Thưa Tôn giả Bhāradvāja, tôi xin quy y Đức Thế Tôn ấy, quy y Pháp, và quy y Tăng đoàn.
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ bhāradvājo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti.
May Venerable Bhāradvāja remember me as a lay follower who has gone for refuge from this day forth, for as long as life lasts.”
Xin Tôn giả Bhāradvāja hãy ghi nhận tôi là một cư sĩ đã quy y trọn đời, kể từ hôm nay trở đi.”
Catutthaṃ.
The Fourth.
Thứ tư.
128. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.
128. At one time the Blessed One was dwelling in Rājagaha, in Veḷuvana, the Squirrels’ Feeding Ground.
128. Một thời nọ, Đức Thế Tôn đang trú tại Rājagaha, trong khu vườn Trúc Lâm, tại Kalandakanivāpa.
Atha kho soṇo gahapatiputto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then Soṇa, the householder’s son, approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
Rồi gia chủ tử Soṇa đi đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Đức Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho soṇo gahapatiputto bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti?
Sitting to one side, Soṇa, the householder’s son, said to the Blessed One: “What, Bhante, is the cause, what is the condition, by which some beings here do not attain final Nibbāna in this very life?
Ngồi xuống một bên, gia chủ tử Soṇa bạch Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến một số chúng sinh ở đây không đạt được Nibbāna ngay trong hiện tại?
Ko pana, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti?
And what, Bhante, is the cause, what is the condition, by which some beings here do attain final Nibbāna in this very life?”
Còn nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến một số chúng sinh ở đây đạt được Nibbāna ngay trong hiện tại?”
(Yathā purimasuttantaṃ, evaṃ vitthāretabbaṃ).
(This should be elaborated in the same way as the previous Suttanta).
(Cần trình bày chi tiết như kinh trước).
Ayaṃ kho, soṇa, hetu, ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantīti.
“This, Soṇa, is the cause, this is the condition, by which some beings here do attain final Nibbāna in this very life.”
“Này Soṇa, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến một số chúng sinh ở đây đạt được Nibbāna ngay trong hiện tại.”
Pañcamaṃ.
The Fifth.
Thứ năm.
129. Ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando kosambiyaṃ viharati ghositārāme.
129. At one time Venerable Ānanda was dwelling in Kosambī, in Ghosita Park.
129. Một thời nọ, Tôn giả Ānanda đang trú tại Kosambī, trong Ghositārāma.
Atha kho ghosito gahapati yenāyasmā ānando tenupasaṅkami…pe… ekamantaṃ nisinno kho ghosito gahapati āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca – ‘‘‘dhātunānattaṃ, dhātunānatta’nti, bhante ānanda, vuccati.
Then Ghosita, the householder, approached Venerable Ānanda… and sitting to one side, Ghosita, the householder, said to Venerable Ānanda: “‘Diversity of elements, diversity of elements,’ Bhante Ānanda, is spoken of.
Rồi gia chủ Ghosita đi đến chỗ Tôn giả Ānanda…pe… Ngồi xuống một bên, gia chủ Ghosita bạch Tôn giả Ānanda rằng: “Bạch Tôn giả Ānanda, người ta nói ‘đa dạng các giới, đa dạng các giới’.
Kittāvatā nu kho, bhante, dhātunānattaṃ vuttaṃ bhagavatā’’ti?
To what extent, Bhante, has the diversity of elements been spoken of by the Blessed One?”
Bạch Tôn giả, Đức Thế Tôn đã nói về sự đa dạng của các giới đến mức độ nào?”
‘‘Saṃvijjati kho, gahapati, cakkhudhātu, rūpā ca manāpā, cakkhuviññāṇañca sukhavedaniyaṃ.
“There is, householder, the eye element, and agreeable forms, and eye-consciousness that produces pleasant feeling.
“Này gia chủ, có nhãn giới, có các sắc khả ái, và nhãn thức mang lại cảm thọ lạc.
Phassaṃ paṭicca uppajjati sukhā vedanā.
Dependent on contact, pleasant feeling arises.
Do xúc mà cảm thọ lạc khởi lên.
Saṃvijjati kho, gahapati, cakkhudhātu, rūpā ca amanāpā, cakkhuviññāṇañca dukkhavedaniyaṃ.
There is, householder, the eye element, and disagreeable forms, and eye-consciousness that produces painful feeling.
Này gia chủ, có nhãn giới, có các sắc bất khả ái, và nhãn thức mang lại cảm thọ khổ.
Phassaṃ paṭicca uppajjati dukkhā vedanā.
Dependent on contact, painful feeling arises.
Do xúc mà cảm thọ khổ khởi lên.
Saṃvijjati kho, gahapati, cakkhudhātu, rūpā ca manāpā upekkhāvedaniyā, cakkhuviññāṇañca adukkhamasukhavedaniyaṃ.
There is, householder, the eye element, and forms that produce equanimous feeling, and eye-consciousness that produces neither-painful-nor-pleasant feeling.
Này gia chủ, có nhãn giới, có các sắc mang lại cảm thọ xả khả ái, và nhãn thức mang lại cảm thọ không khổ không lạc.
Phassaṃ paṭicca uppajjati adukkhamasukhā vedanā…pe… saṃvijjati kho, gahapati, jivhādhātu, rasā ca manāpā, jivhāviññāṇañca sukhavedaniyaṃ.
Dependent on contact, neither-painful-nor-pleasant feeling arises… There is, householder, the tongue element, and agreeable tastes, and tongue-consciousness that produces pleasant feeling.
Do xúc mà cảm thọ không khổ không lạc khởi lên…pe… Này gia chủ, có thiệt giới, có các vị khả ái, và thiệt thức mang lại cảm thọ lạc.
Phassaṃ paṭicca uppajjati sukhā vedanā.
Dependent on contact, pleasant feeling arises.
Do xúc mà cảm thọ lạc khởi lên.
Saṃvijjati kho, gahapati, jivhādhātu, rasā ca amanāpā, jivhāviññāṇañca dukkhavedaniyaṃ.
There is, householder, the tongue element, and disagreeable tastes, and tongue-consciousness that produces painful feeling.
Này gia chủ, có thiệt giới, có các vị bất khả ái, và thiệt thức mang lại cảm thọ khổ.
Phassaṃ paṭicca uppajjati dukkhā vedanā.
Dependent on contact, painful feeling arises.
Do xúc mà cảm thọ khổ khởi lên.
Saṃvijjati kho, gahapati, jivhādhātu, rasā ca upekkhāvedaniyā, jivhāviññāṇañca adukkhamasukhavedaniyaṃ.
There is, householder, the tongue element, and tastes that produce equanimous feeling, and tongue-consciousness that produces neither-painful-nor-pleasant feeling.
Này gia chủ, có thiệt giới, có các vị mang lại cảm thọ xả, và thiệt thức mang lại cảm thọ không khổ không lạc.
Phassaṃ paṭicca uppajjati adukkhamasukhā vedanā…pe… saṃvijjati kho, gahapati, manodhātu, dhammā ca manāpā, manoviññāṇañca sukhavedaniyaṃ.
Dependent on contact, neither-painful-nor-pleasant feeling arises… There is, householder, the mind element, and agreeable mental phenomena, and mind-consciousness that produces pleasant feeling.
Do xúc mà cảm thọ không khổ không lạc khởi lên…pe… Này gia chủ, có ý giới, có các pháp khả ái, và ý thức mang lại cảm thọ lạc.
Phassaṃ paṭicca uppajjati sukhā vedanā.
Dependent on contact, pleasant feeling arises.
Do xúc mà cảm thọ lạc khởi lên.
Saṃvijjati kho, gahapati, manodhātu, dhammā ca amanāpā, manoviññāṇañca dukkhavedaniyaṃ.
There is, householder, the mind element, and disagreeable mental phenomena, and mind-consciousness that produces painful feeling.
Này gia chủ, có ý giới, có các pháp bất khả ái, và ý thức mang lại cảm thọ khổ.
Phassaṃ paṭicca uppajjati dukkhā vedanā.
Dependent on contact, painful feeling arises.
Do xúc mà cảm thọ khổ khởi lên.
Saṃvijjati kho, gahapati, manodhātu, dhammā ca upekkhāvedaniyā, manoviññāṇañca adukkhamasukhavedaniyaṃ.
There is, householder, the mind element, and mental phenomena that produce equanimous feeling, and mind-consciousness that produces neither-painful-nor-pleasant feeling.
Này gia chủ, có ý giới, có các pháp mang lại cảm thọ xả, và ý thức mang lại cảm thọ không khổ không lạc.
Phassaṃ paṭicca uppajjati adukkhamasukhā vedanā.
Dependent on contact, neither-painful-nor-pleasant feeling arises.
Do xúc mà cảm thọ không khổ không lạc khởi lên.
Ettāvatā kho, gahapati, dhātunānattaṃ vuttaṃ bhagavatā’’ti.
To this extent, householder, has the diversity of elements been spoken of by the Blessed One.”
Này gia chủ, đến mức độ này là Đức Thế Tôn đã nói về sự đa dạng của các giới.”
Chaṭṭhaṃ.
The Sixth.
Thứ sáu.
130. Ekaṃ samayaṃ āyasmā mahākaccāno avantīsu viharati kuraraghare* papāte* pabbate.
130. At one time Venerable Mahākaccāna was dwelling in the Avantis, at Kuraraghara, on the mountain named Papāta.
130. Một thời nọ, Tôn giả Mahākaccāna đang trú tại xứ Avantī, ở Kuraraghara, trên núi Papāta.
Atha kho hāliddikāni* gahapati yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkami…pe… ekamantaṃ nisinno kho hāliddikāni gahapati āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavoca – ‘‘vuttamidaṃ, bhante, bhagavatā – ‘dhātunānattaṃ paṭicca uppajjati phassanānattaṃ; phassanānattaṃ paṭicca uppajjati vedanānānatta’nti.
Then Hāliddikāni the householder approached the Venerable Mahākaccāna… having approached and sat down to one side, Hāliddikāni the householder said to the Venerable Mahākaccāna: “Bhante, this was said by the Blessed One: ‘Dependent on the diversity of elements, diversity of contact arises; dependent on the diversity of contact, diversity of feeling arises.’
Rồi gia chủ Hāliddikāni đi đến chỗ Tôn giả Mahākaccāno… ngồi xuống một bên, gia chủ Hāliddikāni bạch Tôn giả Mahākaccāno rằng: – Thưa Tôn giả, điều này đã được Thế Tôn nói: ‘Do duyên sự đa dạng của các giới mà sự đa dạng của xúc sanh khởi; do duyên sự đa dạng của xúc mà sự đa dạng của thọ sanh khởi’.
Kathaṃ nu kho, bhante, dhātunānattaṃ paṭicca uppajjati phassanānattaṃ; phassanānattaṃ paṭicca uppajjati vedanānānatta’’nti?
How, Bhante, dependent on the diversity of elements does diversity of contact arise; dependent on the diversity of contact does diversity of feeling arise?”
Thưa Tôn giả, do duyên sự đa dạng của các giới mà sự đa dạng của xúc sanh khởi như thế nào; do duyên sự đa dạng của xúc mà sự đa dạng của thọ sanh khởi như thế nào?
‘‘Idha, gahapati, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā ‘manāpaṃ ittheta’nti pajānāti cakkhuviññāṇaṃ sukhavedaniyañca* .
“Here, householder, a bhikkhu, having seen a visible form with the eye, knows, ‘This is agreeable.’ He knows eye-consciousness as conducive to pleasant feeling.
Này gia chủ, ở đây, vị Tỳ khưu sau khi thấy sắc bằng mắt, nhận biết rằng ‘đây là khả ái’, và nhãn thức là nhân của lạc thọ.
Phassaṃ paṭicca uppajjati sukhā vedanā.
Dependent on contact, pleasant feeling arises.
Do duyên xúc mà lạc thọ sanh khởi.
Cakkhunā kho paneva* rūpaṃ disvā ‘amanāpaṃ ittheta’nti pajānāti cakkhuviññāṇaṃ dukkhavedaniyañca.
But again, having seen a visible form with the eye, he knows, ‘This is disagreeable.’ He knows eye-consciousness as conducive to painful feeling.
Lại nữa, sau khi thấy sắc bằng mắt, nhận biết rằng ‘đây là bất khả ái’, và nhãn thức là nhân của khổ thọ.
Phassaṃ paṭicca uppajjati dukkhā vedanā.
Dependent on contact, painful feeling arises.
Do duyên xúc mà khổ thọ sanh khởi.
Cakkhunā kho paneva rūpaṃ disvā ‘upekkhāṭṭhāniyaṃ* ittheta’nti pajānāti cakkhuviññāṇaṃ adukkhamasukhavedaniyañca.
But again, having seen a visible form with the eye, he knows, ‘This is conducive to equanimity.’ He knows eye-consciousness as conducive to neither-painful-nor-pleasant feeling.
Lại nữa, sau khi thấy sắc bằng mắt, nhận biết rằng ‘đây là nền tảng của xả’, và nhãn thức là nhân của thọ bất khổ bất lạc.
Phassaṃ paṭicca uppajjati adukkhamasukhā vedanā.
Dependent on contact, neither-painful-nor-pleasant feeling arises.
Do duyên xúc mà thọ bất khổ bất lạc sanh khởi.
‘‘Puna caparaṃ, gahapati, bhikkhu sotena saddaṃ sutvā…pe… ghānena gandhaṃ ghāyitvā…pe… jivhāya rasaṃ sāyitvā…pe… kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā…pe… manasā dhammaṃ viññāya ‘manāpaṃ ittheta’nti pajānāti manoviññāṇaṃ sukhavedaniyañca.
Furthermore, householder, a bhikkhu, having heard a sound with the ear… having smelled an odor with the nose… having tasted a flavor with the tongue… having felt a tactile sensation with the body… having cognized a mental phenomenon with the mind, he knows, ‘This is agreeable.’ He knows mind-consciousness as conducive to pleasant feeling.
Lại nữa, này gia chủ, vị Tỳ khưu sau khi nghe tiếng bằng tai… cho đến… sau khi ngửi mùi bằng mũi… cho đến… sau khi nếm vị bằng lưỡi… cho đến… sau khi cảm nhận xúc chạm bằng thân… cho đến… sau khi nhận biết pháp bằng ý, nhận biết rằng ‘đây là khả ái’, và ý thức là nhân của lạc thọ.
Phassaṃ paṭicca uppajjati sukhā vedanā.
Dependent on contact, pleasant feeling arises.
Do duyên xúc mà lạc thọ sanh khởi.
Manasā kho paneva dhammaṃ viññāya ‘amanāpaṃ ittheta’nti pajānāti manoviññāṇaṃ dukkhavedaniyañca.
But again, having cognized a mental phenomenon with the mind, he knows, ‘This is disagreeable.’ He knows mind-consciousness as conducive to painful feeling.
Lại nữa, sau khi nhận biết pháp bằng ý, nhận biết rằng ‘đây là bất khả ái’, và ý thức là nhân của khổ thọ.
Phassaṃ paṭicca uppajjati dukkhā vedanā.
Dependent on contact, painful feeling arises.
Do duyên xúc mà khổ thọ sanh khởi.
Manasā kho paneva dhammaṃ viññāya ‘upekkhāṭṭhāniyaṃ ittheta’nti pajānāti manoviññāṇaṃ adukkhamasukhavedaniyañca.
But again, having cognized a mental phenomenon with the mind, he knows, ‘This is conducive to equanimity.’ He knows mind-consciousness as conducive to neither-painful-nor-pleasant feeling.
Lại nữa, sau khi nhận biết pháp bằng ý, nhận biết rằng ‘đây là nền tảng của xả’, và ý thức là nhân của thọ bất khổ bất lạc.
Phassaṃ paṭicca uppajjati adukkhamasukhā vedanā.
Dependent on contact, neither-painful-nor-pleasant feeling arises.
Do duyên xúc mà thọ bất khổ bất lạc sanh khởi.
Evaṃ kho, gahapati, dhātunānattaṃ paṭicca uppajjati phassanānattaṃ; phassanānattaṃ paṭicca uppajjati vedanānānatta’’nti.
Thus, householder, dependent on the diversity of elements, diversity of contact arises; dependent on the diversity of contact, diversity of feeling arises.”
Này gia chủ, chính như vậy, do duyên sự đa dạng của các giới mà sự đa dạng của xúc sanh khởi; do duyên sự đa dạng của xúc mà sự đa dạng của thọ sanh khởi.
Sattamaṃ.
The Seventh.
Thứ bảy.
131. Ekaṃ samayaṃ bhagavā bhaggesu viharati susumāragire bhesakaḷāvane migadāye.
131. At one time the Blessed One was staying among the Bhaggas, in the Bhesakaḷāvana deer park on Susumāragiri.
131. Một thời, Thế Tôn trú ở xứ Bhagga, tại Susumāragira, trong vườn nai Bhesakaḷāvana.
Atha kho nakulapitā gahapati yena bhagavā tenupasaṅkami…pe… ekamantaṃ nisinno kho nakulapitā gahapati bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti?
Then Nakulapitā the householder approached the Blessed One… having approached and sat down to one side, Nakulapitā the householder said to the Blessed One: “What, Bhante, is the reason, what is the cause, why some beings here do not attain final Nibbāna in this very life?
Khi ấy, gia chủ Nakulapitā đi đến chỗ Thế Tôn… ngồi xuống một bên, gia chủ Nakulapitā bạch Thế Tôn rằng: – Thưa Tôn giả, do nhân gì, do duyên gì mà ở đây một số chúng sanh không thể đạt đến Parinibbāna ngay trong hiện tại?
Ko pana, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti?
And what, Bhante, is the reason, what is the cause, why some beings here do attain final Nibbāna in this very life?”
Thưa Tôn giả, lại do nhân gì, do duyên gì mà ở đây một số chúng sanh có thể đạt đến Parinibbāna ngay trong hiện tại?
‘‘Santi kho, gahapati, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
“There are, householder, visible forms cognizable by the eye that are desirable, agreeable, pleasing, lovely, associated with sensual desire, and stimulating lust.
Này gia chủ, có những sắc do nhãn thức nhận biết, là những đối tượng khả ái, đáng yêu, đáng ưa, có hình sắc đáng mến, liên hệ đến dục, có thể làm phát sanh tham ái.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them.
Nếu vị Tỳ khưu hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào đối tượng ấy.
Tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti tadupādānaṃ.
For him, delighting in them, welcoming them, and clinging to them, consciousness becomes dependent on them, becomes associated with clinging.
Đối với vị ấy, người hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào đối tượng ấy, thức của vị ấy trở nên nương tựa vào đó, chấp thủ vào đó.
Saupādāno, gahapati, bhikkhu no parinibbāyati…pe… santi kho, gahapati, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi kho, gahapati, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
A bhikkhu with clinging, householder, does not attain final Nibbāna… There are, householder, flavors cognizable by the tongue… There are, householder, mental phenomena cognizable by the mind that are desirable, agreeable, pleasing, lovely, associated with sensual desire, and stimulating lust.
Này gia chủ, vị Tỳ khưu còn chấp thủ thì không thể đạt đến Parinibbāna… cho đến… Này gia chủ, có những vị do thiệt thức nhận biết… cho đến… Này gia chủ, có những pháp do ý thức nhận biết, là những đối tượng khả ái, đáng yêu, đáng ưa, có hình sắc đáng mến, liên hệ đến dục, có thể làm phát sanh tham ái.
Tañce bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu delights in them, welcomes them, and clings to them.
Nếu vị Tỳ khưu hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào đối tượng ấy.
Tassa taṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti tadupādānaṃ.
For him, delighting in them, welcoming them, and clinging to them, consciousness becomes dependent on them, becomes associated with clinging.
Đối với vị ấy, người hoan hỷ, tán thán, và bám víu vào đối tượng ấy, thức của vị ấy trở nên nương tựa vào đó, chấp thủ vào đó.
Saupādāno, gahapati, bhikkhu no parinibbāyati.
A bhikkhu with clinging, householder, does not attain final Nibbāna.
Này gia chủ, vị Tỳ khưu còn chấp thủ thì không thể đạt đến Parinibbāna.
Ayaṃ kho, gahapati, hetu ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme no parinibbāyanti’’.
This, householder, is the reason, this is the cause, why some beings here do not attain final Nibbāna in this very life.”
Này gia chủ, đây là nhân, đây là duyên mà ở đây một số chúng sanh không thể đạt đến Parinibbāna ngay trong hiện tại.
‘‘Santi ca kho, gahapati, cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
“But there are, householder, visible forms cognizable by the eye that are desirable, agreeable, pleasing, lovely, associated with sensual desire, and stimulating lust.
Và này gia chủ, có những sắc do nhãn thức nhận biết, là những đối tượng khả ái, đáng yêu, đáng ưa, có hình sắc đáng mến, liên hệ đến dục, có thể làm phát sanh tham ái.
Tañce bhikkhunābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them.
Nếu vị Tỳ khưu không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào đối tượng ấy.
Tassa taṃ anabhinandato anabhivadato anajjhosāya tiṭṭhato na tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti, na tadupādānaṃ.
For him, not delighting in them, not welcoming them, and not clinging to them, consciousness does not become dependent on them, does not become associated with clinging.
Đối với vị ấy, người không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào đối tượng ấy, thức của vị ấy không nương tựa vào đó, không chấp thủ vào đó.
Anupādāno, gahapati, bhikkhu parinibbāyati…pe… santi kho, gahapati, jivhāviññeyyā rasā…pe… santi kho, gahapati, manoviññeyyā dhammā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
A bhikkhu without clinging, householder, attains final Nibbāna… There are, householder, flavors cognizable by the tongue… There are, householder, mental phenomena cognizable by the mind that are desirable, agreeable, pleasing, lovely, associated with sensual desire, and stimulating lust.
Này gia chủ, vị Tỳ khưu không còn chấp thủ thì có thể đạt đến Parinibbāna… cho đến… Này gia chủ, có những vị do thiệt thức nhận biết… cho đến… Này gia chủ, có những pháp do ý thức nhận biết, là những đối tượng khả ái, đáng yêu, đáng ưa, có hình sắc đáng mến, liên hệ đến dục, có thể làm phát sanh tham ái.
Tañce bhikkhu nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati.
If a bhikkhu does not delight in them, does not welcome them, and does not cling to them.
Nếu vị Tỳ khưu không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào đối tượng ấy.
Tassa taṃ nābhinandato nābhivadato anajjhosāya tiṭṭhato na tannissitaṃ viññāṇaṃ hoti na tadupādānaṃ.
For him, not delighting in them, not welcoming them, and not clinging to them, consciousness does not become dependent on them, does not become associated with clinging.
Đối với vị ấy, người không hoan hỷ, không tán thán, không bám víu vào đối tượng ấy, thức của vị ấy không nương tựa vào đó, không chấp thủ vào đó.
Anupādāno, gahapati, bhikkhu parinibbāyati.
A bhikkhu without clinging, householder, attains final Nibbāna.
Này gia chủ, vị Tỳ khưu không còn chấp thủ thì có thể đạt đến Parinibbāna.
Ayaṃ kho, gahapati, hetu, ayaṃ paccayo yena midhekacce sattā diṭṭheva dhamme parinibbāyantī’’ti.
This, householder, is the reason, this is the cause, why some beings here do attain final Nibbāna in this very life.”
Này gia chủ, đây là nhân, đây là duyên mà ở đây một số chúng sanh có thể đạt đến Parinibbāna ngay trong hiện tại.
Aṭṭhamaṃ.
The Eighth.
Thứ tám.
132. Ekaṃ samayaṃ āyasmā mahākaccāno avantīsu viharati makkarakate* araññakuṭikāyaṃ.
132. At one time the Venerable Mahākaccāna was staying in Avanti, in a forest hut at Makkarakaṭa.
132. Một thời, Tôn giả Mahākaccāno trú ở xứ Avantī, trong một am thất trong rừng tại Makkarakata.
Atha kho lohiccassa brāhmaṇassa sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā yenāyasmato mahākaccānassa araññakuṭikā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā parito parito kuṭikāya anucaṅkamanti anuvicaranti uccāsaddā mahāsaddā kānici kānici seleyyakāni karonti* – ‘‘ime pana muṇḍakā samaṇakā ibbhā kaṇhā* bandhupādāpaccā, imesaṃ bharatakānaṃ sakkatā garukatā mānitā pūjitā apacitā’’ti.
Then numerous students of the brahmin Lohicca, young men who were woodcutters, approached the Venerable Mahākaccāna’s forest hut; having approached, they walked around and roamed about the hut, making loud noises and high sounds, saying various things such as: “These shaven-headed ascetics, these low-born dark ones, born from the feet of Brahmā, are honored, respected, esteemed, revered, and worshipped by these householders!”
Khi ấy, nhiều thanh niên đệ tử của Bà-la-môn Lohicca, là những người đi kiếm củi, đã đi đến am thất trong rừng của Tôn giả Mahākaccāno; sau khi đến, họ đi kinh hành và đi lại xung quanh am thất, gây ồn ào, la hét lớn, và làm những trò chế nhạo: – Những kẻ sa-môn đầu trọc này, những kẻ hạ tiện, da đen, là con cháu sinh ra từ bàn chân của Phạm Thiên, lại được những vị gia chủ này cung kính, tôn trọng, quý mến, cúng dường, và tôn thờ!
Atha kho āyasmā mahākaccāno vihārā nikkhamitvā te māṇavake etadavoca – ‘‘mā māṇavakā saddamakattha; dhammaṃ vo bhāsissāmī’’ti.
Then the Venerable Mahākaccāna came out of his dwelling and said to those young men: “Do not make noise, young men; I will teach you the Dhamma.”
Bấy giờ, Tôn giả Mahākaccāno ra khỏi tịnh xá và nói với các thanh niên ấy: – Này các thanh niên, đừng làm ồn; ta sẽ thuyết Pháp cho các ngươi.
Evaṃ vutte, te māṇavakā tuṇhī ahesuṃ.
When this was said, those young men fell silent.
Khi được nói như vậy, các thanh niên ấy im lặng.
Atha kho āyasmā mahākaccāno te māṇavake gāthāhi ajjhabhāsi –
Then the Venerable Mahākaccāna addressed those young men with verses:
Rồi Tôn giả Mahākaccāno nói với các thanh niên ấy bằng những câu kệ:
Atha kho te māṇavakā kupitā anattamanā yena lohicco brāhmaṇo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā lohiccaṃ brāhmaṇaṃ etadavocuṃ – ‘‘yagghe!
Then those young men, angry and displeased, approached the Brahmin Lohicca; having approached, they said to the Brahmin Lohicca, ‘‘Pray, sir,
Rồi các thanh niên ấy, tức giận và không hài lòng, đi đến chỗ Bà la môn Lohicca; sau khi đến, họ nói với Bà la môn Lohicca rằng: “Thưa ngài!
Bhavaṃ jāneyya, samaṇo mahākaccāno brāhmaṇānaṃ mante* ekaṃsena apavadati, paṭikkosatī’’ti?
may you know, the ascetic Mahākaccāna disparages the Brahmins’ mantras entirely, he rejects them!’’
Xin ngài biết rằng, Sa môn Mahākaccāna hoàn toàn chỉ trích và phủ nhận các thần chú của Bà la môn.”
Evaṃ vutte, lohicco brāhmaṇo kupito ahosi anattamano.
When this was said, the Brahmin Lohicca became angry and displeased.
Khi được nói như vậy, Bà la môn Lohicca trở nên tức giận và không hài lòng.
Atha kho lohiccassa brāhmaṇassa etadahosi – ‘‘na kho pana metaṃ patirūpaṃ yohaṃ aññadatthu māṇavakānaṃyeva sutvā samaṇaṃ mahākaccānaṃ akkoseyyaṃ* paribhāseyyaṃ.
Then it occurred to the Brahmin Lohicca: ‘‘It is not proper for me to merely hear what these young men say and then abuse and revile the ascetic Mahākaccāna.
Rồi Bà la môn Lohicca nghĩ: “Không thích hợp chút nào nếu ta, chỉ vì nghe lời các thanh niên này, mà mắng nhiếc hay phỉ báng Sa môn Mahākaccāna.
Yaṃnūnāhaṃ upasaṅkamitvā puccheyya’’nti.
What if I were to approach him and question him?’’
Tốt hơn hết là ta nên đến hỏi ngài ấy.”
Atha kho lohicco brāhmaṇo tehi māṇavakehi saddhiṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahākaccānena saddhiṃ sammodi.
Then the Brahmin Lohicca, together with those young men, approached Venerable Mahākaccāna; having approached, he exchanged greetings with Venerable Mahākaccāna.
Rồi Bà la môn Lohicca cùng với các thanh niên ấy đi đến chỗ Tôn giả Mahākaccāna; sau khi đến, ông chào hỏi Tôn giả Mahākaccāna.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
After exchanging courteous and memorable talk, he sat down to one side.
Sau khi trao đổi những lời chào hỏi thân mật, ông ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho lohicco brāhmaṇo āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavoca – ‘‘āgamaṃsu nu khvidha, bho kaccāna, amhākaṃ sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā’’ti?
Seated to one side, the Brahmin Lohicca said to Venerable Mahākaccāna: ‘‘Did many of our student young men, wood-gatherers, come here, good Kaccāna?’’
Ngồi xuống một bên, Bà la môn Lohicca nói với Tôn giả Mahākaccāna: “Thưa Tôn giả Kaccāna, có phải nhiều đệ tử của chúng tôi, những người đi kiếm củi, đã đến đây không?”
‘‘Āgamaṃsu khvidha te, brāhmaṇa, sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā’’ti.
‘‘Indeed, Brahmin, many of your student young men, wood-gatherers, came here.’’
“Thưa Bà la môn, nhiều đệ tử của ông, những người đi kiếm củi, đã đến đây.”
‘‘Ahu pana bhoto kaccānassa tehi māṇavakehi saddhiṃ kocideva kathāsallāpo’’ti?
‘‘Did Venerable Kaccāna have any conversation with those young men?’’
“Vậy Tôn giả Kaccāna có cuộc trò chuyện nào với những thanh niên ấy không?”
‘‘Ahu kho me, brāhmaṇa, tehi māṇavakehi saddhiṃ kocideva kathāsallāpo’’ti.
‘‘Indeed, Brahmin, I had some conversation with those young men.’’
“Thưa Bà la môn, tôi có một cuộc trò chuyện với những thanh niên ấy.”
‘‘Yathā kathaṃ pana bhoto kaccānassa tehi māṇavakehi saddhiṃ ahosi kathāsallāpo’’ti?
‘‘What kind of conversation did Venerable Kaccāna have with those young men?’’
“Tôn giả Kaccāna đã trò chuyện với những thanh niên ấy như thế nào?”
‘‘Evaṃ kho me, brāhmaṇa, tehi māṇavakehi saddhiṃ ahosi kathāsallāpo –
‘‘This is the conversation, Brahmin, I had with those young men:
“Thưa Bà la môn, tôi đã trò chuyện với những thanh niên ấy như sau:
‘‘‘Aguttadvāro’ti* bhavaṃ kaccāno āha.
‘‘Venerable Kaccāna spoke of one who is ‘unguarded in his doors’.
“Tôn giả Kaccāna nói ‘không phòng hộ các căn’.
Kittāvatā nu kho, bho kaccāna, aguttadvāro hotī’’ti?
To what extent, good Kaccāna, is one unguarded in his doors?’’
Thưa Tôn giả Kaccāna, thế nào là không phòng hộ các căn?”
‘‘Idha, brāhmaṇa, ekacco cakkhunā rūpaṃ disvā piyarūpe rūpe adhimuccati, appiyarūpe rūpe byāpajjati, anupaṭṭhitakāyassati* ca viharati, parittacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti.
‘‘Here, Brahmin, some person, having seen a form with the eye, becomes obsessed with agreeable forms, reacts adversely to disagreeable forms, dwells with unestablished mindfulness of the body, and with a limited mind, does not understand as it truly is that liberation of mind and liberation by wisdom, where those arisen evil unwholesome states cease without remainder.
“Thưa Bà la môn, ở đây, có người khi thấy sắc bằng mắt, liền đắm trước sắc khả ái, và sân hận đối với sắc bất khả ái; người ấy sống với chánh niệm về thân không an trú, với tâm hạn hẹp, và không như thật hiểu biết về tâm giải thoát và tuệ giải thoát mà nhờ đó các pháp bất thiện, ác pháp đã khởi lên nơi người ấy sẽ diệt tận không còn sót lại.
Sotena saddaṃ sutvā… ghānena gandhaṃ ghāyitvā… jivhāya rasaṃ sāyitvā… kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā… manasā dhammaṃ viññāya piyarūpe dhamme adhimuccati, appiyarūpe ca dhamme byāpajjati, anupaṭṭhitakāyassati ca viharati, parittacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti.
Having heard a sound with the ear… having smelled an odor with the nose… having tasted a flavor with the tongue… having felt a tangible object with the body… having cognized a mental phenomenon with the mind, he becomes obsessed with agreeable phenomena, reacts adversely to disagreeable phenomena, dwells with unestablished mindfulness of the body, and with a limited mind, does not understand as it truly is that liberation of mind and liberation by wisdom, where those arisen evil unwholesome states cease without remainder.
Khi nghe tiếng bằng tai… khi ngửi hương bằng mũi… khi nếm vị bằng lưỡi… khi xúc chạm bằng thân… khi nhận thức pháp bằng ý, liền đắm trước pháp khả ái, và sân hận đối với pháp bất khả ái; người ấy sống với chánh niệm về thân không an trú, với tâm hạn hẹp, và không như thật hiểu biết về tâm giải thoát và tuệ giải thoát mà nhờ đó các pháp bất thiện, ác pháp đã khởi lên nơi người ấy sẽ diệt tận không còn sót lại.
Evaṃ kho, brāhmaṇa, aguttadvāro hotī’’ti.
It is in this way, Brahmin, that one is unguarded in his doors.’’
Thưa Bà la môn, đó là cách không phòng hộ các căn.”
‘‘Acchariyaṃ, bho kaccāna; abbhutaṃ, bho kaccāna!
‘‘Wonderful, good Kaccāna; marvelous, good Kaccāna!
“Thật kỳ diệu, thưa Tôn giả Kaccāna; thật phi thường, thưa Tôn giả Kaccāna!
Yāvañcidaṃ bhotā kaccānena aguttadvārova samāno aguttadvāroti akkhāto.
In such a way has Venerable Kaccāna declared one to be unguarded in his doors, though he is unguarded in his doors.
Tôn giả Kaccāna đã giải thích về sự không phòng hộ các căn một cách rõ ràng như vậy.
‘‘‘Guttadvāro’ti bhavaṃ kaccāno āha.
‘‘Venerable Kaccāna spoke of one who is ‘guarded in his doors’.
Tôn giả Kaccāna nói ‘phòng hộ các căn’.
Kittāvatā nu kho, bho kaccāna, guttadvāro hotī’’ti?
To what extent, good Kaccāna, is one guarded in his doors?’’
Thưa Tôn giả Kaccāna, thế nào là phòng hộ các căn?”
‘‘Idha, brāhmaṇa, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā piyarūpe rūpe nādhimuccati, appiyarūpe rūpe na byāpajjati, upaṭṭhitakāyassati ca viharati, appamāṇacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti.
‘‘Here, Brahmin, a bhikkhu, having seen a form with the eye, does not become obsessed with agreeable forms, does not react adversely to disagreeable forms, dwells with established mindfulness of the body, and with an immeasurable mind, understands as it truly is that liberation of mind and liberation by wisdom, where those arisen evil unwholesome states cease without remainder.
“Thưa Bà la môn, ở đây, một tỳ khưu khi thấy sắc bằng mắt, không đắm trước sắc khả ái, không sân hận đối với sắc bất khả ái; người ấy sống với chánh niệm về thân an trú, với tâm vô lượng, và như thật hiểu biết về tâm giải thoát và tuệ giải thoát mà nhờ đó các pháp bất thiện, ác pháp đã khởi lên nơi người ấy sẽ diệt tận không còn sót lại.
Sotena saddaṃ sutvā… ghānena gandhaṃ ghāyitvā… jivhāya rasaṃ sāyitvā… kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā… manasā dhammaṃ viññāya piyarūpe dhamme nādhimuccati, appiyarūpe dhamme na byāpajjati, upaṭṭhitakāyassati ca viharati, appamāṇacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti, yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti.
Having heard a sound with the ear… having smelled an odor with the nose… having tasted a flavor with the tongue… having felt a tangible object with the body… having cognized a mental phenomenon with the mind, he does not become obsessed with agreeable phenomena, does not react adversely to disagreeable phenomena, dwells with established mindfulness of the body, and with an immeasurable mind, understands as it truly is that liberation of mind and liberation by wisdom, where those arisen evil unwholesome states cease without remainder.
Khi nghe tiếng bằng tai… khi ngửi hương bằng mũi… khi nếm vị bằng lưỡi… khi xúc chạm bằng thân… khi nhận thức pháp bằng ý, không đắm trước pháp khả ái, không sân hận đối với pháp bất khả ái; người ấy sống với chánh niệm về thân an trú, với tâm vô lượng, và như thật hiểu biết về tâm giải thoát và tuệ giải thoát mà nhờ đó các pháp bất thiện, ác pháp đã khởi lên nơi người ấy sẽ diệt tận không còn sót lại.
Evaṃ kho, brāhmaṇa, guttadvāro hotī’’ti.
It is in this way, Brahmin, that one is guarded in his doors.’’
Thưa Bà la môn, đó là cách phòng hộ các căn.”
‘‘Acchariyaṃ, bho kaccāna; abbhutaṃ, bho kaccāna!
‘‘Wonderful, good Kaccāna; marvelous, good Kaccāna!
“Thật kỳ diệu, thưa Tôn giả Kaccāna; thật phi thường, thưa Tôn giả Kaccāna!
Yāvañcidaṃ bhotā kaccānena guttadvārova samāno guttadvāroti akkhāto.
In such a way has Venerable Kaccāna declared one to be guarded in his doors, though he is guarded in his doors.
Tôn giả Kaccāna đã giải thích về sự phòng hộ các căn một cách rõ ràng như vậy.
Abhikkantaṃ, bho kaccāna; abhikkantaṃ, bho kaccāna!
Excellent, good Kaccāna; excellent, good Kaccāna!
Thật xuất sắc, thưa Tôn giả Kaccāna; thật xuất sắc, thưa Tôn giả Kaccāna!
Seyyathāpi, bho kaccāna, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya, cakkhumanto rūpāni dakkhantīti; evamevaṃ bhotā kaccānena anekapariyāyena dhammo pakāsito.
Just as, good Kaccāna, one might set upright what was overturned, or reveal what was hidden, or point out the way to one who was lost, or hold up a lamp in the darkness so that those with eyes might see forms; even so has Venerable Kaccāna elucidated the Dhamma in many ways.
Giống như, thưa Tôn giả Kaccāna, làm cho vật bị úp được ngửa ra, làm cho vật bị che giấu được phơi bày, chỉ đường cho người bị lạc, hay cầm đèn dầu trong bóng tối để những người có mắt có thể thấy các sắc; cũng vậy, Tôn giả Kaccāna đã thuyết giảng Giáo Pháp bằng nhiều phương cách.
Esāhaṃ, bho kaccāna, taṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca.
I go for refuge to that Blessed One, good Kaccāna, and to the Dhamma, and to the Saṅgha of bhikkhus.
Con xin quy y Đức Thế Tôn ấy, quy y Giáo Pháp, và quy y Tăng đoàn, thưa Tôn giả Kaccāna.
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ kaccāno dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.
May Venerable Kaccāna remember me as a lay follower who has gone for refuge from this day forth as long as life lasts.
Xin Tôn giả Kaccāna hãy ghi nhận con là một cận sự nam đã quy y từ nay cho đến trọn đời.
Yathā ca bhavaṃ kaccāno makkarakate upāsakakulāni upasaṅkamati; evameva lohiccakulaṃ upasaṅkamatu.
Just as Venerable Kaccāna approaches the families of lay followers in Makkarakaṭa; even so, may he approach the Lohicca family.
Và như Tôn giả Kaccāna thường đến các gia đình cận sự nam ở Makkarakata; cũng vậy, xin ngài hãy đến gia đình Lohicca.
Tattha ye māṇavakā vā māṇavikā vā bhavantaṃ kaccānaṃ abhivādessanti paccuṭṭhissanti āsanaṃ vā udakaṃ vā dassanti, tesaṃ taṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
There, any young men or young women who will pay homage to Venerable Kaccāna, or rise up for him, or offer him a seat or water, that will be for their long-term welfare and happiness.’’
Ở đó, những thanh niên hay thiếu nữ nào đảnh lễ, đứng dậy chào đón, hay dâng chỗ ngồi hoặc nước cho Tôn giả Kaccāna, thì điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho họ.”
Navamaṃ.
The Ninth.
Thứ chín.
133. Ekaṃ samayaṃ āyasmā udāyī kāmaṇḍāyaṃ viharati todeyyassa brāhmaṇassa ambavane.
133. At one time, Venerable Udāyi was dwelling in Kāmaṇḍā, in the mango grove of the Brahmin Todeyya.
133. Một thời, Tôn giả Udāyī trú tại Kāmaṇḍā, trong rừng xoài của Bà la môn Todeyya.
Atha kho verahaccānigottāya brāhmaṇiyā antevāsī māṇavako yenāyasmā udāyī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā udāyinā saddhiṃ sammodi.
Then a young man, a student of the Brahmin lady of the Verahaccāni clan, approached Venerable Udāyi; having approached, he exchanged greetings with Venerable Udāyi.
Rồi một thanh niên đệ tử của Bà la môn nữ thuộc dòng dõi Verahaccāni đi đến chỗ Tôn giả Udāyī; sau khi đến, anh ta chào hỏi Tôn giả Udāyī.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
After exchanging courteous and memorable talk, he sat down to one side.
Sau khi trao đổi những lời chào hỏi thân mật, anh ta ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho taṃ māṇavakaṃ āyasmā udāyī dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi.
Venerable Udāyi instructed, exhorted, inspired, and gladdened that young man, seated to one side, with a Dhamma talk.
Tôn giả Udāyī đã khích lệ, thúc đẩy, làm cho phấn khởi và vui mừng thanh niên ấy bằng một bài pháp thoại.
Atha kho so māṇavako āyasmatā udāyinā dhammiyā kathāya sandassito samādapito samuttejito sampahaṃsito uṭṭhāyāsanā yena verahaccānigottā brāhmaṇī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā verahaccānigottaṃ brāhmaṇiṃ etadavoca – ‘‘yagghe, bhoti, jāneyyāsi* !
Then, that young man, having been well-instructed, exhorted, encouraged, and gladdened by the Venerable Udāyī with a discourse on the Dhamma, rose from his seat and approached the brahmin woman Verahaccāni-gottā. Having approached her, he said to the brahmin woman Verahaccāni-gottā: "Indeed, venerable lady, know this!
Sau đó, vị thanh niên ấy, đã được Tôn giả Udāyī khai thị, khích lệ, phấn khởi và làm cho hoan hỷ bằng bài pháp, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đi đến chỗ nữ Bà-la-môn Verahaccānī. Sau khi đến, anh ta nói với nữ Bà-la-môn Verahaccānī rằng: “Thưa bà, xin bà hãy biết!
Samaṇo udāyī dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ, sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsetī’’ti.
The ascetic Udāyī teaches the Dhamma that is good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with meaning and with letter, proclaiming the entirely complete and perfectly pure holy life."
Sa-môn Udāyī thuyết giảng Chánh pháp tuyệt hảo ở đoạn đầu, tuyệt hảo ở đoạn giữa, tuyệt hảo ở đoạn cuối, có nghĩa lý và văn tự vẹn toàn, tuyên bố Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh.”
‘‘Tena hi tvaṃ, māṇavaka, mama vacanena samaṇaṃ udāyiṃ nimantehi svātanāya bhattenā’’ti.
"In that case, young man, invite the ascetic Udāyī in my name for a meal tomorrow."
“Vậy thì, này thanh niên, ngươi hãy nhân danh ta thỉnh Sa-môn Udāyī thọ thực vào ngày mai.”
‘‘Evaṃ bhotī’’ti kho so māṇavako verahaccānigottāya brāhmaṇiyā paṭissutvā yenāyasmā udāyī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca – ‘‘adhivāsetu kira, bhavaṃ, udāyi, amhākaṃ ācariyabhariyāya verahaccānigottāya brāhmaṇiyā svātanāya bhatta’’nti.
"Yes, venerable lady," that young man replied to the brahmin woman Verahaccāni-gottā, and then approached the Venerable Udāyī. Having approached, he said to the Venerable Udāyī, "May Venerable Udāyī accept a meal for tomorrow from our teacher's wife, the brahmin woman Verahaccāni-gottā."
“Thưa vâng, thưa bà!” Vị thanh niên ấy, sau khi vâng lời nữ Bà-la-môn Verahaccānī, liền đi đến chỗ Tôn giả Udāyī. Sau khi đến, anh ta nói với Tôn giả Udāyī rằng: “Bạch Tôn giả Udāyī, xin Tôn giả hoan hỷ thọ thực vào ngày mai do nữ Bà-la-môn Verahaccānī, vợ của thầy chúng con, cúng dường.”
Adhivāsesi kho āyasmā udāyī tuṇhībhāvena.
The Venerable Udāyī accepted by remaining silent.
Tôn giả Udāyī đã chấp nhận lời thỉnh cầu bằng sự im lặng.
Atha kho āyasmā udāyī tassā rattiyā accayena pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena verahaccānigottāya brāhmaṇiyā nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.
Then, when that night had passed, the Venerable Udāyī dressed in the morning, took his bowl and robe, and approached the residence of the brahmin woman Verahaccāni-gottā. Having approached, he sat down on the seat prepared for him.
Sau đó, Tôn giả Udāyī, sau khi đêm ấy trôi qua, vào buổi sáng đắp y, mang bát và y, đi đến nhà của nữ Bà-la-môn Verahaccānī. Sau khi đến, Ngài ngồi xuống chỗ đã được sắp sẵn.
Atha kho verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.
Then the brahmin woman Verahaccāni-gottā, with her own hands, satisfied and served the Venerable Udāyī with choice hard and soft foods.
Sau đó, nữ Bà-la-môn Verahaccānī đã tự tay cúng dường Tôn giả Udāyī với các món ăn cứng và mềm thượng vị, làm cho Ngài được no đủ và thỏa mãn.
Atha kho verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ pādukā ārohitvā ucce āsane nisīditvā sīsaṃ oguṇṭhitvā āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca – ‘‘bhaṇa, samaṇa, dhamma’’nti.
Then, when the Venerable Udāyī had finished eating and had removed his hand from the bowl, the brahmin woman Verahaccāni-gottā put on her sandals, sat on a high seat, covered her head, and said to the Venerable Udāyī, "Preach the Dhamma, ascetic!"
Sau đó, nữ Bà-la-môn Verahaccānī, khi Tôn giả Udāyī đã dùng bữa xong và đã cất bát rửa tay, liền mang dép, ngồi trên ghế cao, che đầu lại, và nói với Tôn giả Udāyī rằng: “Này Sa-môn, hãy thuyết pháp!”
‘‘Bhavissati, bhagini, samayo’’ti vatvā uṭṭhāyāsanā pakkami* .
"There will be a time, sister," he said, and rising from his seat, he departed.
Ngài đáp: “Thưa chị, sẽ có lúc thích hợp,” rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi và bỏ đi.
Dutiyampi kho so māṇavako yenāyasmā udāyī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā udāyinā saddhiṃ sammodi.
For a second time, that young man approached the Venerable Udāyī. Having approached, he exchanged greetings with the Venerable Udāyī.
Lần thứ hai, vị thanh niên ấy lại đi đến chỗ Tôn giả Udāyī. Sau khi đến, anh ta chào hỏi Tôn giả Udāyī.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Having concluded a courteous and memorable conversation, he sat down to one side.
Sau khi trao đổi những lời chào hỏi thân mật, anh ta ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho taṃ māṇavakaṃ āyasmā udāyī dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi.
The Venerable Udāyī then instructed, exhorted, encouraged, and gladdened that young man, sitting to one side, with a discourse on the Dhamma.
Khi vị thanh niên ấy đã ngồi xuống một bên, Tôn giả Udāyī đã khai thị, khích lệ, phấn khởi và làm cho hoan hỷ anh ta bằng bài pháp.
Dutiyampi kho so māṇavako āyasmatā udāyinā dhammiyā kathāya sandassito samādapito samuttejito sampahaṃsito uṭṭhāyāsanā yena verahaccānigottā brāhmaṇī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā verahaccānigottaṃ brāhmaṇiṃ etadavoca – ‘‘yagghe, bhoti, jāneyyāsi!
For a second time, that young man, having been instructed, exhorted, encouraged, and gladdened by the Venerable Udāyī with a discourse on the Dhamma, rose from his seat and approached the brahmin woman Verahaccāni-gottā. Having approached her, he said to the brahmin woman Verahaccāni-gottā: "Indeed, venerable lady, know this!
Lần thứ hai, vị thanh niên ấy, đã được Tôn giả Udāyī khai thị, khích lệ, phấn khởi và làm cho hoan hỷ bằng bài pháp, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đi đến chỗ nữ Bà-la-môn Verahaccānī. Sau khi đến, anh ta nói với nữ Bà-la-môn Verahaccānī rằng: “Thưa bà, xin bà hãy biết!
Samaṇo udāyī dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ, sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsetī’’ti.
The ascetic Udāyī teaches the Dhamma that is good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with meaning and with letter, proclaiming the entirely complete and perfectly pure holy life."
Sa-môn Udāyī thuyết giảng Chánh pháp tuyệt hảo ở đoạn đầu, tuyệt hảo ở đoạn giữa, tuyệt hảo ở đoạn cuối, có nghĩa lý và văn tự vẹn toàn, tuyên bố Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh.”
‘‘Evamevaṃ pana tvaṃ, māṇavaka, samaṇassa udāyissa vaṇṇaṃ bhāsasi.
"You, young man, only praise the ascetic Udāyī.
“Này thanh niên, ngươi cứ ca ngợi Sa-môn Udāyī như vậy.
Samaṇo panudāyī ‘bhaṇa, samaṇa, dhamma’nti vutto samāno ‘bhavissati, bhagini, samayo’ti vatvā uṭṭhāyāsanā pakkanto’’ti.
But when I said to the ascetic Udāyī, 'Preach the Dhamma, ascetic!' he said, 'There will be a time, sister,' and rising from his seat, he departed."
Nhưng Sa-môn Udāyī, khi được bảo ‘Này Sa-môn, hãy thuyết pháp,’ lại nói ‘Thưa chị, sẽ có lúc thích hợp,’ rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi và bỏ đi.”
‘‘Tathā hi pana tvaṃ, bhoti, pādukā ārohitvā ucce āsane nisīditvā sīsaṃ oguṇṭhitvā etadavoca – ‘bhaṇa, samaṇa, dhamma’nti.
"That is indeed true, venerable lady, for you put on your sandals, sat on a high seat, covered your head, and then said, 'Preach the Dhamma, ascetic!'
“Thưa bà, quả đúng như vậy, bà đã mang dép, ngồi trên ghế cao, che đầu lại, và nói ‘Này Sa-môn, hãy thuyết pháp.’
Dhammagaruno hi te bhavanto dhammagāravā’’ti.
Those venerable ones are indeed respectful of the Dhamma, reverent towards the Dhamma."
Chư Tôn giả ấy kính trọng Pháp, tôn kính Pháp.”
‘‘Tena hi tvaṃ, māṇavaka, mama vacanena samaṇaṃ udāyiṃ nimantehi svātanāya bhattenā’’ti.
"In that case, young man, invite the ascetic Udāyī in my name for a meal tomorrow."
“Vậy thì, này thanh niên, ngươi hãy nhân danh ta thỉnh Sa-môn Udāyī thọ thực vào ngày mai.”
‘‘Evaṃ, bhotī’’ti kho so māṇavako verahaccānigottāya brāhmaṇiyā paṭissutvā yenāyasmā udāyī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca – ‘‘adhivāsetu kira bhavaṃ udāyī amhākaṃ ācariyabhariyāya verahaccānigottāya brāhmaṇiyā svātanāya bhatta’’nti.
"Yes, venerable lady," that young man replied to the brahmin woman Verahaccāni-gottā, and then approached the Venerable Udāyī. Having approached, he said to the Venerable Udāyī, "May Venerable Udāyī accept a meal for tomorrow from our teacher's wife, the brahmin woman Verahaccāni-gottā."
“Thưa vâng, thưa bà!” Vị thanh niên ấy, sau khi vâng lời nữ Bà-la-môn Verahaccānī, liền đi đến chỗ Tôn giả Udāyī. Sau khi đến, anh ta nói với Tôn giả Udāyī rằng: “Bạch Tôn giả Udāyī, xin Tôn giả hoan hỷ thọ thực vào ngày mai do nữ Bà-la-môn Verahaccānī, vợ của thầy chúng con, cúng dường.”
Adhivāsesi kho āyasmā udāyī tuṇhībhāvena.
The Venerable Udāyī accepted by remaining silent.
Tôn giả Udāyī đã chấp nhận lời thỉnh cầu bằng sự im lặng.
Atha kho āyasmā udāyī tassā rattiyā accayena pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena verahaccānigottāya brāhmaṇiyā nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.
Then, when that night had passed, the Venerable Udāyī dressed in the morning, took his bowl and robe, and approached the residence of the brahmin woman Verahaccāni-gottā. Having approached, he sat down on the seat prepared for him.
Sau đó, Tôn giả Udāyī, sau khi đêm ấy trôi qua, vào buổi sáng đắp y, mang bát và y, đi đến nhà của nữ Bà-la-môn Verahaccānī. Sau khi đến, Ngài ngồi xuống chỗ đã được sắp sẵn.
Atha kho verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.
Then the brahmin woman Verahaccāni-gottā, with her own hands, satisfied and served the Venerable Udāyī with choice hard and soft foods.
Sau đó, nữ Bà-la-môn Verahaccānī đã tự tay cúng dường Tôn giả Udāyī với các món ăn cứng và mềm thượng vị, làm cho Ngài được no đủ và thỏa mãn.
Atha kho verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ pādukā orohitvā nīce āsane nisīditvā sīsaṃ vivaritvā āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca – ‘‘kismiṃ nu kho, bhante, sati arahanto sukhadukkhaṃ paññapenti, kismiṃ asati arahanto sukhadukkhaṃ na paññapentī’’ti?
Then, when the Venerable Udāyī had finished eating and had removed his hand from the bowl, the brahmin woman Verahaccāni-gottā removed her sandals, sat on a low seat, uncovered her head, and said to the Venerable Udāyī, "Venerable sir, when what exists do arahants declare pleasure and pain? When what does not exist do arahants not declare pleasure and pain?"
Sau đó, nữ Bà-la-môn Verahaccānī, khi Tôn giả Udāyī đã dùng bữa xong và đã cất bát rửa tay, liền cởi dép, ngồi trên ghế thấp, mở đầu ra, và nói với Tôn giả Udāyī rằng: “Bạch Ngài, khi nào có gì mà các vị A-la-hán tuyên bố về khổ và lạc? Khi nào không có gì mà các vị A-la-hán không tuyên bố về khổ và lạc?”
Evaṃ vutte, verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca – ‘‘abhikkantaṃ, bhante; abhikkantaṃ, bhante!
When this was said, the brahmin woman Verahaccāni-gottā said to the Venerable Udāyī, "Excellent, venerable sir! Excellent, venerable sir!
Khi được nói như vậy, nữ Bà-la-môn Verahaccānī nói với Tôn giả Udāyī rằng: “Bạch Ngài, tuyệt diệu thay! Bạch Ngài, tuyệt diệu thay!
Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya, cakkhumanto rūpāni dakkhantīti; evamevaṃ ayyena udāyinā anekapariyāyena dhammo pakāsito.
Just as, venerable sir, one might set upright what was overturned, or reveal what was hidden, or point out the way to one who was lost, or hold up a lamp in the darkness so that those with eyes might see forms—in the same way, the Dhamma has been made clear in many ways by the venerable Udāyī.
Bạch Ngài, ví như người ta dựng đứng cái bị lật úp, mở ra cái bị che kín, chỉ đường cho người lạc lối, hoặc cầm đèn trong bóng tối để những người có mắt có thể thấy các sắc pháp; cũng vậy, Tôn giả Udāyī đã thuyết giảng Chánh pháp bằng nhiều phương cách.
Esāhaṃ, ayya udāyi, taṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca.
I go for refuge to that Blessed One, the Dhamma, and the Saṅgha of bhikkhus, Venerable Udāyī.
Bạch Tôn giả Udāyī, con xin quy y Đức Thế Tôn ấy, quy y Pháp và quy y Tăng.
Upāsikaṃ maṃ ayyo udāyī dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti.
May Venerable Udāyī remember me as a lay follower who has gone for refuge from this day forward as long as life lasts."
Xin Tôn giả Udāyī hãy nhận con là một nữ cận sự, đã quy y trọn đời kể từ ngày hôm nay.”
Dasamaṃ.
The Tenth.
Phẩm thứ mười.
134. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sakkesu viharati devadahaṃ nāma sakyānaṃ nigamo.
134. On one occasion, the Blessed One was staying among the Sakyans, in a Sakyan town named Devadaha.
134. Một thời, Đức Thế Tôn trú tại Devadaha, một thị trấn của dân Sākyā ở xứ Sākyā.
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘nāhaṃ, bhikkhave, sabbesaṃyeva bhikkhūnaṃ chasu phassāyatanesu appamādena karaṇīyanti vadāmi, na ca panāhaṃ, bhikkhave, sabbesaṃyeva bhikkhūnaṃ chasu phassāyatanesu nāppamādena karaṇīyanti vadāmi.
There the Blessed One addressed the bhikkhus: "Bhikkhus, I do not say that all bhikkhus should be diligent with regard to the six sense bases, nor do I say that all bhikkhus should not be diligent with regard to the six sense bases.
Tại đấy, Đức Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu và nói: “Này các Tỳ-khưu, Ta không nói rằng tất cả các Tỳ-khưu đều phải tinh cần trong sáu xứ xúc, và Ta cũng không nói rằng tất cả các Tỳ-khưu đều không phải tinh cần trong sáu xứ xúc.
Ye te, bhikkhave, bhikkhū arahanto khīṇāsavā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṃyojanā sammadaññā vimuttā, tesāhaṃ, bhikkhave, bhikkhūnaṃ chasu phassāyatanesu nāppamādena karaṇīyanti vadāmi.
Bhikkhus, concerning those bhikkhus who are arahants, whose taints are destroyed, who have lived the holy life, done what had to be done, laid down the burden, attained their own goal, whose fetters of existence are utterly ended, who are fully liberated through final knowledge—I say concerning those bhikkhus that they should not be diligent with regard to the six sense bases.
Này các Tỳ-khưu, đối với những Tỳ-khưu là A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn tận, đã sống Phạm hạnh, những việc cần làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích tối thượng đã đạt được, các kiết sử hữu đã đoạn tận, đã giải thoát nhờ chánh trí, Ta nói rằng những Tỳ-khưu ấy không cần phải tinh cần trong sáu xứ xúc.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao?
Kataṃ tesaṃ appamādena, abhabbā te pamajjituṃ.
For them, diligence has been accomplished; they are incapable of negligence.
Họ đã làm xong việc với sự không phóng dật; họ không thể phóng dật được nữa.
Ye ca kho te, bhikkhave, bhikkhū sekkhā* appattamānasā anuttaraṃ yogakkhemaṃ patthayamānā viharanti, tesāhaṃ, bhikkhave, bhikkhūnaṃ chasu phassāyatanesu appamādena karaṇīyanti vadāmi.
But those bhikkhus, bhikkhus, who are still in training (sekkhā), whose minds have not yet attained their goal, who dwell aspiring to the unsurpassed security from bondage (yogakkhema), for those bhikkhus, bhikkhus, I say that diligence is to be practiced with regard to the six sense bases (phassāyatana).
Này các Tỳ-khưu, những Tỳ-khưu nào là bậc hữu học (sekkhā), tâm chưa đạt được quả vị A-la-hán, đang mong cầu sự an ổn vô thượng khỏi ách buộc (yogakkhema), Ta nói rằng những Tỳ-khưu ấy cần phải hành trì không phóng dật đối với sáu xứ xúc chạm (phassāyatana).
Taṃ kissa hetu?
Why is that?
Vì lý do gì?
Santi, bhikkhave, cakkhuviññeyyā rūpā manoramāpi, amanoramāpi.
Bhikkhus, there are forms cognizable by the eye, both agreeable and disagreeable.
Này các Tỳ-khưu, có những sắc pháp được nhận biết bằng mắt, cả dễ chịu lẫn khó chịu.
Tyāssa phussa phussa cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhanti.
These, repeatedly impinging, do not overpower his mind.
Khi chúng tiếp xúc, tâm của vị ấy không bị chúng chế ngự.
Cetaso apariyādānā āraddhaṃ hoti vīriyaṃ asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā* , passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ ekaggaṃ.
When the mind is not overpowered, energy is aroused and unflagging, mindfulness is established and unforgotten, the body is calm and untroubled, the mind is concentrated and one-pointed.
Do tâm không bị chế ngự, tinh tấn được khởi lên không chùng xuống, chánh niệm được thiết lập không quên mất, thân được an tịnh không xao động, tâm được định tĩnh nhất tâm.
Imaṃ khvāhaṃ, bhikkhave, appamādaphalaṃ sampassamāno tesaṃ bhikkhūnaṃ chasu phassāyatanesu appamādena karaṇīyanti vadāmi…pe… santi, bhikkhave, manoviññeyyā dhammā manoramāpi amanoramāpi.
Perceiving this fruit of diligence, bhikkhus, I say that diligence is to be practiced by those bhikkhus with regard to the six sense bases…pe… Bhikkhus, there are mind-objects cognizable by the mind, both agreeable and disagreeable.
Này các Tỳ-khưu, khi thấy rõ lợi ích của sự không phóng dật này, Ta nói rằng những Tỳ-khưu ấy cần phải hành trì không phóng dật đối với sáu xứ xúc chạm… (lược)… Này các Tỳ-khưu, có những pháp được nhận biết bằng ý, cả dễ chịu lẫn khó chịu.
Tyāssa phussa phussa cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhanti.
These, repeatedly impinging, do not overpower his mind.
Khi chúng tiếp xúc, tâm của vị ấy không bị chúng chế ngự.
Cetaso apariyādānā āraddhaṃ hoti vīriyaṃ asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā, passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ ekaggaṃ.
When the mind is not overpowered, energy is aroused and unflagging, mindfulness is established and unforgotten, the body is calm and untroubled, the mind is concentrated and one-pointed.
Do tâm không bị chế ngự, tinh tấn được khởi lên không chùng xuống, chánh niệm được thiết lập không quên mất, thân được an tịnh không xao động, tâm được định tĩnh nhất tâm.
Imaṃ khvāhaṃ, bhikkhave, appamādaphalaṃ sampassamāno tesaṃ bhikkhūnaṃ chasu* phassāyatanesu appamādena karaṇīyanti vadāmī’’ti.
Perceiving this fruit of diligence, bhikkhus, I say that diligence is to be practiced by those bhikkhus with regard to the six sense bases.”
Này các Tỳ-khưu, khi thấy rõ lợi ích của sự không phóng dật này, Ta nói rằng những Tỳ-khưu ấy cần phải hành trì không phóng dật đối với sáu xứ xúc chạm.”
Paṭhamaṃ.
The First.
Bài kinh thứ nhất.
135. ‘‘Lābhā vo, bhikkhave, suladdhaṃ vo, bhikkhave, khaṇo vo paṭiladdho brahmacariyavāsāya.
135. “Gain is yours, bhikkhus, well-gained is yours, bhikkhus, an opportunity has been obtained by you for the living of the holy life.
135. “Này các Tỳ-khưu, các ông có lợi ích, các ông đã được lợi ích tốt đẹp, các ông đã đạt được khoảnh khắc thuận lợi để sống đời Phạm hạnh.
Diṭṭhā mayā, bhikkhave, chaphassāyatanikā nāma nirayā.
Bhikkhus, I have seen the hells called ‘having six sense bases’.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã thấy những địa ngục gọi là sáu xứ xúc chạm.
Tattha yaṃ kiñci cakkhunā rūpaṃ passati aniṭṭharūpaṃyeva passati, no iṭṭharūpaṃ; akantarūpaṃyeva passati, no kantarūpaṃ; amanāparūpaṃyeva passati, no manāparūpaṃ.
There, whatever form one sees with the eye, one sees only disagreeable forms, not agreeable forms; one sees only unlovely forms, not lovely forms; one sees only unpleasant forms, not pleasant forms.
Ở đó, bất cứ sắc pháp nào được thấy bằng mắt, đều là sắc pháp không dễ chịu, không phải sắc pháp dễ chịu; đều là sắc pháp không đáng ưa, không phải sắc pháp đáng ưa; đều là sắc pháp không thích ý, không phải sắc pháp thích ý.
Yaṃ kiñci sotena saddaṃ suṇāti…pe… yaṃ kiñci ghānena gandhaṃ ghāyati…pe… yaṃ kiñci jivhāya rasaṃ sāyati…pe… yaṃ kiñci kāyena phoṭṭhabbaṃ phusati…pe… yaṃ kiñci manasā dhammaṃ vijānāti aniṭṭharūpaṃyeva vijānāti, no iṭṭharūpaṃ; akantarūpaṃyeva vijānāti, no kantarūpaṃ; amanāparūpaṃyeva vijānāti, no manāparūpaṃ.
Whatever sound one hears with the ear…pe… whatever smell one smells with the nose…pe… whatever taste one tastes with the tongue…pe… whatever tactile sensation one feels with the body…pe… whatever mind-object one cognizes with the mind, one cognizes only disagreeable mind-objects, not agreeable mind-objects; only unlovely mind-objects, not lovely mind-objects; only unpleasant mind-objects, not pleasant mind-objects.
Bất cứ âm thanh nào được nghe bằng tai… (lược)… bất cứ mùi nào được ngửi bằng mũi… (lược)… bất cứ vị nào được nếm bằng lưỡi… (lược)… bất cứ xúc chạm nào được cảm nhận bằng thân… (lược)… bất cứ pháp nào được nhận biết bằng ý, đều là pháp không dễ chịu, không phải pháp dễ chịu; đều là pháp không đáng ưa, không phải pháp đáng ưa; đều là pháp không thích ý, không phải pháp thích ý.
Lābhā vo, bhikkhave, suladdhaṃ vo, bhikkhave, khaṇo vo paṭiladdho brahmacariyavāsāya.
Gain is yours, bhikkhus, well-gained is yours, bhikkhus, an opportunity has been obtained by you for the living of the holy life.
Này các Tỳ-khưu, các ông có lợi ích, các ông đã được lợi ích tốt đẹp, các ông đã đạt được khoảnh khắc thuận lợi để sống đời Phạm hạnh.
Diṭṭhā mayā, bhikkhave, chaphassāyatanikā nāma saggā.
Bhikkhus, I have seen the heavens called ‘having six sense bases’.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã thấy những cõi trời gọi là sáu xứ xúc chạm.
Tattha yaṃ kiñci cakkhunā rūpaṃ passati iṭṭharūpaṃyeva passati, no aniṭṭharūpaṃ; kantarūpaṃyeva passati, no akantarūpaṃ; manāparūpaṃyeva passati, no amanāparūpaṃ…pe… yaṃ kiñci jivhāya rasaṃ sāyati…pe… yaṃ kiñci manasā dhammaṃ vijānāti iṭṭharūpaṃyeva vijānāti, no aniṭṭharūpaṃ; kantarūpaṃyeva vijānāti, no akantarūpaṃ; manāparūpaṃyeva vijānāti, no amanāparūpaṃ.
There, whatever form one sees with the eye, one sees only agreeable forms, not disagreeable forms; one sees only lovely forms, not unlovely forms; one sees only pleasant forms, not unpleasant forms…pe… whatever taste one tastes with the tongue…pe… whatever mind-object one cognizes with the mind, one cognizes only agreeable mind-objects, not disagreeable mind-objects; only lovely mind-objects, not unlovely mind-objects; only pleasant mind-objects, not unpleasant mind-objects.
Ở đó, bất cứ sắc pháp nào được thấy bằng mắt, đều là sắc pháp dễ chịu, không phải sắc pháp không dễ chịu; đều là sắc pháp đáng ưa, không phải sắc pháp không đáng ưa; đều là sắc pháp thích ý, không phải sắc pháp không thích ý… (lược)… bất cứ vị nào được nếm bằng lưỡi… (lược)… bất cứ pháp nào được nhận biết bằng ý, đều là pháp dễ chịu, không phải pháp không dễ chịu; đều là pháp đáng ưa, không phải pháp không đáng ưa; đều là pháp thích ý, không phải pháp không thích ý.
Lābhā vo, bhikkhave, suladdhaṃ vo, bhikkhave, khaṇo vo paṭiladdho brahmacariyavāsāyā’’ti.
Gain is yours, bhikkhus, well-gained is yours, bhikkhus, an opportunity has been obtained by you for the living of the holy life.”
Này các Tỳ-khưu, các ông có lợi ích, các ông đã được lợi ích tốt đẹp, các ông đã đạt được khoảnh khắc thuận lợi để sống đời Phạm hạnh.”
Dutiyaṃ.
The Second.
Bài kinh thứ hai.
136. ‘‘Rūpārāmā, bhikkhave, devamanussā rūparatā rūpasammuditā.
136. “Bhikkhus, devas and humans delight in forms, are enamoured of forms, rejoice in forms.
136. “Này các Tỳ-khưu, chư thiên và loài người thích sắc, ưa sắc, hoan hỷ với sắc.
Rūpavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti.
Bhikkhus, due to the change, fading away, and cessation of forms, devas and humans dwell in suffering.
Do sắc biến đổi, ly tham, diệt tận, chư thiên và loài người sống trong khổ đau, này các Tỳ-khưu.
Saddārāmā, bhikkhave, devamanussā saddaratā saddasammuditā.
Bhikkhus, devas and humans delight in sounds, are enamoured of sounds, rejoice in sounds.
Này các Tỳ-khưu, chư thiên và loài người thích tiếng, ưa tiếng, hoan hỷ với tiếng.
Saddavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti.
Bhikkhus, due to the change, fading away, and cessation of sounds, devas and humans dwell in suffering.
Do tiếng biến đổi, ly tham, diệt tận, chư thiên và loài người sống trong khổ đau, này các Tỳ-khưu.
Gandhārāmā… rasārāmā… phoṭṭhabbārāmā… dhammārāmā, bhikkhave, devamanussā dhammaratā dhammasammuditā.
Delight in smells… tastes… tactile sensations… Bhikkhus, devas and humans delight in mind-objects, are enamoured of mind-objects, rejoice in mind-objects.
Thích mùi… thích vị… thích xúc chạm… Này các Tỳ-khưu, chư thiên và loài người thích pháp, ưa pháp, hoan hỷ với pháp.
Dhammavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti.
Bhikkhus, due to the change, fading away, and cessation of mind-objects, devas and humans dwell in suffering.
Do pháp biến đổi, ly tham, diệt tận, chư thiên và loài người sống trong khổ đau, này các Tỳ-khưu.
Tathāgato ca kho, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho rūpānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavaṃ ca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā na rūpārāmo na rūparato na rūpasammudito.
However, bhikkhus, the Tathāgata, the Arahant, the Perfectly Self-Awakened One, having truly understood the origin, the disappearance, the gratification, the danger, and the escape from forms, does not delight in forms, is not enamoured of forms, does not rejoice in forms.
Còn Như Lai, này các Tỳ-khưu, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các sắc pháp, thì không thích sắc, không ưa sắc, không hoan hỷ với sắc.
Rūpavipariṇāmavirāganirodhā sukho, bhikkhave, tathāgato viharati.
Bhikkhus, due to the change, fading away, and cessation of forms, the Tathāgata dwells happily.
Do sắc biến đổi, ly tham, diệt tận, Như Lai sống trong an lạc, này các Tỳ-khưu.
Saddānaṃ… gandhānaṃ… rasānaṃ… phoṭṭhabbānaṃ… dhammānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā na dhammārāmo, na dhammarato, na dhammasammudito.
Having truly understood the origin, disappearance, gratification, danger, and escape from sounds… smells… tastes… tactile sensations… mind-objects, he does not delight in mind-objects, is not enamoured of mind-objects, does not rejoice in mind-objects.
Sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các tiếng… các mùi… các vị… các xúc chạm… các pháp, thì không thích pháp, không ưa pháp, không hoan hỷ với pháp.
Dhammavipariṇāmavirāganirodhā sukho, bhikkhave, tathāgato viharati’’.
Due to the change, fading away, and cessation of mind-objects, bhikkhus, the Tathāgata dwells happily.”
Do pháp biến đổi, ly tham, diệt tận, Như Lai sống trong an lạc, này các Tỳ-khưu.”
Idamavoca bhagavā.
Thus spoke the Bhagavā.
Thế Tôn đã nói điều này.
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
Having spoken thus, the Sugata, the Teacher, then spoke further:
Sau khi nói điều này, Thiện Thệ, bậc Đạo Sư, lại nói thêm điều này:
137. ‘‘Rūpārāmā, bhikkhave, devamanussā rūparatā rūpasammuditā.
137. “Bhikkhus, devas and humans delight in forms, are enamoured of forms, rejoice in forms.
137. “Này các Tỳ-khưu, chư thiên và loài người thích sắc, ưa sắc, hoan hỷ với sắc.
Rūpavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti.
Bhikkhus, due to the change, fading away, and cessation of forms, devas and humans dwell in suffering.
Do sắc biến đổi, ly tham, diệt tận, chư thiên và loài người sống trong khổ đau, này các Tỳ-khưu.
Saddārāmā… gandhārāmā… rasārāmā … phoṭṭhabbārāmā… dhammārāmā, bhikkhave, devamanussā dhammaratā dhammasammuditā.
Delight in sounds… smells… tastes… tactile sensations… Bhikkhus, devas and humans delight in mind-objects, are enamoured of mind-objects, rejoice in mind-objects.
Thích tiếng… thích mùi… thích vị… thích xúc chạm… Này các Tỳ-khưu, chư thiên và loài người thích pháp, ưa pháp, hoan hỷ với pháp.
Dhammavipariṇāmavirāganirodhā dukkhā, bhikkhave, devamanussā viharanti.
Bhikkhus, due to the change, fading away, and cessation of mind-objects, devas and humans dwell in suffering.
Do pháp biến đổi, ly tham, diệt tận, chư thiên và loài người sống trong khổ đau, này các Tỳ-khưu.
Tathāgato ca, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho rūpānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā na rūpārāmo na rūparato na rūpasammudito.
However, bhikkhus, the Tathāgata, the Arahant, the Perfectly Self-Awakened One, having truly understood the origin, the disappearance, the gratification, the danger, and the escape from forms, does not delight in forms, is not enamoured of forms, does not rejoice in forms.
Còn Như Lai, này các Tỳ-khưu, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các sắc pháp, thì không thích sắc, không ưa sắc, không hoan hỷ với sắc.
Rūpavipariṇāmavirāganirodhā sukho, bhikkhave, tathāgato viharati.
Bhikkhus, due to the change, fading away, and cessation of forms, the Tathāgata dwells happily.
Do sắc biến đổi, ly tham, diệt tận, Như Lai sống trong an lạc, này các Tỳ-khưu.
Saddānaṃ… gandhānaṃ… rasānaṃ… phoṭṭhabbānaṃ… dhammānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā na dhammārāmo na dhammarato na dhammasammudito.
Having truly understood the origin, disappearance, gratification, danger, and escape from sounds… smells… tastes… tactile sensations… mind-objects, he does not delight in mind-objects, is not enamoured of mind-objects, does not rejoice in mind-objects.
Sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các tiếng… các mùi… các vị… các xúc chạm… các pháp, thì không thích pháp, không ưa pháp, không hoan hỷ với pháp.
Dhammavipariṇāmavirāganirodhā sukho, bhikkhave, tathāgato viharatī’’ti.
Through the cessation of dispassion towards the alteration of phenomena, bhikkhus, the Tathāgata dwells happily.”
Này các Tỳ-kheo, do sự chấm dứt, ly tham, và biến đổi của các pháp, Như Lai sống an lạc.”
Catutthaṃ.
The Fourth.
Thứ tư.
138. ‘‘Yaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ taṃ pajahatha.
138. “Bhikkhus, what is not yours, abandon that.
138. “Này các Tỳ-kheo, cái gì không phải của các ông, hãy từ bỏ nó.
Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
That, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness.
Cái đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông.
Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṃ?
And what, bhikkhus, is not yours?
Và này các Tỳ-kheo, cái gì không phải của các ông?
Cakkhu, bhikkhave, na tumhākaṃ; taṃ pajahatha.
The eye, bhikkhus, is not yours; abandon it.
Mắt, này các Tỳ-kheo, không phải của các ông; hãy từ bỏ nó.
Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati…pe… jivhā na tumhākaṃ; taṃ pajahatha.
That, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness…pe… The tongue is not yours; abandon it.
Cái đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông… (lặp lại)… lưỡi không phải của các ông; hãy từ bỏ nó.
Sā vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissati…pe… mano na tumhākaṃ; taṃ pajahatha.
That, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness…pe… The mind is not yours; abandon it.
Cái đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông… (lặp lại)… ý không phải của các ông; hãy từ bỏ nó.
So vo pahīno hitāya sukhāya bhavissati.
That, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness.
Cái đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông.
Seyyathāpi, bhikkhave, yaṃ imasmiṃ jetavane tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ taṃ jano hareyya vā ḍaheyya vā yathāpaccayaṃ vā kareyya, api nu tumhākaṃ evamassa – ‘amhe jano harati vā ḍahati vā yathāpaccayaṃ vā karotī’’’ti?
Just as, bhikkhus, if people were to carry away, or burn, or do with as they please, the grass, wood, branches, and leaves in this Jeta Grove, would it occur to you: ‘People are carrying us away, or burning us, or doing with us as they please’?”
Ví như, này các Tỳ-kheo, cỏ, củi, cành cây, lá cây trong khu vườn Jetavana này, người ta có thể mang đi, hoặc đốt cháy, hoặc làm gì tùy ý, các ông có nghĩ rằng: ‘Người ta mang chúng tôi đi, hoặc đốt chúng tôi, hoặc làm gì chúng tôi tùy ý’ không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, venerable sir.”
“Bạch Thế Tôn, không phải vậy.”
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
“For what reason?”
“Vì sao vậy?”
‘‘Na hi no etaṃ, bhante, attā vā attaniyaṃ vā’’ti.
“Because, venerable sir, that is not our self or belonging to self.”
“Bạch Thế Tôn, vì cái đó không phải là tự ngã của chúng con, cũng không phải là cái thuộc về tự ngã của chúng con.”
‘‘Evameva kho, bhikkhave, cakkhu na tumhākaṃ; taṃ pajahatha.
“Even so, bhikkhus, the eye is not yours; abandon it.
“Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, mắt không phải của các ông; hãy từ bỏ nó.
Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati…pe… jivhā na tumhākaṃ; taṃ pajahatha.
That, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness…pe… The tongue is not yours; abandon it.
Cái đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông… (lặp lại)… lưỡi không phải của các ông; hãy từ bỏ nó.
Sā vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissati…pe… mano na tumhākaṃ; taṃ pajahatha.
That, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness…pe… The mind is not yours; abandon it.
Cái đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông… (lặp lại)… ý không phải của các ông; hãy từ bỏ nó.
So vo pahīno hitāya sukhāya bhavissatī’’ti.
That, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness.”
Cái đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông.”
Pañcamaṃ.
The Fifth.
Thứ năm.
139. ‘‘Yaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha.
139. “Bhikkhus, what is not yours, abandon that.
139. “Này các Tỳ-kheo, cái gì không phải của các ông, hãy từ bỏ nó.
Taṃ vo pahīnaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
That, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness.
Cái đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông.
Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṃ?
And what, bhikkhus, is not yours?
Và này các Tỳ-kheo, cái gì không phải của các ông?
Rūpā, bhikkhave, na tumhākaṃ; te pajahatha.
Forms, bhikkhus, are not yours; abandon them.
Sắc, này các Tỳ-kheo, không phải của các ông; hãy từ bỏ chúng.
Te vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissanti.
Those, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness.
Chúng đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông.
Saddā… gandhā… rasā… phoṭṭhabbā… dhammā na tumhākaṃ; te pajahatha.
Sounds… smells… tastes… tactile objects… Dhammas are not yours; abandon them.
Âm thanh… mùi… vị… xúc chạm… các pháp không phải của các ông; hãy từ bỏ chúng.
Te vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissanti.
Those, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness.
Chúng đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông.
Seyyathāpi, bhikkhave, yaṃ imasmiṃ jetavane…pe… evameva kho, bhikkhave, rūpā na tumhākaṃ; te pajahatha.
Just as, bhikkhus, if in this Jeta Grove…pe… even so, bhikkhus, forms are not yours; abandon them.
Ví như, này các Tỳ-kheo, trong khu vườn Jetavana này… (lặp lại)… cũng vậy, này các Tỳ-kheo, sắc không phải của các ông; hãy từ bỏ chúng.
Te vo pahīnā hitāya sukhāya bhavissantī’’ti.
Those, being abandoned by you, will be for your welfare and happiness.”
Chúng đó, khi được từ bỏ, sẽ đem lại lợi ích và an lạc cho các ông.”
Chaṭṭhaṃ.
The Sixth.
Thứ sáu.
140. ‘‘Cakkhuṃ, bhikkhave, aniccaṃ.
140. “The eye, bhikkhus, is impermanent.
140. “Mắt, này các Tỳ-kheo, là vô thường.
Yopi hetu, yopi paccayo cakkhussa uppādāya, sopi anicco.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of the eye, that too is impermanent.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho mắt sinh khởi, cái đó cũng là vô thường.
Aniccasambhūtaṃ, bhikkhave, cakkhu kuto niccaṃ bhavissati…pe… jivhā aniccā.
How, bhikkhus, can the eye, arisen from the impermanent, be permanent?…pe… The tongue is impermanent.
Mắt, này các Tỳ-kheo, do vô thường mà sinh, làm sao có thể là thường được… (lặp lại)… lưỡi là vô thường.
Yopi hetu, yopi paccayo jivhāya uppādāya sopi anicco.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of the tongue, that too is impermanent.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho lưỡi sinh khởi, cái đó cũng là vô thường.
Aniccasambhūtā, bhikkhave, jivhā kuto niccā bhavissati…pe… mano anicco.
How, bhikkhus, can the tongue, arisen from the impermanent, be permanent?…pe… The mind is impermanent.
Lưỡi, này các Tỳ-kheo, do vô thường mà sinh, làm sao có thể là thường được… (lặp lại)… ý là vô thường.
Yopi, bhikkhave, hetu yopi paccayo manassa uppādāya, sopi anicco.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of the mind, that too is impermanent.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho ý sinh khởi, cái đó cũng là vô thường.
Aniccasambhūto, bhikkhave, mano kuto nicco bhavissati!
How, bhikkhus, can the mind, arisen from the impermanent, be permanent!
Ý, này các Tỳ-kheo, do vô thường mà sinh, làm sao có thể là thường được!
Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati…pe… jivhāyapi nibbindati…pe… nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.
Seeing thus, bhikkhus, the well-taught noble disciple becomes dispassionate towards the eye…pe… becomes dispassionate towards the tongue…pe… being dispassionate, he is unattached; through unattachment, he is liberated; in liberation, the knowledge ‘it is liberated’ arises.
Thấy vậy, này các Tỳ-kheo, vị Thánh đệ tử đã học hỏi sẽ nhàm chán đối với mắt… (lặp lại)… cũng nhàm chán đối với lưỡi… (lặp lại)… nhàm chán thì ly tham; do ly tham mà giải thoát; khi giải thoát, có trí tuệ biết rằng mình đã giải thoát.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī’’ti.
He understands: ‘Destroyed is birth, lived is the holy life, done is what had to be done, there is no more for this state of being.’”
Vị ấy biết rõ: ‘Sự sinh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa.’”
Sattamaṃ.
The Seventh.
Thứ bảy.
141. ‘‘Cakkhuṃ, bhikkhave, dukkhaṃ.
141. “The eye, bhikkhus, is suffering.
141. “Mắt, này các Tỳ-kheo, là khổ.
Yopi hetu yopi paccayo cakkhussa uppādāya, sopi dukkho.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of the eye, that too is suffering.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho mắt sinh khởi, cái đó cũng là khổ.
Dukkhasambhūtaṃ, bhikkhave, cakkhu kuto sukhaṃ bhavissati…pe… jivhā dukkhā.
How, bhikkhus, can the eye, arisen from suffering, be happiness?…pe… The tongue is suffering.
Mắt, này các Tỳ-kheo, do khổ mà sinh, làm sao có thể là lạc được… (lặp lại)… lưỡi là khổ.
Yopi hetu, yopi paccayo jivhāya uppādāya, sopi dukkho.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of the tongue, that too is suffering.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho lưỡi sinh khởi, cái đó cũng là khổ.
Dukkhasambhūtā, bhikkhave, jivhā kuto sukhā bhavissati…pe… mano dukkho.
How, bhikkhus, can the tongue, arisen from suffering, be happiness?…pe… The mind is suffering.
Lưỡi, này các Tỳ-kheo, do khổ mà sinh, làm sao có thể là lạc được… (lặp lại)… ý là khổ.
Yopi hetu yopi paccayo manassa uppādāya, sopi dukkho.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of the mind, that too is suffering.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho ý sinh khởi, cái đó cũng là khổ.
Dukkhasambhūto, bhikkhave, mano kuto sukho bhavissati!
How, bhikkhus, can the mind, arisen from suffering, be happiness!
Ý, này các Tỳ-kheo, do khổ mà sinh, làm sao có thể là lạc được!
Evaṃ passaṃ…pe… ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī’’ti.
Seeing thus…pe… he understands: ‘Destroyed is birth, lived is the holy life, done is what had to be done, there is no more for this state of being.’”
Thấy vậy… (lặp lại)… ‘Sự sinh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa.’”
Aṭṭhamaṃ.
The Eighth.
Thứ tám.
142. ‘‘Cakkhuṃ, bhikkhave, anattā.
142. “The eye, bhikkhus, is not-self.
142. “Mắt, này các Tỳ-kheo, là vô ngã.
Yopi hetu, yopi paccayo cakkhussa uppādāya, sopi anattā.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of the eye, that too is not-self.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho mắt sinh khởi, cái đó cũng là vô ngã.
Anattasambhūtaṃ, bhikkhave, cakkhu kuto attā bhavissati…pe… jivhā anattā.
How, bhikkhus, can the eye, arisen from not-self, be self?…pe… The tongue is not-self.
Mắt, này các Tỳ-kheo, do vô ngã mà sinh, làm sao có thể là ngã được… (lặp lại)… lưỡi là vô ngã.
Yopi hetu yopi paccayo jivhāya uppādāya, sopi anattā.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of the tongue, that too is not-self.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho lưỡi sinh khởi, cái đó cũng là vô ngã.
Anattasambhūtā, bhikkhave, jivhā kuto attā bhavissati…pe… mano anattā.
How, bhikkhus, can the tongue, arisen from not-self, be self?…pe… The mind is not-self.
Lưỡi, này các Tỳ-kheo, do vô ngã mà sinh, làm sao có thể là ngã được… (lặp lại)… ý là vô ngã.
Yopi hetu yopi paccayo manassa uppādāya, sopi anattā.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of the mind, that too is not-self.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho ý sinh khởi, cái đó cũng là vô ngã.
Anattasambhūto, bhikkhave, mano kuto attā bhavissati!
How, bhikkhus, can the mind, arisen from not-self, be self!
Ý, này các Tỳ-kheo, do vô ngã mà sinh, làm sao có thể là ngã được!
Evaṃ passaṃ…pe… ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī’’ti.
Seeing thus…pe… he understands: ‘Destroyed is birth, lived is the holy life, done is what had to be done, there is no more for this state of being.’”
Thấy vậy… (lặp lại)… ‘Sự sinh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa.’”
Navamaṃ.
The Ninth.
Thứ chín.
143. ‘‘Rūpā, bhikkhave, aniccā.
143. “Forms, bhikkhus, are impermanent.
143. “Sắc, này các Tỳ-kheo, là vô thường.
Yopi hetu, yopi paccayo rūpānaṃ uppādāya, sopi anicco.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of forms, that too is impermanent.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho sắc sinh khởi, cái đó cũng là vô thường.
Aniccasambhūtā, bhikkhave, rūpā kuto niccā bhavissanti!
How, bhikkhus, can forms, arisen from the impermanent, be permanent!
Sắc, này các Tỳ-kheo, do vô thường mà sinh, làm sao có thể là thường được!
Saddā… gandhā… rasā… phoṭṭhabbā… dhammā aniccā.
Sounds… smells… tastes… tactile objects… Dhammas are impermanent.
Âm thanh… mùi… vị… xúc chạm… các pháp là vô thường.
Yopi hetu, yopi paccayo dhammānaṃ uppādāya, sopi anicco.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of Dhammas, that too is impermanent.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho các pháp sinh khởi, cái đó cũng là vô thường.
Aniccasambhūtā, bhikkhave, dhammā kuto niccā bhavissanti!
How, bhikkhus, can Dhammas, arisen from the impermanent, be permanent!
Các pháp, này các Tỳ-kheo, do vô thường mà sinh, làm sao có thể là thường được!
Evaṃ passaṃ…pe… ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī’’ti.
Seeing thus…pe… he understands: ‘Destroyed is birth, lived is the holy life, done is what had to be done, there is no more for this state of being.’”
Thấy vậy… (lặp lại)… ‘Sự sinh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa.’”
Dasamaṃ.
The Tenth.
Thứ mười.
144. ‘‘Rūpā, bhikkhave, dukkhā.
144. “Forms, bhikkhus, are suffering.
144. “Sắc, này các Tỳ-kheo, là khổ.
Yopi hetu, yopi paccayo rūpānaṃ uppādāya, sopi dukkho.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of forms, that too is suffering.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho sắc sinh khởi, cái đó cũng là khổ.
Dukkhasambhūtā, bhikkhave, rūpā kuto sukhā bhavissanti!
How, bhikkhus, can forms, arisen from suffering, be happiness!
Sắc, này các Tỳ-kheo, do khổ mà sinh, làm sao có thể là lạc được!
Saddā… gandhā… rasā… phoṭṭhabbā… dhammā dukkhā.
Sounds… smells… tastes… tactile objects… Dhammas are suffering.
Âm thanh… mùi… vị… xúc chạm… các pháp là khổ.
Yopi hetu, yopi paccayo dhammānaṃ uppādāya, sopi dukkho.
Whatever cause, whatever condition there is for the arising of Dhammas, that too is suffering.
Cái gì là nhân, cái gì là duyên cho các pháp sinh khởi, cái đó cũng là khổ.
Dukkhasambhūtā, bhikkhave, dhammā kuto sukhā bhavissanti!
How, bhikkhus, can Dhammas, arisen from suffering, be happiness!
Các pháp, này các Tỳ-kheo, do khổ mà sinh, làm sao có thể là lạc được!
Evaṃ passaṃ…pe… ‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī’’ti.
Seeing thus…pe… he understands: ‘Destroyed is birth, lived is the holy life, done is what had to be done, there is no more for this state of being.’”
Thấy vậy… (lặp lại)… ‘Sự sinh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa.’”
Ekādasamaṃ.
The Eleventh.
Thứ mười một.