222. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
222. Thus have I heard: On one occasion the Blessed One was staying at Sāvatthī, in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.
222. Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Thế Tôn trú tại Sāvatthī, trong khu vườn Jetavana của ông Anāthapiṇḍika.
Tena kho pana samayena āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ ativelaṃ saṃsaṭṭho viharati.
Now on that occasion, Venerable Moḷiyaphagguṇa was dwelling too intimately associated with bhikkhunīs.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Moḷiyaphagguna sống quá thân cận với các Tỳ-khưu-ni.
Evaṃ saṃsaṭṭho āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ viharati – sace koci bhikkhu āyasmato moḷiyaphaggunassa sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ avaṇṇaṃ bhāsati, tenāyasmā moḷiyaphagguno kupito anattamano adhikaraṇampi karoti.
Venerable Moḷiyaphagguṇa was dwelling so intimately associated with bhikkhunīs that if any bhikkhu spoke ill of those bhikkhunīs in the presence of Venerable Moḷiyaphagguṇa, Venerable Moḷiyaphagguṇa, angered and displeased, would even make an issue of it.
Tôn giả Moḷiyaphagguna sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni đến mức: nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt Tôn giả Moḷiyaphagguna, thì Tôn giả Moḷiyaphagguna liền tức giận, không vui, và gây ra tranh chấp.
Sace pana koci bhikkhu tāsaṃ bhikkhunīnaṃ sammukhā āyasmato moḷiyaphaggunassa avaṇṇaṃ bhāsati, tena tā bhikkhuniyo kupitā anattamanā adhikaraṇampi karonti.
And if any bhikkhu spoke ill of Venerable Moḷiyaphagguṇa in the presence of those bhikkhunīs, those bhikkhunīs, angered and displeased, would even make an issue of it.
Còn nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai Tôn giả Moḷiyaphagguna trước mặt các Tỳ-khưu-ni ấy, thì các Tỳ-khưu-ni ấy liền tức giận, không vui, và gây ra tranh chấp.
Evaṃ saṃsaṭṭho āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ viharati.
Venerable Moḷiyaphagguṇa was dwelling so intimately associated with bhikkhunīs.
Tôn giả Moḷiyaphagguna sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni như vậy.
Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then a certain bhikkhu approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
Rồi một Tỳ-khưu khác đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘āyasmā, bhante, moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ ativelaṃ saṃsaṭṭho viharati.
Sitting to one side, that bhikkhu said to the Blessed One: ‘‘Venerable sir, Venerable Moḷiyaphagguṇa is dwelling too intimately associated with bhikkhunīs.
Ngồi một bên, Tỳ-khưu ấy bạch Đức Thế Tôn: “Bạch Đức Thế Tôn, Tôn giả Moḷiyaphagguna sống quá thân cận với các Tỳ-khưu-ni.
Evaṃ saṃsaṭṭho, bhante, āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ viharati – sace koci bhikkhu āyasmato moḷiyaphaggunassa sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ avaṇṇaṃ bhāsati, tenāyasmā moḷiyaphagguno kupito anattamano adhikaraṇampi karoti.
Venerable sir, Venerable Moḷiyaphagguṇa is dwelling so intimately associated with bhikkhunīs that if any bhikkhu spoke ill of those bhikkhunīs in the presence of Venerable Moḷiyaphagguṇa, Venerable Moḷiyaphagguṇa, angered and displeased, would even make an issue of it.
Bạch Đức Thế Tôn, Tôn giả Moḷiyaphagguna sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni đến mức: nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt Tôn giả Moḷiyaphagguna, thì Tôn giả Moḷiyaphagguna liền tức giận, không vui, và gây ra tranh chấp.
Sace pana koci bhikkhu tāsaṃ bhikkhunīnaṃ sammukhā āyasmato moḷiyaphaggunassa avaṇṇaṃ bhāsati, tena tā bhikkhuniyo kupitā anattamanā adhikaraṇampi karonti.
And if any bhikkhu spoke ill of Venerable Moḷiyaphagguṇa in the presence of those bhikkhunīs, those bhikkhunīs, angered and displeased, would even make an issue of it.
Còn nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai Tôn giả Moḷiyaphagguna trước mặt các Tỳ-khưu-ni ấy, thì các Tỳ-khưu-ni ấy liền tức giận, không vui, và gây ra tranh chấp.
Evaṃ saṃsaṭṭho, bhante, āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ viharatī’’ti.
Venerable sir, Venerable Moḷiyaphagguṇa is dwelling so intimately associated with bhikkhunīs.’’
Bạch Đức Thế Tôn, Tôn giả Moḷiyaphagguna sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni như vậy.”
223. Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena moḷiyaphaggunaṃ bhikkhuṃ āmantehi – ‘satthā taṃ, āvuso phagguna, āmantetī’’’ti.
223. Then the Blessed One addressed a certain bhikkhu: ‘‘Come, bhikkhu, in my name call the bhikkhu Moḷiyaphagguṇa, saying: ‘The Teacher calls you, friend Phagguṇa.’’’
223. Rồi Đức Thế Tôn gọi một Tỳ-khưu khác và nói: “Này Tỳ-khưu, hãy đi và nói với Tỳ-khưu Moḷiyaphagguna theo lời của Ta: ‘Này Hiền giả Phagguna, Đức Bổn Sư gọi Hiền giả’.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yenāyasmā moḷiyaphagguno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ moḷiyaphaggunaṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso phagguna, āmantetī’’ti.
‘‘Yes, Venerable sir,’’ that bhikkhu replied to the Blessed One; he approached Venerable Moḷiyaphagguṇa, and having approached, he said to Venerable Moḷiyaphagguṇa: ‘‘The Teacher calls you, friend Phagguṇa.’’
“Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn,” Tỳ-khưu ấy vâng lời Đức Thế Tôn rồi đến chỗ Tôn giả Moḷiyaphagguna; sau khi đến, nói với Tôn giả Moḷiyaphagguna: “Này Hiền giả Phagguna, Đức Bổn Sư gọi Hiền giả.”
‘‘Evamāvuso’’ti kho āyasmā moḷiyaphagguno tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
‘‘Yes, friend,’’ Venerable Moḷiyaphagguṇa replied to that bhikkhu; he approached the Blessed One, and having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
“Thưa vâng, Hiền giả,” Tôn giả Moḷiyaphagguna vâng lời Tỳ-khưu ấy rồi đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ moḷiyaphaggunaṃ bhagavā etadavoca –
The Bhagavā said this to Venerable Moḷiyaphagguna, who was sitting to one side –
Thế Tôn đã nói điều này với Tôn giả Moḷiyaphagguna đang ngồi một bên:
‘‘Saccaṃ kira tvaṃ, phagguna, bhikkhunīhi saddhiṃ ativelaṃ saṃsaṭṭho viharasi?
"Is it true, Phagguna, that you live excessively mingled with bhikkhunīs?
“Này Phagguna, có thật là ông sống quá thân cận với các Tỳ-khưu-ni không?
Evaṃ saṃsaṭṭho kira tvaṃ, phagguna, bhikkhunīhi saddhiṃ viharasi – sace koci bhikkhu tuyhaṃ sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ avaṇṇaṃ bhāsati, tena tvaṃ kupito anattamano adhikaraṇampi karosi.
Is it true, Phagguna, that you live mingled with bhikkhunīs in such a way that if any bhikkhu speaks ill of those bhikkhunīs in your presence, you become angry and displeased, and even initiate a dispute?
Này Phagguna, có thật là ông sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni đến mức nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt ông, thì ông liền nổi giận, bất mãn, và gây ra tranh chấp không?
Sace pana koci bhikkhu tāsaṃ bhikkhunīnaṃ sammukhā tuyhaṃ avaṇṇaṃ bhāsati, tena tā bhikkhuniyo kupitā anattamanā adhikaraṇampi karonti.
And if any bhikkhu speaks ill of you in the presence of those bhikkhunīs, those bhikkhunīs become angry and displeased, and even initiate a dispute.
Còn nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai ông trước mặt các Tỳ-khưu-ni ấy, thì các Tỳ-khưu-ni ấy liền nổi giận, bất mãn, và gây ra tranh chấp không?
Evaṃ saṃsaṭṭho kira tvaṃ, phagguna, bhikkhunīhi saddhiṃ viharasī’’ti?
Is it true, Phagguna, that you live mingled with bhikkhunīs in such a way?"
Này Phagguna, có thật là ông sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni đến mức đó không?”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti.
"Yes, Venerable Sir."
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
‘‘Nanu tvaṃ, phagguna, kulaputto saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito’’ti?
"Phagguna, aren't you a young man of good family who went forth from the home life into homelessness out of faith?"
“Này Phagguna, chẳng phải ông là thiện nam tử đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình với niềm tin sao?”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti.
"Yes, Venerable Sir."
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
224. ‘‘Na kho te etaṃ, phagguna, patirūpaṃ kulaputtassa saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitassa, yaṃ tvaṃ bhikkhunīhi saddhiṃ ativelaṃ saṃsaṭṭho vihareyyāsi.
224. "Phagguna, it is not proper for you, a young man of good family who went forth from the home life into homelessness out of faith, to live excessively mingled with bhikkhunīs.
224. “Này Phagguna, việc ông sống quá thân cận với các Tỳ-khưu-ni là điều không phù hợp với một thiện nam tử đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình với niềm tin.
Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ avaṇṇaṃ bhāseyya, tatrāpi tvaṃ, phagguna, ye gehasitā* chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
Therefore, Phagguna, even if someone were to speak ill of those bhikkhunīs in your presence, you, Phagguna, should abandon those desires rooted in the household life, those thoughts rooted in the household life.
Do đó, này Phagguna, ngay cả khi có ai đó nói lời chê bai các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt ông, thì này Phagguna, ông cũng nên từ bỏ những dục vọng thế tục, những tư duy thế tục.
Tatrāpi te, phagguna, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva me cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Therein, Phagguna, you should train yourselves thus: 'My mind will not be corrupted, nor will I utter evil words; I will remain compassionate, with a mind of loving-kindness, without inner ill-will.'
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông nên học tập như sau: ‘Tâm ta sẽ không biến đổi, ta sẽ không nói lời ác, ta sẽ sống với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích của người khác, không có ác ý.’
Evañhi te, phagguna, sikkhitabbaṃ.
Thus, Phagguna, should you train yourselves.
Này Phagguna, ông nên học tập như vậy.
‘‘Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ pāṇinā pahāraṃ dadeyya, leḍḍunā pahāraṃ dadeyya, daṇḍena pahāraṃ dadeyya, satthena pahāraṃ dadeyya.
"Therefore, Phagguna, even if someone were to strike those bhikkhunīs with a hand, strike them with a clod of earth, strike them with a stick, strike them with a weapon in your presence.
“Do đó, này Phagguna, ngay cả khi có ai đó dùng tay đánh, dùng cục đất ném, dùng gậy đánh, dùng dao đâm các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt ông.
Tatrāpi tvaṃ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
Therein, Phagguna, you should abandon those desires rooted in the household life, those thoughts rooted in the household life.
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông cũng nên từ bỏ những dục vọng thế tục, những tư duy thế tục.
Tatrāpi te, phagguna, evaṃ sikkhitabbaṃ ‘na ceva me cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Therein, Phagguna, you should train yourselves thus: 'My mind will not be corrupted, nor will I utter evil words; I will remain compassionate, with a mind of loving-kindness, without inner ill-will.'
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông nên học tập như sau: ‘Tâm ta sẽ không biến đổi, ta sẽ không nói lời ác, ta sẽ sống với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích của người khác, không có ác ý.’
Evañhi te, phagguna, sikkhitabbaṃ.
Thus, Phagguna, should you train yourselves.
Này Phagguna, ông nên học tập như vậy.
‘‘Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci sammukhā avaṇṇaṃ bhāseyya, tatrāpi tvaṃ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
"Therefore, Phagguna, even if someone were to speak ill of you in your presence, you, Phagguna, should abandon those desires rooted in the household life, those thoughts rooted in the household life.
“Do đó, này Phagguna, ngay cả khi có ai đó nói lời chê bai ông trước mặt ông, thì này Phagguna, ông cũng nên từ bỏ những dục vọng thế tục, những tư duy thế tục.
Tatrāpi te, phagguna, evaṃ sikkhitabbaṃ ‘na ceva me cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Therein, Phagguna, you should train yourselves thus: 'My mind will not be corrupted, nor will I utter evil words; I will remain compassionate, with a mind of loving-kindness, without inner ill-will.'
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông nên học tập như sau: ‘Tâm ta sẽ không biến đổi, ta sẽ không nói lời ác, ta sẽ sống với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích của người khác, không có ác ý.’
Evañhi te, phagguna, sikkhitabbaṃ.
Thus, Phagguna, should you train yourselves.
Này Phagguna, ông nên học tập như vậy.
‘‘Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci pāṇinā pahāraṃ dadeyya, leḍḍunā pahāraṃ dadeyya, daṇḍena pahāraṃ dadeyya, satthena pahāraṃ dadeyya, tatrāpi tvaṃ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
"Therefore, Phagguna, even if someone were to strike you with a hand, strike you with a clod of earth, strike you with a stick, strike you with a weapon, therein, Phagguna, you should abandon those desires rooted in the household life, those thoughts rooted in the household life.
“Do đó, này Phagguna, ngay cả khi có ai đó dùng tay đánh, dùng cục đất ném, dùng gậy đánh, dùng dao đâm ông trước mặt ông, thì này Phagguna, ông cũng nên từ bỏ những dục vọng thế tục, những tư duy thế tục.
Tatrāpi te, phagguna, evaṃ sikkhitabbaṃ ‘na ceva me cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Therein, Phagguna, you should train yourselves thus: 'My mind will not be corrupted, nor will I utter evil words; I will remain compassionate, with a mind of loving-kindness, without inner ill-will.'
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông nên học tập như sau: ‘Tâm ta sẽ không biến đổi, ta sẽ không nói lời ác, ta sẽ sống với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích của người khác, không có ác ý.’
Evañhi te, phagguna, sikkhitabba’’nti.
Thus, Phagguna, should you train yourselves."
Này Phagguna, ông nên học tập như vậy.”
225. Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘ārādhayiṃsu vata me, bhikkhave, bhikkhū ekaṃ samayaṃ cittaṃ.
225. Then the Bhagavā addressed the bhikkhus: "Bhikkhus, the bhikkhus once indeed satisfied my mind.
225. Rồi Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu và nói: “Này các Tỳ-khưu, có một lần các Tỳ-khưu đã làm cho tâm Ta hoan hỷ.
Idhāhaṃ, bhikkhave, bhikkhū āmantesiṃ – ahaṃ kho, bhikkhave, ekāsanabhojanaṃ bhuñjāmi.
Here, bhikkhus, I addressed the bhikkhus thus: 'Bhikkhus, I eat only one meal a day.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Ta đã gọi các Tỳ-khưu và nói: ‘Này các Tỳ-khưu, Ta ăn một bữa ăn duy nhất.
Ekāsanabhojanaṃ kho ahaṃ, bhikkhave, bhuñjamāno appābādhatañca sañjānāmi appātaṅkatañca lahuṭṭhānañca balañca phāsuvihārañca.
Bhikkhus, eating only one meal a day, I experience freedom from illness, freedom from affliction, lightness of body, strength, and a comfortable abiding.
Này các Tỳ-khưu, khi Ta ăn một bữa ăn duy nhất, Ta cảm thấy ít bệnh tật, ít phiền não, thân thể nhẹ nhàng, có sức lực và sống an lạc.
Etha tumhepi, bhikkhave, ekāsanabhojanaṃ bhuñjatha.
Come, bhikkhus, you too eat only one meal a day.
Này các Tỳ-khưu, các ông cũng hãy ăn một bữa ăn duy nhất.
Ekāsanabhojanaṃ kho, bhikkhave, tumhepi bhuñjamānā appābādhatañca sañjānissatha appātaṅkatañca lahuṭṭhānañca balañca phāsuvihārañcāti.
Bhikkhus, you too, eating only one meal a day, will experience freedom from illness, freedom from affliction, lightness of body, strength, and a comfortable abiding.'
Này các Tỳ-khưu, khi các ông ăn một bữa ăn duy nhất, các ông cũng sẽ cảm thấy ít bệnh tật, ít phiền não, thân thể nhẹ nhàng, có sức lực và sống an lạc.’
Na me, bhikkhave, tesu bhikkhūsu anusāsanī karaṇīyā ahosi; satuppādakaraṇīyameva me, bhikkhave, tesu bhikkhūsu ahosi.
Bhikkhus, there was no need for me to instruct those bhikkhus; for me, bhikkhus, it was merely a matter of arousing their mindfulness.
Này các Tỳ-khưu, Ta không cần phải giáo huấn các Tỳ-khưu ấy; Ta chỉ cần nhắc nhở các Tỳ-khưu ấy để họ khởi tâm niệm mà thôi.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, subhūmiyaṃ catumahāpathe ājaññaratho yutto assa ṭhito odhastapatodo.
"Just as, bhikkhus, at a crossroad on good ground, an excellent chariot, yoked and with goad laid aside, might stand.
“Ví như, này các Tỳ-khưu, trên một con đường lớn bằng phẳng, có một cỗ xe ngựa tốt được thắng sẵn, đứng đó với roi đã hạ xuống.
Tamenaṃ dakkho yoggācariyo assadammasārathi abhiruhitvā, vāmena hatthena rasmiyo gahetvā, dakkhiṇena hatthena patodaṃ gahetvā, yenicchakaṃ yadicchakaṃ sāreyyapi paccāsāreyyapi.
Then a skilled charioteer, a trainer of horses, having mounted it, holding the reins with his left hand and the goad with his right hand, might drive it forward or backward as he wished, wherever he wished.
Người huấn luyện ngựa tài giỏi, người điều khiển ngựa đã thuần thục, sau khi leo lên, tay trái nắm dây cương, tay phải cầm roi, có thể điều khiển cỗ xe đi tới hay lùi lại theo ý muốn của mình.
Evameva kho, bhikkhave, na me tesu bhikkhūsu anusāsanī karaṇīyā ahosi, satuppādakaraṇīyameva me, bhikkhave, tesu bhikkhūsu ahosi.
Even so, bhikkhus, there was no need for me to instruct those bhikkhus; for me, bhikkhus, it was merely a matter of arousing their mindfulness.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, Ta không cần phải giáo huấn các Tỳ-khưu ấy; Ta chỉ cần nhắc nhở các Tỳ-khưu ấy để họ khởi tâm niệm mà thôi.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhepi akusalaṃ pajahatha, kusalesu dhammesu āyogaṃ karotha.
Therefore, bhikkhus, you too should abandon unwholesome states and make an effort in wholesome states.
Do đó, này các Tỳ-khưu, các ông cũng hãy từ bỏ những điều bất thiện, và nỗ lực trong các pháp thiện.
Evañhi tumhepi imasmiṃ dhammavinaye vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjissatha.
For thus, you too will attain growth, increase, and fullness in this Dhamma and Discipline.
Khi làm như vậy, các ông cũng sẽ đạt được sự tăng trưởng, phát triển và viên mãn trong Giáo pháp và Giới luật này.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, gāmassa vā nigamassa vā avidūre mahantaṃ sālavanaṃ.
"Just as, bhikkhus, not far from a village or town, there might be a large sal forest.
“Ví như, này các Tỳ-khưu, gần một làng hay một thị trấn có một khu rừng sāla rộng lớn.
Tañcassa eḷaṇḍehi sañchannaṃ.
And it might be overgrown with castor-oil plants.
Khu rừng ấy bị bao phủ bởi những cây thầu dầu.
Tassa kocideva puriso uppajjeyya atthakāmo hitakāmo yogakkhemakāmo.
Then a certain man, wishing for his own benefit, wishing for his welfare, wishing for security from bondage, might arise.
Có một người đàn ông xuất hiện, muốn làm lợi ích, muốn làm điều thiện, muốn an lạc.
So yā tā sālalaṭṭhiyo kuṭilā ojāpaharaṇiyo* tā chetvā* bahiddhā nīhareyya, antovanaṃ suvisodhitaṃ visodheyya.
He would cut down those crooked sal saplings that hinder the sap and carry them out, and he would thoroughly clear the interior of the forest.
Người ấy sẽ chặt bỏ những cây sāla non cong queo, hút hết nhựa sống, và mang chúng ra bên ngoài, dọn dẹp sạch sẽ bên trong khu rừng.
Yā pana tā sālalaṭṭhiyo ujukā sujātā tā sammā parihareyya.
But those sal saplings that are straight and well-grown, he would properly tend.
Còn những cây sāla non thẳng thắn, phát triển tốt, người ấy sẽ chăm sóc cẩn thận.
Evañhetaṃ, bhikkhave, sālavanaṃ aparena samayena vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjeyya.
Thus, bhikkhus, that sal forest would in due course attain growth, increase, and fullness.
Như vậy, này các Tỳ-khưu, khu rừng sāla ấy sau một thời gian sẽ tăng trưởng, phát triển và viên mãn.
Evameva kho, bhikkhave, tumhepi akusalaṃ pajahatha, kusalesu dhammesu āyogaṃ karotha.
Even so, bhikkhus, you too should abandon unwholesome states and make an effort in wholesome states.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, các ông cũng hãy từ bỏ những điều bất thiện, và nỗ lực trong các pháp thiện.
Evañhi tumhepi imasmiṃ dhammavinaye vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjissatha.
For thus, you too will attain growth, increase, and fullness in this Dhamma and Discipline.
Khi làm như vậy, các ông cũng sẽ đạt được sự tăng trưởng, phát triển và viên mãn trong Giáo pháp và Giới luật này.
226. ‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imissāyeva sāvatthiyā vedehikā nāma gahapatānī ahosi.
226. "Formerly, bhikkhus, in this very Sāvatthī, there was a laywoman named Vedīhikā.
226. “Này các Tỳ-khưu, thuở xưa, ngay tại Sāvatthī này, có một nữ gia chủ tên là Vedehikā.
Vedehikāya, bhikkhave, gahapatāniyā evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato – ‘soratā vedehikā gahapatānī, nivātā vedehikā gahapatānī, upasantā vedehikā gahapatānī’ti.
Bhikkhus, such a fine reputation had arisen for the laywoman Vedīhikā: 'The laywoman Vedīhikā is gentle, the laywoman Vedīhikā is humble, the laywoman Vedīhikā is peaceful.'
Này các Tỳ-khưu, tiếng đồn tốt đẹp về nữ gia chủ Vedehikā đã vang xa như sau: ‘Nữ gia chủ Vedehikā là người hiền hòa, nữ gia chủ Vedehikā là người khiêm tốn, nữ gia chủ Vedehikā là người an tịnh.’
Vedehikāya kho pana, bhikkhave, gahapatāniyā kāḷī nāma dāsī ahosi dakkhā analasā susaṃvihitakammantā.
Moreover, bhikkhus, the laywoman Vedīhikā had a maidservant named Kālī, who was skilled, diligent, and well-organized in her work.
Này các Tỳ-khưu, nữ gia chủ Vedehikā có một người hầu gái tên là Kāḷī, rất tháo vát, không lười biếng, và làm việc rất ngăn nắp.
‘‘Atha kho, bhikkhave, kāḷiyā dāsiyā etadahosi – ‘mayhaṃ kho ayyāya evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato – ‘‘soratā vedehikā gahapatānī, nivātā vedehikā gahapatānī, upasantā vedehikā gahapatānī’’ti.
"Then, bhikkhus, this thought occurred to the maidservant Kālī: 'Such a fine reputation has arisen for my mistress: "The laywoman Vedīhikā is gentle, the laywoman Vedīhikā is humble, the laywoman Vedīhikā is peaceful."
“Rồi, này các Tỳ-khưu, người hầu gái Kāḷī nghĩ: ‘Tiếng đồn tốt đẹp về chủ nhân của ta đã vang xa như sau: “Nữ gia chủ Vedehikā là người hiền hòa, nữ gia chủ Vedehikā là người khiêm tốn, nữ gia chủ Vedehikā là người an tịnh.”
Kiṃ nu kho me ayyā santaṃyeva nu kho ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti udāhu asantaṃ udāhu mayhamevete* kammantā susaṃvihitā yena me ayyā santaṃyeva ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ?
Now, does my mistress not reveal inner anger that is present, or is it that it is not present? Or is it that my work is so well-organized that my mistress does not reveal inner anger that is present, but not anger that is not present?
Có phải chủ nhân của ta không biểu lộ sự tức giận đang có trong lòng, hay là không có sự tức giận nào cả, hay là do công việc của ta được sắp xếp ngăn nắp nên chủ nhân của ta không biểu lộ sự tức giận đang có trong lòng, chứ không phải là không có sự tức giận nào cả?’
Yaṃnūnāhaṃ ayyaṃ vīmaṃseyya’nti.
“What if I were to test my mistress?”
“Hay là ta thử dò xét bà chủ xem sao.”
Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī divā uṭṭhāsi.
Then, bhikkhus, the servant Kāḷī rose late in the day.
Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī thức dậy vào ban ngày.
Atha kho, bhikkhave, vedehikā gahapatānī kāḷiṃ dāsiṃ etadavoca – ‘he je kāḷī’ti.
Then, bhikkhus, the householder Vedehikā said to the servant Kāḷī: ‘Hey, Kāḷī!’
Này các Tỳ-khưu, rồi nữ gia chủ Vedehikā nói với người hầu gái Kāḷī rằng: ‘Này Kāḷī!’
‘Kiṃ, ayye’ti?
‘What is it, mistress?’
‘Gì vậy, thưa bà chủ?’
‘Kiṃ, je, divā uṭṭhāsī’ti?
‘Why, girl, did you rise late in the day?’
‘Này con, sao con lại thức dậy vào ban ngày?’
‘Na khvayye* , kiñcī’ti.
‘Nothing, mistress.’
‘Không có gì đâu, thưa bà chủ.’
‘No vata re kiñci, pāpi dāsi* , divā uṭṭhāsī’ti kupitā anattamanā bhākuṭiṃ* akāsi.
‘It’s certainly not nothing, you wretched servant, that you rose late in the day!’ she said, angry and displeased, and she frowned.
‘Không có gì sao, đồ hầu gái xấu xa, sao con lại thức dậy vào ban ngày?’ Bà ta tức giận, không hài lòng, và nhíu mày.
Atha kho, bhikkhave, kāḷiyā dāsiyā etadahosi – ‘santaṃyeva kho me ayyā ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ; mayhamevete kammantā susaṃvihitā, yena me ayyā santaṃyeva ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ.
Then, bhikkhus, this thought occurred to the servant Kāḷī: ‘My mistress does not reveal inner anger when it exists, nor does she reveal it when it does not. It is because my tasks are well-arranged that my mistress does not reveal inner anger when it exists, nor does she reveal it when it does not.’
Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī nghĩ: ‘Bà chủ của ta không biểu lộ sự tức giận ẩn chứa bên trong khi nó có, chứ không phải khi nó không có. Chính những công việc của ta được sắp xếp tốt, nên bà chủ của ta không biểu lộ sự tức giận ẩn chứa bên trong khi nó có, chứ không phải khi nó không có.
Yaṃnūnāhaṃ bhiyyosomattāya ayyaṃ vīmaṃseyya’’’nti.
“What if I were to test my mistress even more?”
Hay là ta thử dò xét bà chủ kỹ hơn nữa xem sao.’”
‘‘Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī divātaraṃyeva uṭṭhāsi.
“Then, bhikkhus, the servant Kāḷī rose even later in the day.
“Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī thức dậy sớm hơn vào ban ngày.
Atha kho, bhikkhave, vedehikā gahapatānī kāḷiṃ dāsiṃ etadavoca – ‘he je, kāḷī’ti.
Then, bhikkhus, the householder Vedehikā said to the servant Kāḷī: ‘Hey, Kāḷī!’
Này các Tỳ-khưu, rồi nữ gia chủ Vedehikā nói với người hầu gái Kāḷī rằng: ‘Này Kāḷī!’
‘Kiṃ, ayye’ti?
‘What is it, mistress?’
‘Gì vậy, thưa bà chủ?’
‘Kiṃ, je, divātaraṃ uṭṭhāsī’ti?
‘Why, girl, did you rise even later in the day?’
‘Này con, sao con lại thức dậy sớm hơn vào ban ngày?’
‘Na khvayye, kiñcī’ti.
‘Nothing, mistress.’
‘Không có gì đâu, thưa bà chủ.’
‘No vata re kiñci, pāpi dāsi, divātaraṃ uṭṭhāsī’ti kupitā anattamanā anattamanavācaṃ nicchāresi.
‘It’s certainly not nothing, you wretched servant, that you rose even later in the day!’ she said, angry and displeased, and she uttered displeasing words.
‘Không có gì sao, đồ hầu gái xấu xa, sao con lại thức dậy sớm hơn vào ban ngày?’ Bà ta tức giận, không hài lòng, và thốt ra những lời lẽ không vui.
Atha kho, bhikkhave, kāḷiyā dāsiyā etadahosi – ‘santaṃyeva kho me ayyā ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ.
Then, bhikkhus, this thought occurred to the servant Kāḷī: ‘My mistress does not reveal inner anger when it exists, nor does she reveal it when it does not.
Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī nghĩ: ‘Bà chủ của ta không biểu lộ sự tức giận ẩn chứa bên trong khi nó có, chứ không phải khi nó không có.
Mayhamevete kammantā susaṃvihitā, yena me ayyā santaṃyeva ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ.
It is because my tasks are well-arranged that my mistress does not reveal inner anger when it exists, nor does she reveal it when it does not.’
Chính những công việc của ta được sắp xếp tốt, nên bà chủ của ta không biểu lộ sự tức giận ẩn chứa bên trong khi nó có, chứ không phải khi nó không có.
Yaṃnūnāhaṃ bhiyyosomattāya ayyaṃ vīmaṃseyya’nti.
“What if I were to test my mistress even more?”
Hay là ta thử dò xét bà chủ kỹ hơn nữa xem sao.’”
‘‘Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī divātaraṃyeva uṭṭhāsi.
“Then, bhikkhus, the servant Kāḷī rose even later in the day.
“Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī thức dậy sớm hơn vào ban ngày.
Atha kho, bhikkhave, vedehikā gahapatānī kāḷiṃ dāsiṃ etadavoca – ‘he je, kāḷī’ti.
Then, bhikkhus, the householder Vedehikā said to the servant Kāḷī: ‘Hey, Kāḷī!’
Này các Tỳ-khưu, rồi nữ gia chủ Vedehikā nói với người hầu gái Kāḷī rằng: ‘Này Kāḷī!’
‘Kiṃ, ayye’ti?
‘What is it, mistress?’
‘Gì vậy, thưa bà chủ?’
‘Kiṃ, je, divā uṭṭhāsī’ti?
‘Why, girl, did you rise late in the day?’
‘Này con, sao con lại thức dậy vào ban ngày?’
‘Na khvayye, kiñcī’ti.
‘Nothing, mistress.’
‘Không có gì đâu, thưa bà chủ.’
‘No vata re kiñci, pāpi dāsi, divā uṭṭhāsī’ti kupitā anattamanā aggaḷasūciṃ gahetvā sīse pahāraṃ adāsi, sīsaṃ vobhindi* .
‘It’s certainly not nothing, you wretched servant, that you rose late in the day!’ she said, angry and displeased, and taking the door-bar, she struck her on the head, splitting her head open.
‘Không có gì sao, đồ hầu gái xấu xa, sao con lại thức dậy vào ban ngày?’ Bà ta tức giận, không hài lòng, cầm then cửa đánh vào đầu cô ta, làm vỡ đầu cô ta.
Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī bhinnena sīsena lohitena galantena paṭivissakānaṃ ujjhāpesi – ‘passathayye, soratāya kammaṃ; passathayye, nivātāya kammaṃ, passathayye, upasantāya kammaṃ!
Then, bhikkhus, the servant Kāḷī, with her head split open and blood flowing, complained to the neighbors: ‘Look, good sirs, at the action of the modest one! Look, good sirs, at the humble one’s action! Look, good sirs, at the action of the calm one!
Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī, với cái đầu bị vỡ và máu chảy ròng ròng, than phiền với những người hàng xóm: ‘Này các bà, hãy xem hành động của người phụ nữ hiền lành! Này các bà, hãy xem hành động của người phụ nữ khiêm tốn! Này các bà, hãy xem hành động của người phụ nữ điềm tĩnh!
Kathañhi nāma ekadāsikāya divā uṭṭhāsīti kupitā anattamanā aggaḷasūciṃ gahetvā sīse pahāraṃ dassati, sīsaṃ vobhindissatī’ti.
How can she, angry and displeased, take a door-bar and strike a mere servant on the head, splitting her head open, just because she rose late in the day?’
Làm sao mà bà ta lại tức giận, không hài lòng, cầm then cửa đánh vào đầu người hầu gái chỉ vì cô ta thức dậy vào ban ngày, làm vỡ đầu cô ta được chứ!’
‘‘Evameva kho, bhikkhave, idhekacco bhikkhu tāvadeva soratasorato hoti nivātanivāto hoti upasantūpasanto hoti yāva na amanāpā vacanapathā phusanti.
“Just so, bhikkhus, some bhikkhu here is modest, humble, and calm, only as long as he is not touched by disagreeable words.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây, một Tỳ-khưu nào đó là người rất hiền lành, rất khiêm tốn, rất điềm tĩnh chừng nào những lời lẽ không vừa ý chưa chạm đến vị ấy.
Yato ca, bhikkhave, bhikkhuṃ amanāpā vacanapathā phusanti, atha bhikkhu ‘sorato’ti veditabbo, ‘nivāto’ti veditabbo, ‘upasanto’ti veditabbo.
But when, bhikkhus, that bhikkhu is touched by disagreeable words, then he should be known as ‘modest,’ as ‘humble,’ as ‘calm.’
Nhưng khi, này các Tỳ-khưu, những lời lẽ không vừa ý chạm đến một Tỳ-khưu, bấy giờ vị Tỳ-khưu ấy được biết là ‘hiền lành’, được biết là ‘khiêm tốn’, được biết là ‘điềm tĩnh’.
Nāhaṃ taṃ, bhikkhave, bhikkhuṃ ‘suvaco’ti vadāmi yo cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārahetu suvaco hoti, sovacassataṃ āpajjati.
I do not, bhikkhus, call that bhikkhu ‘easy to admonish’ who is easy to admonish and amenable due to robes, alms-food, lodgings, or requisites of medicine for the sick.
Này các Tỳ-khưu, Ta không gọi một Tỳ-khưu là ‘dễ dạy’ nếu vị ấy dễ dạy, có tính dễ dạy vì y phục, đồ ăn khất thực, chỗ ở, thuốc men và các vật dụng cho người bệnh.
Taṃ kissa hetu?
And why is that?
Vì sao vậy?
Tañhi so, bhikkhave, bhikkhu cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhāraṃ alabhamāno na suvaco hoti, na sovacassataṃ āpajjati.
Because, bhikkhus, if that bhikkhu does not receive robes, alms-food, lodgings, or requisites of medicine for the sick, he is not easy to admonish and not amenable.
Vì nếu, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu ấy không nhận được y phục, đồ ăn khất thực, chỗ ở, thuốc men và các vật dụng cho người bệnh, thì vị ấy sẽ không dễ dạy, sẽ không có tính dễ dạy.
Yo ca kho, bhikkhave, bhikkhu dhammaṃyeva sakkaronto, dhammaṃ garuṃ karonto, dhammaṃ mānento, dhammaṃ pūjento, dhammaṃ apacāyamāno* suvaco hoti, sovacassataṃ āpajjati, tamahaṃ ‘suvaco’ti vadāmi.
But, bhikkhus, if a bhikkhu, respecting the Dhamma, holding the Dhamma sacred, revering the Dhamma, honoring the Dhamma, and deferring to the Dhamma, is easy to admonish and amenable, him I call ‘easy to admonish.’
Nhưng, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu nào đó dễ dạy, có tính dễ dạy vì tôn trọng Pháp, vì kính trọng Pháp, vì quý trọng Pháp, vì cúng dường Pháp, vì cung kính Pháp, thì Ta gọi vị ấy là ‘dễ dạy’.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘dhammaṃyeva sakkarontā, dhammaṃ garuṃ karontā, dhammaṃ mānentā, dhammaṃ pūjentā, dhammaṃ apacāyamānā suvacā bhavissāma, sovacassataṃ āpajjissāmā’ti.
Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will be easy to admonish, we will be amenable, respecting the Dhamma, holding the Dhamma sacred, revering the Dhamma, honoring the Dhamma, and deferring to the Dhamma.’
Do đó, này các Tỳ-khưu, các con nên học tập như sau: ‘Chúng ta sẽ là người dễ dạy, sẽ có tính dễ dạy vì tôn trọng Pháp, vì kính trọng Pháp, vì quý trọng Pháp, vì cúng dường Pháp, vì cung kính Pháp.’
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
That is how you should train yourselves, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, các con phải học tập như vậy.
227. ‘‘Pañcime, bhikkhave, vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ – kālena vā akālena vā; bhūtena vā abhūtena vā; saṇhena vā pharusena vā; atthasaṃhitena vā anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā dosantarā vā.
227. “Bhikkhus, there are these five ways of speaking by which others might address you: at the right time or at the wrong time; truthfully or untruthfully; gently or harshly; beneficially or unbeneficially; with a mind of loving-kindness or with inner malice.
227. “Này các Tỳ-khưu, có năm cách nói mà người khác có thể nói với các con: đúng lúc hay không đúng lúc; đúng sự thật hay không đúng sự thật; nhẹ nhàng hay thô lỗ; có lợi hay không có lợi; với tâm từ hay với tâm sân.
Kālena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ akālena vā; bhūtena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ abhūtena vā; saṇhena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ pharusena vā; atthasaṃhitena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ dosantarā vā.
Bhikkhus, others might address you at the right time or at the wrong time; bhikkhus, others might address you truthfully or untruthfully; bhikkhus, others might address you gently or harshly; bhikkhus, others might address you beneficially or unbeneficially; bhikkhus, others might address you with a mind of loving-kindness or with inner malice.
Này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con đúng lúc hay không đúng lúc; này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con đúng sự thật hay không đúng sự thật; này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con nhẹ nhàng hay thô lỗ; này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con có lợi hay không có lợi; này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con với tâm từ hay với tâm sân.
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva no cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāma, hitānukampī ca viharissāma mettacittā, na dosantarā.
In that case, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘Our minds will not be affected, we will not utter evil words, we will abide compassionate for welfare, with a mind of loving-kindness, without inner malice.
Trong trường hợp đó, này các Tỳ-khưu, các con phải học tập như sau: ‘Tâm của chúng ta sẽ không bị biến đổi, chúng ta sẽ không thốt ra lời nói ác, chúng ta sẽ sống với lòng từ bi, không có tâm sân.
Tañca puggalaṃ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma, tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cittena vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena* pharitvā viharissāmā’ti.
We will abide pervading that person with a mind accompanied by loving-kindness; and with that as the object, we will abide pervading the entire world with an abundant, expansive, immeasurable mind accompanied by loving-kindness, free from enmity and ill will.’
Chúng ta sẽ sống bằng cách trải tâm từ đến người đó, và trải đến toàn bộ thế gian này với tâm từ rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý.’
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
That is how you should train yourselves, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, các con phải học tập như vậy.
228. ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso āgaccheyya kudālapiṭakaṃ* ādāya.
228. “Just as, bhikkhus, a man might come bringing a spade and a basket.
228. “Ví như, này các Tỳ-khưu, có một người đàn ông đến với cái cuốc và cái giỏ.
So evaṃ vadeyya – ‘ahaṃ imaṃ mahāpathaviṃ apathaviṃ karissāmī’ti.
He might say: ‘I will make this great earth non-earth.’
Người ấy nói rằng: ‘Ta sẽ biến trái đất rộng lớn này thành không còn là đất nữa.’
So tatra tatra vikhaṇeyya* , tatra tatra vikireyya, tatra tatra oṭṭhubheyya, tatra tatra omutteyya – ‘apathavī bhavasi, apathavī bhavasī’ti.
He would dig here and there, scatter here and there, spit here and there, urinate here and there, saying: ‘Become non-earth, become non-earth.’
Người ấy đào bới chỗ này chỗ kia, rải đất chỗ này chỗ kia, nhổ nước bọt chỗ này chỗ kia, tiểu tiện chỗ này chỗ kia, và nói: ‘Ngươi hãy không còn là đất nữa! Ngươi hãy không còn là đất nữa!’
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso imaṃ mahāpathaviṃ apathaviṃ kareyyā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man be able to make this great earth non-earth?”
Này các Tỳ-khưu, các con nghĩ sao, liệu người đàn ông ấy có thể biến trái đất rộng lớn này thành không còn là đất nữa không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, Venerable Sir.”
“Không thể được, bạch Đức Thế Tôn.”
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
“For what reason?”
“Vì sao vậy?”
‘‘Ayañhi, bhante, mahāpathavī gambhīrā appameyyā.
“Because, Venerable Sir, this great earth is deep and immeasurable.
“Vì, bạch Đức Thế Tôn, trái đất rộng lớn này sâu thẳm và vô biên.
Sā na sukarā apathavī kātuṃ; yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā’’ti.
It is not easy to make it non-earth; and that man would only become a partaker of weariness and vexation.”
Thật không dễ dàng để biến nó thành không còn là đất nữa; người đàn ông ấy chỉ chuốc lấy sự mệt mỏi và thất vọng mà thôi.”
‘‘Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ – kālena vā akālena vā; bhūtena vā abhūtena vā; saṇhena vā pharusena vā; atthasaṃhitena vā anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā dosantarā vā.
“Just so, bhikkhus, there are these five ways of speaking by which others might address you: at the right time or at the wrong time; truthfully or untruthfully; gently or harshly; beneficially or unbeneficially; with a mind of loving-kindness or with inner malice.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có năm cách nói mà người khác có thể nói với các con: đúng lúc hay không đúng lúc; đúng sự thật hay không đúng sự thật; nhẹ nhàng hay thô lỗ; có lợi hay không có lợi; với tâm từ hay với tâm sân.
Kālena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ akālena vā; bhūtena vā bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ abhūtena vā; saṇhena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ pharusena vā; atthasaṃhitena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ dosantarā vā.
Bhikkhus, others may address you at the right time or at the wrong time; bhikkhus, others may address you with what is true or with what is untrue; bhikkhus, others may address you gently or harshly; bhikkhus, others may address you beneficially or unbeneficially; bhikkhus, others may address you with a mind of loving-kindness or with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông đúng sự thật hoặc không đúng sự thật; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông với lời lẽ dịu dàng hoặc lời lẽ thô lỗ; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông có lợi ích hoặc không có lợi ích; có thể người khác nói với các ông với tâm từ ái hoặc với tâm đầy sân hận.
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva no cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāma, hitānukampī ca viharissāma mettacittā na dosantarā.
Bhikkhus, there too you should train yourselves thus: ‘Our mind will not be corrupted, nor will we utter evil speech, but we will dwell compassionate and with a mind of loving-kindness, not with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, trong trường hợp đó, các ông phải học tập như sau: ‘Tâm của chúng ta sẽ không biến đổi, chúng ta sẽ không nói lời ác độc, chúng ta sẽ an trú với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích, không có tâm sân hận.
Tañca puggalaṃ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma, tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ pathavisamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
We will abide pervading that person with a mind imbued with loving-kindness, and pervading the entire world, which is its object, with a mind like the earth, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
Chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi đến người đó, và trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian, như đất’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
229. ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso āgaccheyya lākhaṃ vā haliddiṃ vā nīlaṃ vā mañjiṭṭhaṃ vā ādāya.
229. ‘‘Bhikkhus, suppose a man were to come bringing lac, or turmeric, or indigo, or crimson.
229. ‘‘Này các Tỳ-khưu, ví như một người đến, mang theo sơn, hoặc nghệ, hoặc chàm, hoặc son.
So evaṃ vadeyya – ‘ahaṃ imasmiṃ ākāse rūpaṃ likhissāmi, rūpapātubhāvaṃ karissāmī’ti.
He would say: ‘I will draw a figure in this space, I will make a figure manifest.’
Người ấy nói rằng: ‘Ta sẽ vẽ hình trong hư không này, ta sẽ làm cho hình hiện rõ’.
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso imasmiṃ ākāse rūpaṃ likheyya, rūpapātubhāvaṃ kareyyā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man be able to draw a figure in this space, or make a figure manifest?’’
Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao, người ấy có thể vẽ hình trong hư không này, làm cho hình hiện rõ được không?’’
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘No, Venerable Sir.’’
‘‘Thưa Thế Tôn, không thể được’’.
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
‘‘For what reason?’’
‘‘Vì sao vậy?’’
‘‘Ayañhi, bhante, ākāso arūpī anidassano.
‘‘Because, Venerable Sir, this space is formless and invisible.
‘‘Thưa Thế Tôn, hư không này là vô sắc, không thể thấy được.
Tattha na sukaraṃ rūpaṃ likhituṃ, rūpapātubhāvaṃ kātuṃ; yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā’’ti.
It is not easy to draw a figure there, nor to make a figure manifest; the man would only incur weariness and vexation.’’
Ở đó, thật khó để vẽ hình, khó để làm cho hình hiện rõ; người ấy chỉ chuốc lấy sự mệt mỏi và phiền não mà thôi’’.
‘‘Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ kālena vā akālena vā …pe… ‘na ceva… tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ ākāsasamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
‘‘Even so, bhikkhus, these are the five ways of speaking by which others may address you, at the right time or at the wrong time… (as before)… ‘Our mind will not be… and pervading the entire world, which is its object, with a mind like space, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
‘‘Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có năm cách nói này mà người khác có thể nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc… (lược)… ‘tâm của chúng ta sẽ không biến đổi… và chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian, như hư không’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
230. ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso āgaccheyya ādittaṃ tiṇukkaṃ ādāya.
230. ‘‘Bhikkhus, suppose a man were to come bringing a burning grass-torch.
230. ‘‘Này các Tỳ-khưu, ví như một người đến, mang theo một bó đuốc đang cháy.
So evaṃ vadeyya – ‘ahaṃ imāya ādittāya tiṇukkāya gaṅgaṃ nadiṃ santāpessāmi saṃparitāpessāmī’ti.
He would say: ‘With this burning grass-torch, I will heat and thoroughly scorch the river Ganges.’
Người ấy nói rằng: ‘Ta sẽ làm cho sông Hằng này nóng lên, ta sẽ làm cho nó nóng rực lên bằng bó đuốc đang cháy này’.
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso ādittāya tiṇukkāya gaṅgaṃ nadiṃ santāpeyya saṃparitāpeyyā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man be able to heat or thoroughly scorch the river Ganges with that burning grass-torch?’’
Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao, người ấy có thể làm cho sông Hằng này nóng lên, làm cho nó nóng rực lên bằng bó đuốc đang cháy được không?’’
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘No, Venerable Sir.’’
‘‘Thưa Thế Tôn, không thể được’’.
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
‘‘For what reason?’’
‘‘Vì sao vậy?’’
‘‘Gaṅgā hi, bhante, nadī gambhīrā appameyyā.
‘‘Because, Venerable Sir, the river Ganges is deep and immeasurable.
‘‘Thưa Thế Tôn, sông Hằng này sâu và rộng lớn vô cùng.
Sā na sukarā ādittāya tiṇukkāya santāpetuṃ saṃparitāpetuṃ; yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā’’ti.
It is not easy to heat or thoroughly scorch it with a burning grass-torch; the man would only incur weariness and vexation.’’
Thật khó để làm cho nó nóng lên, làm cho nó nóng rực lên bằng bó đuốc đang cháy; người ấy chỉ chuốc lấy sự mệt mỏi và phiền não mà thôi’’.
‘‘Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ kālena vā akālena vā…pe… ‘na ceva… tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ gaṅgāsamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’’ti.
‘‘Even so, bhikkhus, these are the five ways of speaking by which others may address you, at the right time or at the wrong time… (as before)… ‘Our mind will not be… and pervading the entire world, which is its object, with a mind like the Ganges, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
‘‘Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có năm cách nói này mà người khác có thể nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc… (lược)… ‘tâm của chúng ta sẽ không biến đổi… và chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian, như sông Hằng’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
231. ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, biḷārabhastā madditā sumadditā suparimadditā, mudukā tūlinī chinnasassarā chinnabhabbharā.
231. ‘‘Bhikkhus, suppose a cat’s skin bag were crushed, well-crushed, very well-crushed, soft, like cotton, with its rustling sound eliminated, with its crackling sound eliminated.
231. ‘‘Này các Tỳ-khưu, ví như một túi da mèo đã được nhồi nắn kỹ lưỡng, rất mềm mại như bông gòn, không còn tiếng kêu sột soạt, không còn tiếng kêu xào xạc.
Atha puriso āgaccheyya kaṭṭhaṃ vā kathalaṃ* vā ādāya.
Then a man were to come bringing a stick or a potsherd.
Rồi một người đến, mang theo một cây gậy hoặc một mảnh sành.
So evaṃ vadeyya – ‘ahaṃ imaṃ biḷārabhastaṃ madditaṃ sumadditaṃ suparimadditaṃ, mudukaṃ tūliniṃ, chinnasassaraṃ chinnabhabbharaṃ kaṭṭhena vā kathalena vā sarasaraṃ karissāmi bharabharaṃ karissāmī’ti.
He would say: ‘I will make this cat’s skin bag, crushed, well-crushed, very well-crushed, soft, like cotton, with its rustling sound eliminated, with its crackling sound eliminated, rustle with a stick or a potsherd, I will make it crackle.’
Người ấy nói rằng: ‘Ta sẽ làm cho túi da mèo này, đã được nhồi nắn kỹ lưỡng, rất mềm mại như bông gòn, không còn tiếng kêu sột soạt, không còn tiếng kêu xào xạc, phát ra tiếng sột soạt, phát ra tiếng xào xạc bằng cây gậy hoặc mảnh sành này’.
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso amuṃ biḷārabhastaṃ madditaṃ sumadditaṃ suparimadditaṃ, mudukaṃ tūliniṃ, chinnasassaraṃ chinnabhabbharaṃ kaṭṭhena vā kathalena vā sarasaraṃ kareyya, bharabharaṃ kareyyā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man be able to make that cat’s skin bag, crushed, well-crushed, very well-crushed, soft, like cotton, with its rustling sound eliminated, with its crackling sound eliminated, rustle or crackle with a stick or a potsherd?’’
Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao, người ấy có thể làm cho túi da mèo đó, đã được nhồi nắn kỹ lưỡng, rất mềm mại như bông gòn, không còn tiếng kêu sột soạt, không còn tiếng kêu xào xạc, phát ra tiếng sột soạt, phát ra tiếng xào xạc bằng cây gậy hoặc mảnh sành được không?’’
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘No, Venerable Sir.’’
‘‘Thưa Thế Tôn, không thể được’’.
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
‘‘For what reason?’’
‘‘Vì sao vậy?’’
‘‘Amu hi, bhante, biḷārabhastā madditā sumadditā suparimadditā, mudukā tūlinī, chinnasassarā chinnabhabbharā.
‘‘Because, Venerable Sir, that cat’s skin bag is crushed, well-crushed, very well-crushed, soft, like cotton, with its rustling sound eliminated, with its crackling sound eliminated.
‘‘Thưa Thế Tôn, túi da mèo đó đã được nhồi nắn kỹ lưỡng, rất mềm mại như bông gòn, không còn tiếng kêu sột soạt, không còn tiếng kêu xào xạc.
Sā na sukarā kaṭṭhena vā kathalena vā sarasaraṃ kātuṃ bharabharaṃ kātuṃ; yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā’’ti.
It is not easy to make it rustle or crackle with a stick or a potsherd; the man would only incur weariness and vexation.’’
Thật khó để làm cho nó phát ra tiếng sột soạt, phát ra tiếng xào xạc bằng cây gậy hoặc mảnh sành; người ấy chỉ chuốc lấy sự mệt mỏi và phiền não mà thôi’’.
‘‘Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ kālena vā akālena vā; bhūtena vā abhūtena vā; saṇhena vā pharusena vā; atthasaṃhitena vā anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā dosantarā vā.
‘‘Even so, bhikkhus, these are the five ways of speaking by which others may address you: at the right time or at the wrong time; with what is true or with what is untrue; gently or harshly; beneficially or unbeneficially; with a mind of loving-kindness or with a mind of hatred.
‘‘Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có năm cách nói này mà người khác có thể nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc; đúng sự thật hoặc không đúng sự thật; với lời lẽ dịu dàng hoặc thô lỗ; có lợi ích hoặc không có lợi ích; với tâm từ ái hoặc với tâm đầy sân hận.
Kālena vā bhikkhave pare vadamānā vadeyyuṃ akālena vā; bhūtena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ abhūtena vā; saṇhena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ pharusena vā; atthasaṃhitena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ dosantarā vā.
Bhikkhus, others may address you at the right time or at the wrong time; bhikkhus, others may address you with what is true or with what is untrue; bhikkhus, others may address you gently or harshly; bhikkhus, others may address you beneficially or unbeneficially; bhikkhus, others may address you with a mind of loving-kindness or with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông đúng sự thật hoặc không đúng sự thật; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông với lời lẽ dịu dàng hoặc lời lẽ thô lỗ; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông có lợi ích hoặc không có lợi ích; có thể người khác nói với các ông với tâm từ ái hoặc với tâm đầy sân hận.
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva no cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāma hitānukampī ca viharissāma mettacittā na dosantarā.
Bhikkhus, there too you should train yourselves thus: ‘Our mind will not be corrupted, nor will we utter evil speech, but we will dwell compassionate and with a mind of loving-kindness, not with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, trong trường hợp đó, các ông phải học tập như sau: ‘Tâm của chúng ta sẽ không biến đổi, chúng ta sẽ không nói lời ác độc, chúng ta sẽ an trú với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích, không có tâm sân hận.
Tañca puggalaṃ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma, tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ biḷārabhastāsamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
We will abide pervading that person with a mind imbued with loving-kindness, and pervading the entire world, which is its object, with a mind like the cat’s skin bag, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
Chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi đến người đó, và trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian, như túi da mèo’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
232. ‘‘Ubhatodaṇḍakena cepi, bhikkhave, kakacena corā ocarakā aṅgamaṅgāni okanteyyuṃ, tatrāpi yo mano padūseyya, na me so tena sāsanakaro.
232. ‘‘Even if, bhikkhus, robbers and villains were to carve you limb by limb with a two-handled saw, whoever there were to pollute their mind, he would not be a doer of my teaching.
232. ‘‘Này các Tỳ-khưu, ngay cả khi bọn cướp, bọn trộm dùng cưa hai tay xẻ từng khúc từng khúc thân thể các ông, nếu có ai trong các ông để tâm sân hận, người ấy không phải là người vâng lời ta.
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva no cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāma, hitānukampī ca viharissāma mettacittā na dosantarā.
Bhikkhus, there too you should train yourselves thus: ‘Our mind will not be corrupted, nor will we utter evil speech, but we will dwell compassionate and with a mind of loving-kindness, not with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, trong trường hợp đó, các ông phải học tập như sau: ‘Tâm của chúng ta sẽ không biến đổi, chúng ta sẽ không nói lời ác độc, chúng ta sẽ an trú với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích, không có tâm sân hận.
Tañca puggalaṃ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
We will abide pervading that person with a mind imbued with loving-kindness, and pervading the entire world, which is its object, with a mind imbued with loving-kindness, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
Chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi đến người đó, và trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
233. ‘‘Imañca* tumhe, bhikkhave, kakacūpamaṃ ovādaṃ abhikkhaṇaṃ manasi kareyyātha.
233. ‘‘If, bhikkhus, you were to frequently keep this Saw Simile instruction in mind.
233. ‘‘Này các Tỳ-khưu, nếu các ông thường xuyên quán niệm lời khuyên ví dụ cái cưa này.
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ vacanapathaṃ, aṇuṃ vā thūlaṃ vā, yaṃ tumhe nādhivāseyyāthā’’ti?
Do you see, bhikkhus, any way of speaking, small or great, that you would not endure?’’
Này các Tỳ-khưu, các ông có thấy lời nói nào, dù nhỏ hay lớn, mà các ông không thể chịu đựng được không?’’
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘No, Venerable Sir.’’
‘‘Thưa Thế Tôn, không có’’.
‘‘Tasmātiha, bhikkhave, imaṃ kakacūpamaṃ ovādaṃ abhikkhaṇaṃ manasikarotha.
‘‘Therefore, bhikkhus, frequently keep this Saw Simile instruction in mind.
‘‘Do đó, này các Tỳ-khưu, hãy thường xuyên quán niệm lời khuyên ví dụ cái cưa này.
Taṃ vo bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
That will be for your long-term welfare and happiness.’’
Điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho các ông’’.
234. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
234. Thus have I heard – At one time the Blessed One was dwelling in Sāvatthī, in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Monastery.
234. Tôi nghe như vầy: Một thời Thế Tôn trú tại Sāvatthī (Xá-vệ), ở Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong tịnh xá của Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).
Tena kho pana samayena ariṭṭhassa nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa* evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ hoti – ‘‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’ti.
Now at that time, a pernicious wrong view had arisen in a bhikkhu named Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, as follows: “As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.”
Lúc bấy giờ, một ác kiến như vậy khởi lên nơi Tỳ-khưu tên Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên: “Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.”
Assosuṃ kho sambahulā bhikkhū – ‘‘ariṭṭhassa kira nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – ‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’’ti.
Many bhikkhus heard that a pernicious wrong view had arisen in a bhikkhu named Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, as follows: “As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.”
Nhiều Tỳ-khưu nghe rằng: “Tỳ-khưu tên Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, đã khởi lên một ác kiến như vầy: ‘Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’”
Atha kho te bhikkhū yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavocuṃ – ‘‘saccaṃ kira te, āvuso ariṭṭha, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – ‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’’ti.
Then those bhikkhus went to where the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, was; having approached, they said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers: “Is it true, friend Ariṭṭha, that such a pernicious wrong view has arisen in you: ‘As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in’?”
Rồi các Tỳ-khưu ấy đi đến chỗ Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên; sau khi đến, họ nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rằng: “Này Hiền giả Ariṭṭha, có thật là Hiền giả đã khởi lên một ác kiến như vầy không: ‘Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại’?”
‘‘Evaṃbyākho* ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’ti.
“Indeed, friends, I understand the Dhamma taught by the Blessed One in such a way that those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.”
“Này chư Hiền, ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.”
Atha kho tepi bhikkhū ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetukāmā samanuyuñjanti samanugāhanti* samanubhāsanti – ‘‘mā hevaṃ, āvuso ariṭṭha, avaca, mā bhagavantaṃ abbhācikkhi; na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ* , na hi bhagavā evaṃ vadeyya.
Then those bhikkhus, desiring to detach the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, from that pernicious wrong view, interrogated him, probed him, and admonished him, saying: “Do not speak thus, friend Ariṭṭha, do not misrepresent the Blessed One; for it is not good to misrepresent the Blessed One, nor would the Blessed One speak thus.
Rồi các Tỳ-khưu ấy, muốn khiến Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rời bỏ ác kiến ấy, liền chất vấn, tra hỏi, và thuyết phục ông ta: “Này Hiền giả Ariṭṭha, đừng nói như vậy, đừng phỉ báng Thế Tôn; phỉ báng Thế Tôn là không tốt, Thế Tôn không bao giờ nói như vậy.
Anekapariyāyenāvuso ariṭṭha, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
In many ways, friend Ariṭṭha, have the Blessed One declared obstructive things to be obstructive, and indeed they are capable of being obstacles when indulged in.
Này Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã nói các pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách, và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā,ādīnavo ettha bhiyyo.
Sense pleasures have been declared by the Blessed One to be of little enjoyment, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Thế Tôn đã nói các dục lạc là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và có nhiều hiểm họa hơn ở đó.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā…pe… maṃsapesūpamā kāmā vuttā bhagavatā… tiṇukkūpamā kāmā vuttā bhagavatā… aṅgārakāsūpamā kāmā vuttā bhagavatā… supinakūpamā kāmā vuttā bhagavatā… yācitakūpamā kāmā vuttā bhagavatā… rukkhaphalūpamā kāmā vuttā bhagavatā… asisūnūpamā kāmā vuttā bhagavatā… sattisūlūpamā kāmā vuttā bhagavatā… sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo’’ti.
Sense pleasures have been declared by the Blessed One to be like a skeleton… like a piece of flesh… like a grass torch… like a pit of glowing coals… like a dream… like borrowed goods… like a tree with fruits… like a butcher’s knife and chopping block… like a spear stake… like a snake’s head, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.”
Thế Tôn đã nói các dục lạc ví như bộ xương… (vân vân)… Thế Tôn đã nói các dục lạc ví như miếng thịt… ví như bó đuốc cỏ… ví như hố than hồng… ví như giấc mộng… ví như vật vay mượn… ví như cây có quả… ví như lưỡi dao và thớt… ví như cây giáo nhọn… ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và có nhiều hiểm họa hơn ở đó.”
Evampi kho ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tehi bhikkhūhi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno* samanubhāsiyamāno tadeva* pāpakaṃ diṭṭhigataṃ thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati – ‘‘evaṃbyākho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’ti.
Even though the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, was thus interrogated, probed, and admonished by those bhikkhus, he still clung to, embraced, and expressed that same pernicious wrong view with tenacity: “Indeed, friends, I understand the Dhamma taught by the Blessed One in such a way that those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.”
Dù bị các Tỳ-khưu ấy chất vấn, tra hỏi, và thuyết phục như vậy, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, vẫn kiên quyết bám chặt vào ác kiến ấy và nói: “Này chư Hiền, ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.”
235. Yato kho te bhikkhū nāsakkhiṃsu ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetuṃ, atha kho te bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
235. When those bhikkhus were unable to detach the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, from that pernicious wrong view, then they went to where the Blessed One was; having approached, they saluted the Blessed One and sat down to one side.
235. Khi các Tỳ-khưu ấy không thể khiến Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rời bỏ ác kiến ấy, thì các Tỳ-khưu ấy liền đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘ariṭṭhassa nāma, bhante, bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – ‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti.
Seated to one side, those bhikkhus said to the Blessed One: “Venerable sir, a pernicious wrong view has arisen in a bhikkhu named Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, as follows: ‘As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.’
Ngồi xuống một bên, các Tỳ-khưu ấy bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, Tỳ-khưu tên Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, đã khởi lên một ác kiến như vầy: ‘Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’
Assumha kho mayaṃ, bhante – ‘ariṭṭhassa kira nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti.
Indeed, Venerable sir, we heard: ‘A pernicious wrong view has arisen in a bhikkhu named Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, as follows: As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.’
Bạch Thế Tôn, chúng con nghe rằng: ‘Tỳ-khưu tên Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, đã khởi lên một ác kiến như vầy: Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’
Atha kho mayaṃ, bhante, yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkamimha; upasaṅkamitvā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavocumha – ‘saccaṃ kira te, āvuso ariṭṭha, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti?
Then, Venerable sir, we went to where the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, was; having approached, we said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers: ‘Is it true, friend Ariṭṭha, that such a pernicious wrong view has arisen in you: As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in?’
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con đi đến chỗ Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên; sau khi đến, chúng con nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rằng: ‘Này Hiền giả Ariṭṭha, có thật là Hiền giả đã khởi lên một ác kiến như vầy không: Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại’?”
‘‘Evaṃ vutte, bhante, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo amhe etadavoca – ‘evaṃbyākho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti.
“When this was said, Venerable sir, the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, said to us: ‘Indeed, friends, I understand the Dhamma taught by the Blessed One in such a way that those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.’
“Bạch Thế Tôn, khi được nói như vậy, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, đã nói với chúng con rằng: ‘Này chư Hiền, ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’”
Atha kho mayaṃ, bhante, ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetukāmā samanuyuñjimha samanugāhimha samanubhāsimha – ‘mā hevaṃ, āvuso ariṭṭha, avaca, mā bhagavantaṃ abbhācikkhi; na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi bhagavā evaṃ vadeyya.
Then, Venerable sir, desiring to detach the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, from that pernicious wrong view, we interrogated him, probed him, and admonished him, saying: ‘Do not speak thus, friend Ariṭṭha, do not misrepresent the Blessed One; for it is not good to misrepresent the Blessed One, nor would the Blessed One speak thus.
“Rồi bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rời bỏ ác kiến ấy, liền chất vấn, tra hỏi, và thuyết phục ông ta: ‘Này Hiền giả Ariṭṭha, đừng nói như vậy, đừng phỉ báng Thế Tôn; phỉ báng Thế Tôn là không tốt, Thế Tôn không bao giờ nói như vậy.
Anekapariyāyenāvuso ariṭṭha, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
In many ways, friend Ariṭṭha, have the Blessed One declared obstructive things to be obstructive, and indeed they are capable of being obstacles when indulged in.
Này Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã nói các pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách, và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Sense pleasures have been declared by the Blessed One to be of little enjoyment, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Thế Tôn đã nói các dục lạc là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và có nhiều hiểm họa hơn ở đó.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā…pe… sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo’ti.
Sense pleasures have been declared by the Blessed One to be like a skeleton… like a snake’s head, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.’
Thế Tôn đã nói các dục lạc ví như bộ xương… (vân vân)… ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và có nhiều hiểm họa hơn ở đó.’
Evampi kho, bhante, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo amhehi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno samanubhāsiyamāno tadeva pāpakaṃ diṭṭhigataṃ thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati – ‘evaṃbyākho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti.
Even though, Venerable sir, the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, was thus interrogated, probed, and admonished by us, he still clung to, embraced, and expressed that same pernicious wrong view with tenacity: ‘Indeed, friends, I understand the Dhamma taught by the Blessed One in such a way that those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.’
Dù bị chúng con chất vấn, tra hỏi, và thuyết phục như vậy, bạch Thế Tôn, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, vẫn kiên quyết bám chặt vào ác kiến ấy và nói: ‘Này chư Hiền, ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’
Yato kho mayaṃ, bhante, nāsakkhimha ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetuṃ, atha mayaṃ etamatthaṃ bhagavato ārocemā’’ti.
When, Venerable sir, we were unable to detach the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, from that pernicious wrong view, we then reported this matter to the Blessed One.”
Vì chúng con không thể khiến Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rời bỏ ác kiến ấy, bạch Thế Tôn, nên chúng con đã báo cáo sự việc này lên Thế Tôn.”
236. Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ āmantehi – ‘satthā taṃ, āvuso ariṭṭha, āmantetī’’’ti.
236. Then the Blessed One addressed a certain bhikkhu: ‘‘Come, bhikkhu, in my name, address the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers, saying: ‘Friend Ariṭṭha, the Teacher summons you.’’’
236. Rồi Thế Tôn gọi một Tỳ-khưu khác và bảo: “Này Tỳ-khưu, hãy đi, nhân danh Ta, hãy gọi Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, và nói: ‘Này Hiền giả Ariṭṭha, Bậc Đạo Sư gọi Hiền giả.’”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā, yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso ariṭṭha, āmantetī’’ti.
‘‘Yes, venerable sir,’’ that bhikkhu replied to the Blessed One, and he went to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers; having approached, he said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers: ‘‘Friend Ariṭṭha, the Teacher summons you.’’
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” vị Tỳ-khưu ấy vâng lời Thế Tôn, đi đến chỗ Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền; sau khi đến, vị ấy nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền: “Này Hiền giả Ariṭṭha, Bậc Đạo Sư gọi Hiền giả.”
‘‘Evamāvuso’’ti kho ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
‘‘Yes, friend,’’ the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers, replied to that bhikkhu, and he went to the Blessed One; having approached, he paid homage to the Blessed One and sat down to one side.
“Vâng, thưa Hiền giả,” Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, vâng lời vị Tỳ-khưu ấy, đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira te, ariṭṭha, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – ‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’’ti?
The Blessed One then said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers, who was sitting to one side: ‘‘Is it true, Ariṭṭha, that such a wicked wrong view has arisen in you: ‘As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things called obstructions by the Blessed One are not truly obstructions for one who engages in them’?’’
Thế Tôn nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, đang ngồi một bên: “Này Ariṭṭha, có thật là Hiền giả đã khởi lên một tà kiến xấu xa như thế này: ‘Ta hiểu Giáo Pháp do Thế Tôn thuyết giảng theo cách mà những pháp chướng ngại do Thế Tôn nói ra không đủ gây chướng ngại cho người thực hành chúng’ không?”
‘‘Evaṃbyākho ahaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi – ‘yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’’ti.
‘‘Indeed, venerable sir, I understand the Dhamma taught by the Blessed One thus: ‘Those things called obstructions by the Blessed One are not truly obstructions for one who engages in them.’’’
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy, con hiểu Giáo Pháp do Thế Tôn thuyết giảng theo cách mà những pháp chướng ngại do Thế Tôn nói ra không đủ gây chướng ngại cho người thực hành chúng.”
‘‘Kassa kho nāma tvaṃ, moghapurisa, mayā evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānāsi?
‘‘Whose Dhamma, you foolish man, do you understand as having been taught by me in this way?
“Này kẻ ngu si, Hiền giả đã hiểu Giáo Pháp do Ta thuyết giảng như vậy từ ai?
Nanu mayā, moghapurisa, anekapariyāyena antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā?
Have I not, you foolish man, in many ways declared things that are obstructions to be obstructions?
Này kẻ ngu si, chẳng phải Ta đã nói rằng những pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách sao?
Alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
And that they are indeed sufficient to be obstructions for one who engages in them.
Và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
I have declared sensual pleasures to have little gratification, to be full of suffering and distress, with more drawbacks.
Ta đã nói rằng các dục là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā mayā… maṃsapesūpamā kāmā vuttā mayā… tiṇukkūpamā kāmā vuttā mayā… aṅgārakāsūpamā kāmā vuttā mayā… supinakūpamā kāmā vuttā mayā… yācitakūpamā kāmā vuttā mayā… rukkhaphalūpamā kāmā vuttā mayā… asisūnūpamā kāmā vuttā mayā… sattisūlūpamā kāmā vuttā mayā… sappasirūpamā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
I have declared sensual pleasures to be like a skeleton… I have declared sensual pleasures to be like a piece of flesh… I have declared sensual pleasures to be like a grass-torch… I have declared sensual pleasures to be like a pit of glowing embers… I have declared sensual pleasures to be like a dream… I have declared sensual pleasures to be like borrowed goods… I have declared sensual pleasures to be like fruits on a tree… I have declared sensual pleasures to be like a slaughterhouse… I have declared sensual pleasures to be like a spear-stake… I have declared sensual pleasures to be like a snake’s head, full of suffering and distress, with more drawbacks.
Ta đã nói các dục ví như bộ xương… Ta đã nói các dục ví như miếng thịt… Ta đã nói các dục ví như bó đuốc cỏ… Ta đã nói các dục ví như hố than hồng… Ta đã nói các dục ví như giấc mộng… Ta đã nói các dục ví như vật vay mượn… Ta đã nói các dục ví như trái cây trên cây… Ta đã nói các dục ví như lò mổ… Ta đã nói các dục ví như cây giáo nhọn… Ta đã nói các dục ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Atha ca pana tvaṃ, moghapurisa, attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhasi, attānañca khanasi, bahuñca apuññaṃ pasavasi.
Yet you, foolish man, by your own wrongly grasped view, both slander us and dig your own grave, and produce much demerit.
Thế mà, này kẻ ngu si, với sự chấp giữ sai lầm của chính mình, Hiền giả đã phỉ báng Ta, tự hủy hoại mình, và tạo ra nhiều điều bất thiện.
Tañhi te, moghapurisa, bhavissati dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti.
That, you foolish man, will be for your harm and suffering for a long time.’’
Điều ấy, này kẻ ngu si, sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau cho Hiền giả trong một thời gian dài.”
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nāyaṃ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo usmīkatopi imasmiṃ dhammavinaye’’ti?
Then the Blessed One addressed the bhikkhus: ‘‘What do you think, bhikkhus, has this bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers, even a spark of understanding in this Dhamma and Discipline?’’
Rồi Thế Tôn hỏi các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền này, có phải là người đã đạt được chút ít hơi ấm của trí tuệ trong Giáo Pháp và Giới Luật này không?”
‘‘Kiñhi* siyā, bhante; no hetaṃ, bhante’’ti.
‘‘How could he, venerable sir? No, venerable sir.’’
“Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được? Không thể được, bạch Thế Tôn.”
Evaṃ vutte, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdi.
When this was said, the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan, sat silent, abashed, with shoulders drooping, downcast, pondering, and without a ready answer.
Khi được nói như vậy, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, trở nên im lặng, bối rối, cúi gằm mặt, trầm tư, không thể đối đáp.
Atha kho bhagavā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ tuṇhībhūtaṃ maṅkubhūtaṃ pattakkhandhaṃ adhomukhaṃ pajjhāyantaṃ appaṭibhānaṃ viditvā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavoca – ‘‘paññāyissasi kho tvaṃ, moghapurisa, etena sakena pāpakena diṭṭhigatena.
Then the Blessed One, knowing that the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan, was silent, abashed, with shoulders drooping, downcast, pondering, and without a ready answer, said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan: “You, foolish man, will make yourself known by this evil wrong view of yours.
Rồi Thế Tôn, khi thấy Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, im lặng, bối rối, cúi gằm mặt, trầm tư, không thể đối đáp, liền nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền: “Này kẻ ngu si, Hiền giả sẽ tự bộc lộ với tà kiến xấu xa này của chính mình.
Idhāhaṃ bhikkhū paṭipucchissāmī’’ti.
Here, I shall question the bhikkhus.”
Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỳ-khưu.”
237. Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘tumhepi me, bhikkhave, evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānātha yathāyaṃ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khanati, bahuñca apuññaṃ pasavatī’’ti?
Then the Blessed One addressed the bhikkhus: “Do you too, bhikkhus, understand the Dhamma taught by me in such a way that this bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan, by his own wrongly grasped view, both slanders us, undermines himself, and produces much demerit?”
237. Rồi Thế Tôn hỏi các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu, các ông có hiểu Giáo Pháp do Ta thuyết giảng theo cách mà Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền này, với sự chấp giữ sai lầm của chính mình, đã phỉ báng Ta, tự hủy hoại mình, và tạo ra nhiều điều bất thiện không?”
‘‘No hetaṃ, bhante.
“No, Venerable Sir.
“Bạch Thế Tôn, không phải vậy.
Anekapariyāyena hi no, bhante, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā; alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Indeed, Venerable Sir, the obstructive phenomena have been declared by the Blessed One to be obstructive in many ways; and they are sufficient to cause obstruction to one who indulges in them.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói rằng những pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách; và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Sensual pleasures have been declared by the Blessed One to be of little satisfaction, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Thế Tôn đã nói các dục là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā…pe… sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo’’ti.
Sensual pleasures have been declared by the Blessed One to be like a skeleton…pe… sensual pleasures have been declared by the Blessed One to be like a snake’s head, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.”
Thế Tôn đã nói các dục ví như bộ xương… cho đến… ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.”
‘‘Sādhu sādhu, bhikkhave, sādhu, kho me tumhe, bhikkhave, evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānātha.
“Good, good, bhikkhus! Indeed, bhikkhus, you understand the Dhamma taught by me in such a way.
“Lành thay, lành thay, này các Tỳ-khưu! Này các Tỳ-khưu, các ông đã hiểu Giáo Pháp do Ta thuyết giảng như vậy thật là tốt.
Anekapariyāyena hi kho, bhikkhave, antarāyikā dhammā vuttā mayā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Indeed, bhikkhus, the obstructive phenomena have been declared by me in many ways; and they are sufficient to cause obstruction to one who indulges in them.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nói rằng những pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách, và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Sensual pleasures have been declared by me to be of little satisfaction, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Ta đã nói các dục là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā mayā…pe… sappasirūpamā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Sensual pleasures have been declared by me to be like a skeleton…pe… sensual pleasures have been declared by me to be like a snake’s head, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Ta đã nói các dục ví như bộ xương… cho đến… ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Atha ca panāyaṃ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khanati, bahuñca apuññaṃ pasavati.
Yet, this bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan, by his own wrongly grasped view, both slanders us, undermines himself, and produces much demerit.
Thế mà, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền này, với sự chấp giữ sai lầm của chính mình, đã phỉ báng Ta, tự hủy hoại mình, và tạo ra nhiều điều bất thiện.
Tañhi tassa moghapurisassa bhavissati dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.
That will indeed be for the harm and suffering of that foolish man for a long time.
Điều ấy sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau cho kẻ ngu si ấy trong một thời gian dài.
So vata, bhikkhave, aññatreva kāmehi aññatra kāmasaññāya aññatra kāmavitakkehi kāme paṭisevissatīti – netaṃ ṭhānaṃ vijjati’’.
It is impossible, bhikkhus, that he would indulge in sensual pleasures apart from sensual objects, apart from sensual perceptions, apart from sensual thoughts.”
Này các Tỳ-khưu, việc kẻ ấy thực hành các dục mà không có các dục, không có dục tưởng, không có dục tầm – điều đó là không thể xảy ra.”
238. ‘‘Idha, bhikkhave, ekacce moghapurisā dhammaṃ pariyāpuṇanti – suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.
“Here, bhikkhus, some foolish men learn the Dhamma – Sutta, Geyya, Veyyākaraṇa, Gāthā, Udāna, Itivuttaka, Jātaka, Abbhutadhamma, Vedalla.
238. “Này các Tỳ-khưu, ở đây, một số kẻ ngu si học thuộc Giáo Pháp – kinh (sutta), kệ (geyya), giải thích (veyyākaraṇa), thi kệ (gāthā), cảm hứng ngữ (udāna), Phật thuyết như vậy (itivuttaka), bổn sanh (jātaka), pháp hy hữu (abbhutadhamma), vấn đáp (vedalla).
Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ na upaparikkhanti.
Having learned that Dhamma, they do not examine the meaning of those teachings with wisdom.
Sau khi học thuộc Giáo Pháp ấy, họ không quán xét ý nghĩa của các pháp ấy bằng trí tuệ.
Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ anupaparikkhataṃ na nijjhānaṃ khamanti.
To them, those teachings, not having been examined for their meaning with wisdom, do not lead to deep understanding.
Đối với những người không quán xét ý nghĩa của các pháp ấy bằng trí tuệ, các pháp ấy không phù hợp để được quán triệt bằng sự suy tư sâu sắc (nijjhāna).
Te upārambhānisaṃsā ceva dhammaṃ pariyāpuṇanti itivādappamokkhānisaṃsā ca.
They learn the Dhamma for the sake of finding fault and for the sake of escaping debate.
Họ học thuộc Giáo Pháp chỉ với mục đích chỉ trích người khác và với mục đích thoát khỏi những tranh luận.
Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṃ nānubhonti.
They do not experience the purpose for which they learn the Dhamma.
Họ không thể đạt được mục đích mà vì đó họ học thuộc Giáo Pháp.
Tesaṃ te dhammā duggahitā dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattanti.
Those teachings, being wrongly grasped, lead to their harm and suffering for a long time.
Những pháp ấy, khi được chấp giữ sai lầm, sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau cho họ trong một thời gian dài.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Duggahitattā, bhikkhave, dhammānaṃ.
Because the teachings are wrongly grasped, bhikkhus.
Vì sự chấp giữ sai lầm các pháp, này các Tỳ-khưu.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṃ caramāno.
“Just as, bhikkhus, a man in need of a snake, seeking a snake, searching for a snake,
“Ví như, này các Tỳ-khưu, một người muốn bắt rắn, đi tìm rắn, đi săn rắn.
So passeyya mahantaṃ alagaddaṃ.
might see a large snake.
Người ấy thấy một con rắn lớn.
Tamenaṃ bhoge vā naṅguṭṭhe vā gaṇheyya.
He might grasp it by its coils or by its tail.
Người ấy bắt nó ở thân hoặc ở đuôi.
Tassa so alagaddo paṭiparivattitvā* hatthe vā bāhāya vā aññatarasmiṃ vā aṅgapaccaṅge ḍaṃseyya* .
That snake, twisting back, might bite him on his hand, or arm, or any other limb.
Con rắn ấy sẽ quay lại cắn vào tay, vào cánh tay, hoặc vào bất kỳ bộ phận nào khác của người ấy.
So tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigaccheyya maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ.
Due to that, he might come to death or suffering like unto death.
Do đó, người ấy có thể chết hoặc chịu khổ đau gần chết.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Duggahitattā, bhikkhave, alagaddassa.
Because the snake was wrongly grasped, bhikkhus.
Vì sự chấp giữ sai lầm con rắn, này các Tỳ-khưu.
Evameva kho, bhikkhave, idhekacce moghapurisā dhammaṃ pariyāpuṇanti – suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.
In the same way, bhikkhus, some foolish men here learn the Dhamma – Sutta, Geyya, Veyyākaraṇa, Gāthā, Udāna, Itivuttaka, Jātaka, Abbhutadhamma, Vedalla.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây, một số kẻ ngu si học thuộc Giáo Pháp – kinh (sutta), kệ (geyya), giải thích (veyyākaraṇa), thi kệ (gāthā), cảm hứng ngữ (udāna), Phật thuyết như vậy (itivuttaka), bổn sanh (jātaka), pháp hy hữu (abbhutadhamma), vấn đáp (vedalla).
Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ na upaparikkhanti.
Having learned that Dhamma, they do not examine the meaning of those teachings with wisdom.
Sau khi học thuộc Giáo Pháp ấy, họ không quán xét ý nghĩa của các pháp ấy bằng trí tuệ.
Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ anupaparikkhataṃ na nijjhānaṃ khamanti.
To them, those teachings, not having been examined for their meaning with wisdom, do not lead to deep understanding.
Đối với những người không quán xét ý nghĩa của các pháp ấy bằng trí tuệ, các pháp ấy không phù hợp để được quán triệt bằng sự suy tư sâu sắc (nijjhāna).
Te upārambhānisaṃsā ceva dhammaṃ pariyāpuṇanti itivādappamokkhānisaṃsā ca.
They learn the Dhamma for the sake of blaming (others) and for the sake of refuting (other's) views.
Họ học Pháp với mục đích chỉ trích và để thoát khỏi những lời tranh cãi.
Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṃ nānubhonti.
And they do not experience the purpose for which they learn the Dhamma.
Và mục đích mà họ học Pháp, họ không đạt được mục đích ấy.
Tesaṃ te dhammā duggahitā dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattanti.
For them, those teachings, being wrongly grasped, conduce to their harm and suffering for a long time.
Những Pháp ấy, khi bị nắm giữ sai lầm, dẫn đến bất lợi và đau khổ lâu dài cho họ.
Taṃ kissa hetu?
For what reason is that?
Vì lý do gì?
Duggahitattā bhikkhave dhammānaṃ.
Because the teachings are wrongly grasped, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, vì Pháp đã bị nắm giữ sai lầm.
239. ‘‘Idha pana, bhikkhave, ekacce kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇanti – suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.
239. “Here, bhikkhus, some young men of good family learn the Dhamma—sutta, geyya, veyyākaraṇa, gāthā, udāna, itivuttaka, jātaka, abbhutadhamma, vedalla.
Này các Tỳ-khưu, ở đây có một số thiện gia nam tử học Pháp—Kinh (Sutta), Kệ tụng (Geyya), Giải thích (Veyyākaraṇa), Kệ ngôn (Gāthā), Cảm hứng ngữ (Udāna), Như vậy đã nói (Itivuttaka), Bổn sanh (Jātaka), Vị tằng hữu pháp (Abbhutadhamma), Vedaḷḷa.
Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ upaparikkhanti.
Having learned that Dhamma, they examine its meaning with wisdom.
Sau khi học Pháp ấy, họ dùng trí tuệ để quán sát ý nghĩa của những Pháp ấy.
Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ upaparikkhataṃ nijjhānaṃ khamanti.
As they examine the meaning of those teachings with wisdom, they gain insight.
Khi họ dùng trí tuệ quán sát ý nghĩa, những Pháp ấy trở nên rõ ràng đối với họ qua sự quán chiếu.
Te na ceva upārambhānisaṃsā dhammaṃ pariyāpuṇanti na itivādappamokkhānisaṃsā ca* .
They do not learn the Dhamma for the sake of blaming (others), nor for the sake of refuting (other's) views.
Họ không học Pháp với mục đích chỉ trích, cũng không phải để thoát khỏi những lời tranh cãi.
Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṃ anubhonti.
They experience the purpose for which they learn the Dhamma.
Và mục đích mà họ học Pháp, họ đạt được mục đích ấy.
Tesaṃ te dhammā suggahitā dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattanti.
For them, those teachings, being rightly grasped, conduce to their welfare and happiness for a long time.
Những Pháp ấy, khi được nắm giữ đúng đắn, dẫn đến lợi ích và an lạc lâu dài cho họ.
Taṃ kissa hetu?
For what reason is that?
Vì lý do gì?
Suggahitattā bhikkhave dhammānaṃ.
Because the teachings are rightly grasped, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, vì Pháp đã được nắm giữ đúng đắn.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṃ caramāno.
“Suppose, bhikkhus, a man desirous of a water-snake, seeking a water-snake, searching for a water-snake,
Này các Tỳ-khưu, ví như một người cần rắn, tìm rắn, đi tìm rắn.
So passeyya mahantaṃ alagaddaṃ.
should see a large water-snake.
Người ấy thấy một con rắn lớn.
Tamenaṃ ajapadena daṇḍena suniggahitaṃ niggaṇheyya.
He would grasp it firmly with a goat’s-foot stick.
Người ấy sẽ nắm giữ nó một cách chắc chắn bằng một cây gậy có hình chân dê.
Ajapadena daṇḍena suniggahitaṃ niggahitvā, gīvāya suggahitaṃ gaṇheyya.
Having grasped it firmly with a goat’s-foot stick, he would grasp it rightly by the neck.
Sau khi nắm giữ chắc chắn bằng cây gậy có hình chân dê, người ấy sẽ nắm giữ nó một cách chắc chắn ở cổ.
Kiñcāpi so, bhikkhave, alagaddo tassa purisassa hatthaṃ vā bāhaṃ vā aññataraṃ vā aṅgapaccaṅgaṃ bhogehi paliveṭheyya, atha kho so neva tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigaccheyya maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ.
Even if that water-snake, bhikkhus, should coil itself around that man’s hand or arm or any other limb, he would not on that account incur death or deadly suffering.
Này các Tỳ-khưu, dù con rắn ấy có quấn quanh tay, cánh tay hay bất kỳ bộ phận nào khác của người ấy bằng thân mình, thì người ấy cũng không vì thế mà gặp cái chết hay đau khổ gần kề cái chết.
Taṃ kissa hetu?
For what reason is that?
Vì lý do gì?
Suggahitattā, bhikkhave, alagaddassa.
Because the water-snake was rightly grasped, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, vì con rắn đã được nắm giữ đúng đắn.
Evameva kho, bhikkhave, idhekacce kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇanti – suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.
Even so, bhikkhus, here some young men of good family learn the Dhamma—sutta, geyya, veyyākaraṇa, gāthā, udāna, itivuttaka, jātaka, abbhutadhamma, vedalla.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây có một số thiện gia nam tử học Pháp—Kinh (Sutta), Kệ tụng (Geyya), Giải thích (Veyyākaraṇa), Kệ ngôn (Gāthā), Cảm hứng ngữ (Udāna), Như vậy đã nói (Itivuttaka), Bổn sanh (Jātaka), Vị tằng hữu pháp (Abbhutadhamma), Vedaḷḷa.
Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ upaparikkhanti.
Having learned that Dhamma, they examine its meaning with wisdom.
Sau khi học Pháp ấy, họ dùng trí tuệ để quán sát ý nghĩa của những Pháp ấy.
Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ upaparikkhataṃ nijjhānaṃ khamanti.
As they examine the meaning of those teachings with wisdom, they gain insight.
Khi họ dùng trí tuệ quán sát ý nghĩa, những Pháp ấy trở nên rõ ràng đối với họ qua sự quán chiếu.
Te na ceva upārambhānisaṃsā dhammaṃ pariyāpuṇanti, na itivādappamokkhānisaṃsā ca.
They do not learn the Dhamma for the sake of blaming (others), nor for the sake of refuting (other's) views.
Họ không học Pháp với mục đích chỉ trích, cũng không phải để thoát khỏi những lời tranh cãi.
Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti, tañcassa atthaṃ anubhonti.
They experience the purpose for which they learn the Dhamma.
Và mục đích mà họ học Pháp, họ đạt được mục đích ấy.
Tesaṃ te dhammā suggahitā dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya saṃvattanti.
For them, those teachings, being rightly grasped, conduce to their benefit, welfare, and happiness for a long time.
Những Pháp ấy, khi được nắm giữ đúng đắn, dẫn đến lợi ích, an lạc và hạnh phúc lâu dài cho họ.
Taṃ kissa hetu?
For what reason is that?
Vì lý do gì?
Suggahitattā, bhikkhave, dhammānaṃ.
Because the teachings are rightly grasped, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, vì Pháp đã được nắm giữ đúng đắn.
Tasmātiha, bhikkhave, yassa me bhāsitassa atthaṃ ājāneyyātha, tathā naṃ dhāreyyātha.
Therefore, bhikkhus, whatsoever meaning of my discourse you comprehend, you should bear it in mind accordingly.
Do đó, này các Tỳ-khưu, ý nghĩa của lời ta đã nói mà các ngươi hiểu rõ, hãy ghi nhớ như vậy.
Yassa ca pana me bhāsitassa atthaṃ na ājāneyyātha, ahaṃ vo tattha paṭipucchitabbo, ye vā panāssu viyattā bhikkhū.
And whatsoever meaning of my discourse you do not comprehend, you should question me about it, or those bhikkhus who are experienced.”
Còn ý nghĩa của lời ta đã nói mà các ngươi không hiểu rõ, thì các ngươi phải hỏi lại ta, hoặc những Tỳ-khưu nào là bậc thông hiểu.
240. ‘‘Kullūpamaṃ vo, bhikkhave, dhammaṃ desessāmi nittharaṇatthāya, no gahaṇatthāya.
240. “I will teach you the Dhamma, bhikkhus, by means of a raft simile, for crossing over, not for grasping.
Này các Tỳ-khưu, ta sẽ thuyết Pháp cho các ngươi, ví như chiếc bè, để vượt qua, không phải để nắm giữ.
Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasikarotha, bhāsissāmī’’ti.
Listen to it, pay careful attention, I will speak.”
Hãy lắng nghe điều đó, hãy chú tâm kỹ lưỡng, ta sẽ nói.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
“Yes, venerable sir,” those bhikkhus replied to the Bhagavā.
“Vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỳ-khưu ấy đáp lời Thế Tôn.
Bhagavā etadavoca – ‘‘seyyathāpi, bhikkhave, puriso addhānamaggappaṭipanno.
The Bhagavā said this: “Suppose, bhikkhus, a man embarked on a long journey.
Thế Tôn đã nói điều này: “Này các Tỳ-khưu, ví như một người đang đi trên một con đường dài.
So passeyya mahantaṃ udakaṇṇavaṃ, orimaṃ tīraṃ sāsaṅkaṃ sappaṭibhayaṃ, pārimaṃ tīraṃ khemaṃ appaṭibhayaṃ; na cassa nāvā santāraṇī uttarasetu vā apārā pāraṃ gamanāya.
He would see a great expanse of water, with the near shore perilous and fearful, and the far shore safe and free from fear; but there would be no boat for crossing or bridge to get from this side to the other.
Người ấy thấy một vùng nước mênh mông, bờ bên này đầy nguy hiểm và sợ hãi, bờ bên kia an toàn và không sợ hãi; nhưng không có thuyền để vượt qua hay cầu để đi từ bờ này sang bờ kia.
Tassa evamassa – ‘ayaṃ kho mahāudakaṇṇavo, orimaṃ tīraṃ sāsaṅkaṃ sappaṭibhayaṃ, pārimaṃ tīraṃ khemaṃ appaṭibhayaṃ; natthi ca nāvā santāraṇī uttarasetu vā apārā pāraṃ gamanāya.
Then it would occur to him: ‘This is indeed a great expanse of water, with the near shore perilous and fearful, and the far shore safe and free from fear; but there is no boat for crossing or bridge to get from this side to the other.
Người ấy nghĩ: ‘Đây là một vùng nước mênh mông, bờ bên này đầy nguy hiểm và sợ hãi, bờ bên kia an toàn và không sợ hãi; không có thuyền để vượt qua hay cầu để đi từ bờ này sang bờ kia.
Yaṃnūnāhaṃ tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ saṃkaḍḍhitvā, kullaṃ bandhitvā, taṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttareyya’nti.
What if I were to gather grass, wood, branches, and foliage, and having bound them into a raft, and relying on that raft, striving with my hands and feet, cross over safely to the far shore?’
Vậy ta hãy gom cỏ, củi, cành cây và lá cây, kết thành một chiếc bè, rồi nương vào chiếc bè ấy, dùng tay và chân mà cố gắng vượt qua một cách an toàn.’
Atha kho so, bhikkhave, puriso tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ saṃkaḍḍhitvā, kullaṃ bandhitvā taṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttareyya.
Then, bhikkhus, that man would gather grass, wood, branches, and foliage, and having bound them into a raft, and relying on that raft, striving with his hands and feet, he would cross over safely to the far shore.
Rồi người ấy, này các Tỳ-khưu, gom cỏ, củi, cành cây và lá cây, kết thành một chiếc bè, rồi nương vào chiếc bè ấy, dùng tay và chân mà cố gắng vượt qua một cách an toàn.
Tassa purisassa uttiṇṇassa* pāraṅgatassa evamassa – ‘bahukāro kho me ayaṃ kullo; imāhaṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttiṇṇo.
Having crossed over and reached the far shore, it would occur to that man: ‘This raft has been very helpful to me; relying on this raft, striving with my hands and feet, I have crossed over safely to the far shore.
Khi người ấy đã vượt qua, đã đến bờ bên kia, người ấy nghĩ: ‘Chiếc bè này đã giúp ta rất nhiều; nhờ nương vào chiếc bè này, dùng tay và chân mà cố gắng, ta đã vượt qua một cách an toàn.
Yaṃnūnāhaṃ imaṃ kullaṃ sīse vā āropetvā khandhe vā uccāretvā* yena kāmaṃ pakkameyya’nti.
What if I were to carry this raft on my head or hoist it onto my shoulder and go wherever I wished?’
Vậy ta hãy vác chiếc bè này lên đầu hoặc trên vai rồi đi đến bất cứ nơi nào ta muốn.’
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso evaṃkārī tasmiṃ kulle kiccakārī assā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man, by doing so, be doing what is proper with regard to that raft?”
Các ngươi nghĩ sao, này các Tỳ-khưu, liệu người ấy làm như vậy có phải là đã làm đúng bổn phận đối với chiếc bè ấy không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, venerable sir.”
“Không phải vậy, bạch Thế Tôn.”
‘‘Kathaṃkārī ca so, bhikkhave, puriso tasmiṃ kulle kiccakārī assa?
“How then, bhikkhus, would that man be doing what is proper with regard to that raft?
“Vậy thì, này các Tỳ-khưu, người ấy phải làm thế nào mới là làm đúng bổn phận đối với chiếc bè ấy?
Idha, bhikkhave, tassa purisassa uttiṇṇassa pāraṅgatassa evamassa – ‘bahukāro kho me ayaṃ kullo; imāhaṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttiṇṇo.
Here, bhikkhus, having crossed over and reached the far shore, it would occur to that man: ‘This raft has been very helpful to me; relying on this raft, striving with my hands and feet, I have crossed over safely to the far shore.
Này các Tỳ-khưu, khi người ấy đã vượt qua, đã đến bờ bên kia, người ấy nghĩ: ‘Chiếc bè này đã giúp ta rất nhiều; nhờ nương vào chiếc bè này, dùng tay và chân mà cố gắng, ta đã vượt qua một cách an toàn.
Yaṃnūnāhaṃ imaṃ kullaṃ thale vā ussādetvā* udake vā opilāpetvā yena kāmaṃ pakkameyya’nti.
What if I were to put this raft on dry land or let it sink in the water and go wherever I wished?’
Vậy ta hãy đặt chiếc bè này lên bờ hoặc thả xuống nước rồi đi đến bất cứ nơi nào ta muốn.’
Evaṃkārī kho so, bhikkhave, puriso tasmiṃ kulle kiccakārī assa.
That is how, bhikkhus, that man would be doing what is proper with regard to that raft.
Này các Tỳ-khưu, làm như vậy người ấy mới là làm đúng bổn phận đối với chiếc bè ấy.
Evameva kho, bhikkhave, kullūpamo mayā dhammo desito nittharaṇatthāya, no gahaṇatthāya.
In the same way, bhikkhus, the Dhamma has been taught by me by means of a raft simile, for crossing over, not for grasping.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, Pháp do ta thuyết giảng ví như chiếc bè, để vượt qua, không phải để nắm giữ.
Kullūpamaṃ vo, bhikkhave, dhammaṃ desitaṃ, ājānantehi dhammāpi vo pahātabbā pageva adhammā.
Since the Dhamma has been taught by me by means of a raft simile, bhikkhus, you who understand this should abandon even the teachings, how much more so what is not Dhamma.
Này các Tỳ-khưu, khi Pháp đã được ta thuyết giảng ví như chiếc bè, thì các ngươi, những người đã hiểu, phải từ bỏ cả Pháp huống chi là phi Pháp.
241. ‘‘Chayimāni, bhikkhave, diṭṭhiṭṭhānāni.
241. “There are, bhikkhus, these six bases of views.
Này các Tỳ-khưu, có sáu quan điểm.
Katamāni cha?
Which six?
Sáu điều ấy là gì?
Idha, bhikkhave, assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto, sappurisānaṃ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto, rūpaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; vedanaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; saññaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; saṅkhāre ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; yampi taṃ diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ, anuvicaritaṃ manasā tampi ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; yampi taṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ – so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmīti – tampi ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati.
Here, bhikkhus, an uninstructed ordinary person, who is not skilled in the Dhamma of the noble ones, who is not disciplined in the Dhamma of the noble ones, who is not skilled in the Dhamma of the true men, who is not disciplined in the Dhamma of the true men, regards rūpa as ‘This is mine, this I am, this is my self’; he regards vedanā as ‘This is mine, this I am, this is my self’; he regards saññā as ‘This is mine, this I am, this is my self’; he regards saṅkhārā as ‘This is mine, this I am, this is my self’; and whatsoever is seen, heard, sensed, cognized, attained, searched for, and pondered upon by the mind, that too he regards as ‘This is mine, this I am, this is my self’; and whatsoever is a basis of views—‘This world, this self; after death, I shall become permanent, stable, eternal, not subject to change; I shall remain forever just as I am’—that too he regards as ‘This is mine, this I am, this is my self’.”
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một phàm phu vô văn, không thấy các bậc Thánh, không thông thạo Pháp của các bậc Thánh, không được huấn luyện trong Pháp của các bậc Thánh; không thấy các bậc chân nhân, không thông thạo Pháp của các bậc chân nhân, không được huấn luyện trong Pháp của các bậc chân nhân, quán sát sắc (rūpa) là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; quán sát thọ (vedanā) là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; quán sát tưởng (saññā) là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; quán sát hành (saṅkhāra) là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; và bất cứ điều gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức, được đạt được, được tìm kiếm, được ý nghĩ đi theo, điều đó cũng được quán sát là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; và bất cứ quan điểm nào—thế giới là tự ngã, ta sẽ tồn tại sau khi chết, thường hằng, kiên cố, vĩnh cửu, không biến đổi, ta sẽ tồn tại mãi mãi như vậy—điều đó cũng được quán sát là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
Sutavā ca kho, bhikkhave, ariyasāvako ariyānaṃ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto, sappurisānaṃ dassāvī sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto, rūpaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; vedanaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; saññaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; saṅkhāre ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; yampi taṃ diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ, anuvicaritaṃ manasā, tampi ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; yampi taṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ – so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmīti – tampi ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
And, bhikkhus, a well-taught noble disciple—one who has seen the noble ones, skilled in the Dhamma of the noble ones, well-trained in the Dhamma of the noble ones; one who has seen the true persons, skilled in the Dhamma of the true persons, well-trained in the Dhamma of the true persons—he regards form thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; he regards feeling thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; he regards perception thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; he regards mental formations thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; and whatever is seen, heard, sensed, cognized, attained, sought, and pondered by the mind, that too he regards thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; and whatever view there is—‘This world is the self, after death I shall be permanent, stable, eternal, not subject to change, I shall remain the same for eternity’—that too he regards thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’.
Này các Tỳ-khưu, một vị Thánh đệ tử có nghe, thấy các bậc Thánh, thông thạo Thánh Pháp, được huấn luyện tốt trong Thánh Pháp; thấy các bậc Chân nhân, thông thạo Pháp của Chân nhân, được huấn luyện tốt trong Pháp của Chân nhân, quán sát sắc (rūpa) rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; quán sát thọ (vedanā) rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; quán sát tưởng (saññā) rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; quán sát hành (saṅkhārā) rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; và bất cứ điều gì đã được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức, được đạt đến, được tìm kiếm, được ý thức quán sát, điều đó cũng được quán sát rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; và bất cứ quan điểm nào cho rằng: ‘Thế giới là tự ngã, sau khi chết ta sẽ tồn tại, thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, ta sẽ tồn tại mãi mãi như vậy’, điều đó cũng được quán sát rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’.
So evaṃ samanupassanto asati na paritassatī’’ti.
When he thus regards, he does not tremble at non-existence.”
Khi quán sát như vậy, vị ấy không lo sợ khi không có gì.”
242. Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘siyā nu kho, bhante, bahiddhā asati paritassanā’’ti?
242. When this was said, a certain bhikkhu asked the Blessed One, “Might there be, Venerable Sir, trembling at external non-existence?”
242. Khi được nói như vậy, một Tỳ-khưu hỏi Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, có thể có sự lo sợ khi không có gì bên ngoài chăng?”
‘‘Siyā, bhikkhū’’ti – bhagavā avoca.
“There might be, bhikkhu,” the Blessed One said.
“Có, này Tỳ-khưu,” Thế Tôn đáp.
‘‘Idha bhikkhu ekaccassa evaṃ hoti – ‘ahu vata me, taṃ vata me natthi; siyā vata me, taṃ vatāhaṃ na labhāmī’ti.
“Here, bhikkhu, it occurs to someone: ‘Indeed, I had something, but indeed, I do not have that; indeed, I might have something, but indeed, I do not obtain that.’
“Ở đây, này Tỳ-khưu, có người nghĩ rằng: ‘Ôi, cái đó đã từng là của ta, nhưng bây giờ cái đó không còn; ôi, cái đó có thể là của ta, nhưng bây giờ ta không có được cái đó.’
So socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjati.
So he grieves, laments, weeps, beats his breast, and falls into bewilderment.
Người ấy buồn rầu, khổ não, than khóc, đấm ngực, khóc lóc, rơi vào trạng thái mê loạn.
Evaṃ kho, bhikkhu, bahiddhā asati paritassanā hotī’’ti.
It is in this way, bhikkhu, that there is trembling at external non-existence.”
Như vậy, này Tỳ-khưu, có sự lo sợ khi không có gì bên ngoài.”
‘‘Siyā pana, bhante, bahiddhā asati aparitassanā’’ti?
“But might there be, Venerable Sir, non-trembling at external non-existence?”
“Bạch Thế Tôn, vậy có thể có sự không lo sợ khi không có gì bên ngoài chăng?”
‘‘Siyā, bhikkhū’’ti – bhagavā avoca.
“There might be, bhikkhu,” the Blessed One said.
“Có, này Tỳ-khưu,” Thế Tôn đáp.
‘‘Idha bhikkhu ekaccassa na evaṃ hoti – ‘ahu vata me, taṃ vata me natthi; siyā vata me, taṃ vatāhaṃ na labhāmī’ti.
“Here, bhikkhu, it does not occur to someone: ‘Indeed, I had something, but indeed, I do not have that; indeed, I might have something, but indeed, I do not obtain that.’
“Ở đây, này Tỳ-khưu, có người không nghĩ rằng: ‘Ôi, cái đó đã từng là của ta, nhưng bây giờ cái đó không còn; ôi, cái đó có thể là của ta, nhưng bây giờ ta không có được cái đó.’
So na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjati.
So he does not grieve, does not lament, does not weep, does not beat his breast, and does not fall into bewilderment.
Người ấy không buồn rầu, không khổ não, không than khóc, không đấm ngực, không khóc lóc, không rơi vào trạng thái mê loạn.
Evaṃ kho, bhikkhu, bahiddhā asati aparitassanā hotī’’ti.
It is in this way, bhikkhu, that there is non-trembling at external non-existence.”
Như vậy, này Tỳ-khưu, có sự không lo sợ khi không có gì bên ngoài.”
‘‘Siyā nu kho, bhante, ajjhattaṃ asati paritassanā’’ti?
“Might there be, Venerable Sir, trembling at internal non-existence?”
“Bạch Thế Tôn, có thể có sự lo sợ khi không có gì bên trong chăng?”
‘‘Siyā, bhikkhū’’ti – bhagavā avoca.
“There might be, bhikkhu,” the Blessed One said.
“Có, này Tỳ-khưu,” Thế Tôn đáp.
‘‘Idha, bhikkhu, ekaccassa evaṃ diṭṭhi hoti – ‘so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmī’ti.
“Here, bhikkhu, for someone, there is such a view: ‘This world is the self, after death I shall be permanent, stable, eternal, not subject to change, I shall remain the same for eternity.’
“Ở đây, này Tỳ-khưu, có người có quan điểm như sau: ‘Thế giới là tự ngã, sau khi chết ta sẽ tồn tại, thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, ta sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.’
So suṇāti tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā sabbesaṃ diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānaṃ samugghātāya sabbasaṅkhārasamathāya sabbūpadhipaṭinissaggāya taṇhākkhayāya virāgāya nirodhāya nibbānāya dhammaṃ desentassa.
He hears the Tathāgata or a disciple of the Tathāgata teaching the Dhamma for the uprooting of all positions of views, assumptions, obsessions, attachments, and underlying tendencies; for the calming of all formations; for the relinquishment of all acquisitions; for the destruction of craving; for dispassion; for cessation; for Nibbāna.
Người ấy nghe Như Lai hoặc đệ tử của Như Lai thuyết Pháp về sự diệt trừ tất cả các quan điểm, các chấp trước, các phiền não tiềm ẩn, các khuynh hướng cố hữu; về sự làm lắng dịu tất cả các hành (saṅkhārā); về sự từ bỏ tất cả các chấp thủ (upadhi); về sự đoạn tận tham ái (taṇhā); về sự ly tham (virāga); về sự đoạn diệt (nirodha); về Niết Bàn (Nibbāna).
Tassa evaṃ hoti – ‘ucchijjissāmi nāmassu, vinassissāmi nāmassu, nassu nāma bhavissāmī’ti.
Then it occurs to him: ‘Alas, I shall be annihilated! Alas, I shall perish! Alas, I shall no longer exist!’
Người ấy nghĩ rằng: ‘Chắc ta sẽ bị đoạn diệt, chắc ta sẽ bị tiêu hoại, chắc ta sẽ không còn tồn tại nữa.’
So socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjati.
So he grieves, laments, weeps, beats his breast, and falls into bewilderment.
Người ấy buồn rầu, khổ não, than khóc, đấm ngực, khóc lóc, rơi vào trạng thái mê loạn.
Evaṃ kho, bhikkhu, ajjhattaṃ asati paritassanā hotī’’ti.
It is in this way, bhikkhu, that there is trembling at internal non-existence.”
Như vậy, này Tỳ-khưu, có sự lo sợ khi không có gì bên trong.”
‘‘Siyā pana, bhante, ajjhattaṃ asati aparitassanā’’ti?
“But might there be, Venerable Sir, non-trembling at internal non-existence?”
“Bạch Thế Tôn, vậy có thể có sự không lo sợ khi không có gì bên trong chăng?”
‘‘Siyā, bhikkhū’’ti bhagavā avoca.
“There might be, bhikkhu,” the Blessed One said.
“Có, này Tỳ-khưu,” Thế Tôn đáp.
‘‘Idha, bhikkhu, ekaccassa na evaṃ diṭṭhi hoti – ‘so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmī’ti.
“Here, bhikkhu, for someone, there is not such a view: ‘This world is the self, after death I shall be permanent, stable, eternal, not subject to change, I shall remain the same for eternity.’
“Ở đây, này Tỳ-khưu, có người không có quan điểm như sau: ‘Thế giới là tự ngã, sau khi chết ta sẽ tồn tại, thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, ta sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.’
So suṇāti tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā sabbesaṃ diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānaṃ samugghātāya sabbasaṅkhārasamathāya sabbūpadhipaṭinissaggāya taṇhākkhayāya virāgāya nirodhāya nibbānāya dhammaṃ desentassa.
He hears the Tathāgata or a disciple of the Tathāgata teaching the Dhamma for the uprooting of all positions of views, assumptions, obsessions, attachments, and underlying tendencies; for the calming of all formations; for the relinquishment of all acquisitions; for the destruction of craving; for dispassion; for cessation; for Nibbāna.
Người ấy nghe Như Lai hoặc đệ tử của Như Lai thuyết Pháp về sự diệt trừ tất cả các quan điểm, các chấp trước, các phiền não tiềm ẩn, các khuynh hướng cố hữu; về sự làm lắng dịu tất cả các hành (saṅkhārā); về sự từ bỏ tất cả các chấp thủ (upadhi); về sự đoạn tận tham ái (taṇhā); về sự ly tham (virāga); về sự đoạn diệt (nirodha); về Niết Bàn (Nibbāna).
Tassa na evaṃ hoti – ‘ucchijjissāmi nāmassu, vinassissāmi nāmassu, nassu nāma bhavissāmī’ti.
Then it does not occur to him: ‘Alas, I shall be annihilated! Alas, I shall perish! Alas, I shall no longer exist!’
Người ấy không nghĩ rằng: ‘Chắc ta sẽ bị đoạn diệt, chắc ta sẽ bị tiêu hoại, chắc ta sẽ không còn tồn tại nữa.’
So na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjati.
So he does not grieve, does not lament, does not weep, does not beat his breast, and does not fall into bewilderment.
Người ấy không buồn rầu, không khổ não, không than khóc, không đấm ngực, không khóc lóc, không rơi vào trạng thái mê loạn.
Evaṃ kho, bhikkhu, ajjhattaṃ asati aparitassanā hoti’’.
It is in this way, bhikkhu, that there is non-trembling at internal non-existence.”
Như vậy, này Tỳ-khưu, có sự không lo sợ khi không có gì bên trong.”
243. ‘‘Taṃ* , bhikkhave, pariggahaṃ pariggaṇheyyātha, yvāssa* pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva tiṭṭheyya.
243. “Bhikkhus, would you seize any acquisition that is permanent, stable, eternal, not subject to change, and would remain the same for eternity?
243. “Này các Tỳ-khưu, các ông hãy nắm giữ sự chấp thủ nào mà sự chấp thủ ấy là thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, và sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ pariggahaṃ yvāssa pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva tiṭṭheyyā’’ti?
Do you, bhikkhus, see any such acquisition that is permanent, stable, eternal, not subject to change, and would remain the same for eternity?”
Này các Tỳ-khưu, các ông có thấy sự chấp thủ nào mà sự chấp thủ ấy là thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, và sẽ tồn tại mãi mãi như vậy không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, không có.”
‘‘Sādhu, bhikkhave.
“Good, bhikkhus.
“Tốt lắm, này các Tỳ-khưu.
Ahampi kho taṃ, bhikkhave, pariggahaṃ na samanupassāmi yvāssa pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tatheva tiṭṭheyya.
Indeed, I too, bhikkhus, do not perceive any such acquisition that is permanent, stable, eternal, not subject to change, and would remain the same for eternity.
Này các Tỳ-khưu, ta cũng không thấy sự chấp thủ nào mà sự chấp thủ ấy là thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, và sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.”
‘‘Taṃ, bhikkhave, attavādupādānaṃ upādiyetha, yaṃsa* attavādupādānaṃ upādiyato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
“Bhikkhus, would you cling to any clinging to a doctrine of self, clinging to which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise?
“Này các Tỳ-khưu, các ông hãy chấp thủ sự chấp thủ về tự ngã (attavādupādāna) nào mà khi chấp thủ sự chấp thủ về tự ngã ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh.
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ attavādupādānaṃ yaṃsa attavādupādānaṃ upādiyato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’’ti?
Do you, bhikkhus, see any such clinging to a doctrine of self, clinging to which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise?”
Này các Tỳ-khưu, các ông có thấy sự chấp thủ về tự ngã nào mà khi chấp thủ sự chấp thủ về tự ngã ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, không có.”
‘‘Sādhu, bhikkhave.
“Good, bhikkhus.
“Tốt lắm, này các Tỳ-khưu.
Ahampi kho taṃ, bhikkhave, attavādupādānaṃ na samanupassāmi yaṃsa attavādupādānaṃ upādiyato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
Indeed, I too, bhikkhus, do not perceive any such clinging to a doctrine of self, clinging to which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise.
Này các Tỳ-khưu, ta cũng không thấy sự chấp thủ về tự ngã nào mà khi chấp thủ sự chấp thủ về tự ngã ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh.”
‘‘Taṃ, bhikkhave, diṭṭhinissayaṃ nissayetha yaṃsa diṭṭhinissayaṃ nissayato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
“Bhikkhus, would you rely on any view-basis, relying on which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise?
“Này các Tỳ-khưu, các ông hãy nương tựa vào quan điểm (diṭṭhinissaya) nào mà khi nương tựa vào quan điểm ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh.
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ diṭṭhinissayaṃ yaṃsa diṭṭhinissayaṃ nissayato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’’ti?
Do you, bhikkhus, see any such view-basis, relying on which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise?”
Này các Tỳ-khưu, các ông có thấy quan điểm nào mà khi nương tựa vào quan điểm ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, không có.”
‘‘Sādhu, bhikkhave.
“Good, bhikkhus.
“Tốt lắm, này các Tỳ-khưu.
Ahampi kho taṃ, bhikkhave, diṭṭhinissayaṃ na samanupassāmi yaṃsa diṭṭhinissayaṃ nissayato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’’.
Indeed, I too, bhikkhus, do not perceive any such view-basis, relying on which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise.”
Này các Tỳ-khưu, ta cũng không thấy quan điểm nào mà khi nương tựa vào quan điểm ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh.”
‘‘Tasmātiha, bhikkhave, yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ, ajjhattaṃ vā bahiddhā vā, oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā, hīnaṃ vā paṇītaṃ vā, yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ rūpaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti – evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
“Therefore, bhikkhus, any kind of form whatsoever—past, future, or present; internal or external; gross or subtle; inferior or superior; far or near—all form should be seen as it actually is with right wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Do đó, này các Tỳ-khưu, bất cứ sắc nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao thượng, xa hay gần, tất cả sắc ấy phải được quán chiếu bằng chánh trí như thật rằng: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Yā kāci vedanā…pe… yā kāci saññā… ye keci saṅkhārā… yaṃ kiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ, ajjhattaṃ vā bahiddhā vā, oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā, hīnaṃ vā paṇītaṃ vā, yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ viññāṇaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti – evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ’’.
Any kind of feeling… any kind of perception… any kind of volitional formations… any kind of consciousness whatsoever—past, future, or present; internal or external; gross or subtle; inferior or superior; far or near—all consciousness should be seen as it actually is with right wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’”
Bất cứ thọ nào… (tương tự)… bất cứ tưởng nào… bất cứ hành nào… bất cứ thức nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao thượng, xa hay gần, tất cả thức ấy phải được quán chiếu bằng chánh trí như thật rằng: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.”
245. ‘‘Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako rūpasmiṃ nibbindati, vedanāya nibbindati, saññāya nibbindati, saṅkhāresu nibbindati, viññāṇasmiṃ nibbindati, nibbidā virajjati* , virāgā vimuccati, vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.
245. “Seeing thus, bhikkhus, a well-taught noble disciple becomes disenchanted with form, becomes disenchanted with feeling, becomes disenchanted with perception, becomes disenchanted with volitional formations, becomes disenchanted with consciousness. Being disenchanted, he becomes dispassionate; through dispassion, he is liberated. When liberated, there is the knowledge: ‘Liberated.’
245. “Này các Tỳ-khưu, khi thấy như vậy, vị đệ tử Thánh đã nghe pháp sẽ nhàm chán sắc, nhàm chán thọ, nhàm chán tưởng, nhàm chán các hành, nhàm chán thức. Do nhàm chán mà ly tham, do ly tham mà được giải thoát. Khi được giải thoát, vị ấy có trí tuệ rằng: ‘Ta đã được giải thoát’.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.
He understands: ‘Birth is destroyed, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’
Vị ấy biết: ‘Sự sinh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn tái sinh vào trạng thái này nữa’.
Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu ukkhittapaligho itipi, saṃkiṇṇaparikkho itipi, abbūḷhesiko itipi, niraggaḷo itipi, ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto itipi.
This bhikkhu, bhikkhus, is called ‘one who has lifted the crossbar,’ ‘one whose moat is filled in,’ ‘one who has pulled out the pillar,’ ‘one who has no bolts,’ ‘a noble one with flag laid low, with burden laid down, unbound.’”
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu này được gọi là người đã nhổ chốt cửa, người đã lấp hố hào, người đã rút cọc nhọn, người đã mở khóa, người cao thượng đã hạ cờ, đã trút gánh nặng, đã thoát ly.”
‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto hoti?
“And how, bhikkhus, is a bhikkhu ‘a noble one with flag laid low, with burden laid down, unbound’?
“Và này các Tỳ-khưu, làm thế nào một Tỳ-khưu là người cao thượng đã hạ cờ, đã trút gánh nặng, đã thoát ly?
Idha, bhikkhave, bhikkhuno asmimāno pahīno hoti, ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃkato, āyatiṃ anuppādadhammo.
Here, bhikkhus, a bhikkhu’s conceit of ‘I am’ is abandoned, uprooted, made like a palm stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, ngã mạn của Tỳ-khưu đã được đoạn trừ, đã bị cắt đứt tận gốc rễ, đã trở thành như gốc cây thốt nốt, đã bị làm cho không còn tồn tại, không còn khả năng sinh khởi trong tương lai.
Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto hoti.
Thus, bhikkhus, a bhikkhu is ‘a noble one with flag laid low, with burden laid down, unbound.’
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu là người cao thượng đã hạ cờ, đã trút gánh nặng, đã thoát ly là như vậy.”
246. ‘‘Evaṃ vimuttacittaṃ kho, bhikkhave, bhikkhuṃ saindā devā sabrahmakā sapajāpatikā anvesaṃ nādhigacchanti – ‘idaṃ nissitaṃ tathāgatassa viññāṇa’nti.
246. “A bhikkhu whose mind is thus liberated, bhikkhus, is not found by the devas, together with Indra, together with Brahmā, together with Pajāpati, when they seek: ‘Where is the Tathāgata’s consciousness established?’
246. “Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có tâm giải thoát như vậy, chư thiên cùng với Indra, cùng với Brahmā, cùng với Pajāpati tìm kiếm cũng không tìm thấy – ‘Thức của Như Lai nương tựa vào đâu’.
Taṃ kissa hetu?
Why is that?
Vì sao vậy?
Diṭṭhevāhaṃ, bhikkhave, dhamme tathāgataṃ ananuvijjoti vadāmi.
I declare, bhikkhus, that the Tathāgata is untraceable even in this very life.
Này các Tỳ-khưu, Ta nói rằng Như Lai không thể được truy tìm ngay trong đời này.
Evaṃvādiṃ kho maṃ, bhikkhave, evamakkhāyiṃ eke samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhanti – ‘venayiko samaṇo gotamo, sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññāpetī’ti.
Yet, bhikkhus, there are some ascetics and brahmins who falsely, vainly, untruly, and incorrectly accuse me who speaks and declares thus: ‘The ascetic Gotama is one who destroys; he teaches the annihilation, destruction, and disappearance of an existent being.’
Này các Tỳ-khưu, có một số Sa-môn, Bà-la-môn đã vu khống, phỉ báng Ta bằng những lời không có thật, trống rỗng, sai lầm, vô căn cứ rằng: ‘Sa-môn Gotama là người đoạn diệt, Ngài tuyên bố sự đoạn diệt, sự tiêu vong, sự không còn tồn tại của hữu tình’.
Yathā cāhaṃ na, bhikkhave* , yathā cāhaṃ na vadāmi, tathā maṃ te bhonto samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhanti – ‘venayiko samaṇo gotamo, sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññāpetī’ti.
Bhikkhus, just as I do not speak, just as I do not declare, so do those venerables, ascetics and brahmins, falsely, vainly, untruly, and incorrectly accuse me: ‘The ascetic Gotama is one who destroys; he teaches the annihilation, destruction, and disappearance of an existent being.’
Này các Tỳ-khưu, Ta không nói như vậy, nhưng những Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy lại vu khống, phỉ báng Ta bằng những lời không có thật, trống rỗng, sai lầm, vô căn cứ rằng: ‘Sa-môn Gotama là người đoạn diệt, Ngài tuyên bố sự đoạn diệt, sự tiêu vong, sự không còn tồn tại của hữu tình’.
Pubbe cāhaṃ bhikkhave, etarahi ca dukkhañceva paññāpemi, dukkhassa ca nirodhaṃ.
Formerly, bhikkhus, and now, I teach only suffering and the cessation of suffering.
Này các Tỳ-khưu, trước đây cũng như bây giờ, Ta chỉ tuyên bố về khổ và sự diệt khổ.
Tatra ce, bhikkhave, pare tathāgataṃ akkosanti paribhāsanti rosenti vihesenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa na hoti āghāto na appaccayo na cetaso anabhiraddhi.
Therein, bhikkhus, if others revile, abuse, offend, or harass the Tathāgata, there is no resentment, no discontent, no displeasure in the Tathāgata’s mind.
Này các Tỳ-khưu, nếu người khác mắng nhiếc, phỉ báng, tức giận, quấy nhiễu Như Lai, thì lúc đó, này các Tỳ-khưu, Như Lai không có sự tức giận, không có sự bất mãn, không có sự không hoan hỷ trong tâm.”
‘‘Tatra ce, bhikkhave, pare tathāgataṃ sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa na hoti ānando na somanassaṃ na cetaso uppilāvitattaṃ.
“Therein, bhikkhus, if others honor, respect, esteem, or venerate the Tathāgata, there is no delight, no joy, no elation in the Tathāgata’s mind.
“Này các Tỳ-khưu, nếu người khác tôn kính, trọng vọng, cung kính, cúng dường Như Lai, thì lúc đó, này các Tỳ-khưu, Như Lai không có sự hoan hỷ, không có sự hài lòng, không có sự phấn khởi trong tâm.
Tatra ce, bhikkhave, pare vā tathāgataṃ sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa evaṃ hoti – ‘yaṃ kho idaṃ pubbe pariññātaṃ tattha me evarūpā kārā* karīyantī’ti.
Therein, bhikkhus, if others honor, respect, esteem, or venerate the Tathāgata, this thought occurs to the Tathāgata: ‘That which was formerly understood, concerning that, such services are being rendered to me.’
Này các Tỳ-khưu, nếu người khác tôn kính, trọng vọng, cung kính, cúng dường Như Lai, thì lúc đó, này các Tỳ-khưu, Như Lai nghĩ rằng: ‘Những sự tôn kính như vậy đang được thực hiện đối với những gì Ta đã hiểu biết từ trước’.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare akkoseyyuṃ paribhāseyyuṃ roseyyuṃ viheseyyuṃ, tatra tumhe hi na āghāto na appaccayo na cetaso anabhiraddhi karaṇīyā.
Therefore, bhikkhus, if others should revile, abuse, offend, or harass you, you should not harbor resentment, discontent, or displeasure in your minds.
Do đó, này các Tỳ-khưu, nếu người khác mắng nhiếc, phỉ báng, tức giận, quấy nhiễu các ông, thì lúc đó, các ông không nên có sự tức giận, không có sự bất mãn, không có sự không hoan hỷ trong tâm.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, tatra tumhehi na ānando na somanassaṃ na cetaso uppilāvitattaṃ karaṇīyaṃ.
Therefore, bhikkhus, if others should honor, respect, esteem, or venerate you, you should not harbor delight, joy, or elation in your minds.
Do đó, này các Tỳ-khưu, nếu người khác tôn kính, trọng vọng, cung kính, cúng dường các ông, thì lúc đó, các ông không nên có sự hoan hỷ, không có sự hài lòng, không có sự phấn khởi trong tâm.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, tatra tumhākaṃ evamassa – ‘yaṃ kho idaṃ pubbe pariññātaṃ, tattha me* evarūpā kārā karīyantī’ti.
Therefore, bhikkhus, if others should honor, respect, esteem, or venerate you, this thought should occur to you: ‘That which was formerly understood, concerning that, such services are being rendered to me.’
Do đó, này các Tỳ-khưu, nếu người khác tôn kính, trọng vọng, cung kính, cúng dường các ông, thì lúc đó, các ông nên nghĩ rằng: ‘Những sự tôn kính như vậy đang được thực hiện đối với những gì chúng ta đã hiểu biết từ trước’.
247. ‘‘Tasmātiha, bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
247. “Therefore, bhikkhus, abandon that which is not yours; your abandoning of it will be for your long-term welfare and happiness.
247. “Do đó, này các Tỳ-khưu, cái gì không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ mang lại lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṃ?
And what, bhikkhus, is not yours?
Và này các Tỳ-khưu, cái gì không phải của các ông?
Rūpaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Form, bhikkhus, is not yours; abandon it. Your abandoning of it will be for your long-term welfare and happiness.
Sắc, này các Tỳ-khưu, không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ mang lại lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Vedanā, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; sā vo pahīnā dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Feeling, bhikkhus, is not yours; abandon it. Your abandoning of it will be for your long-term welfare and happiness.
Thọ, này các Tỳ-khưu, không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ mang lại lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.”
Saññā, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; sā vo pahīnā dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Perception, bhikkhus, is not yours; abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Này các Tỳ-khưu, tưởng không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Saṅkhārā, bhikkhave, na tumhākaṃ, te pajahatha; te vo pahīnā dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissanti.
Formations, bhikkhus, are not yours; abandon them. Those, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Này các Tỳ-khưu, các hành không phải của các ông, hãy từ bỏ chúng; khi chúng được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Viññāṇaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Consciousness, bhikkhus, is not yours; abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Này các Tỳ-khưu, thức không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, yaṃ imasmiṃ jetavane tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ, taṃ jano hareyya vā daheyya vā yathāpaccayaṃ vā kareyya.
What do you think, bhikkhus? If people were to carry away, burn, or do with as they please, the grass, sticks, branches, and leaves in this Jeta Grove—
Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao về cỏ, củi, cành, lá trong khu rừng Jeta này, nếu người ta mang đi, hoặc đốt cháy, hoặc làm những gì tùy theo nhu cầu?
Api nu tumhākaṃ evamassa – ‘amhe jano harati vā dahati vā yathāpaccayaṃ vā karotī’ti?
would you think: ‘People are carrying us away, burning us, or doing with us as they please’?
Há các ông có nghĩ rằng: ‘Người ta mang chúng tôi đi, hoặc đốt cháy chúng tôi, hoặc làm những gì tùy theo nhu cầu’ ư?
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, venerable sir.”
“Không phải vậy, bạch Thế Tôn.”
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
“For what reason?”
“Vì lý do gì?”
‘‘Na hi no etaṃ, bhante, attā vā attaniyaṃ vā’’ti.
“Because, venerable sir, that is neither our self nor belonging to our self.”
“Bạch Thế Tôn, vì những thứ đó không phải là tự ngã của chúng con, cũng không phải là sở hữu của tự ngã chúng con.”
‘‘Evameva kho, bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
“In the same way, bhikkhus, that which is not yours, abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
“Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, cái gì không phải của các ông thì hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṃ?
And what, bhikkhus, is not yours?
Và cái gì, này các Tỳ-khưu, không phải của các ông?
Rūpaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Form, bhikkhus, is not yours; abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Này các Tỳ-khưu, sắc không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Vedanā, bhikkhave…pe… saññā, bhikkhave… saṅkhārā, bhikkhave…pe… viññāṇaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Feeling, bhikkhus… Perception, bhikkhus… Formations, bhikkhus… Consciousness, bhikkhus, is not yours; abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Thọ, này các Tỳ-khưu… (tương tự)… Tưởng, này các Tỳ-khưu… Các hành, này các Tỳ-khưu… (tương tự)… Thức, này các Tỳ-khưu, không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
248. ‘‘Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
248. “Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
248. “Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike ye te bhikkhū arahanto khīṇāsavā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṃyojanā sammadaññā vimuttā, vaṭṭaṃ tesaṃ natthi paññāpanāya.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus who are Arahants, whose taints are destroyed, who have lived the holy life, done what had to be done, laid down the burden, attained their own goal, whose fetters of existence are utterly destroyed, who are rightly liberated through perfect knowledge—for them there is no designation regarding future existence.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào là bậc A-la-hán, đã diệt trừ các lậu hoặc, đã hoàn thành đời sống Phạm hạnh, đã làm những gì cần làm, đã đặt xuống gánh nặng, đã đạt được mục đích tối thượng của mình, đã đoạn trừ các kiết sử hữu, đã giải thoát hoàn toàn nhờ chánh trí, thì không còn sự quy định nào cho họ trong vòng luân hồi.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ bhikkhūnaṃ pañcorambhāgiyāni saṃyojanāni pahīnāni, sabbe te opapātikā, tattha parinibbāyino, anāvattidhammā tasmā lokā.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus for whom the five lower fetters are abandoned are all spontaneously reborn, there they attain final Nibbāna, never to return from that world.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, tất cả họ đều là bậc hóa sanh, sẽ nhập Niết-bàn tại đó, không còn trở lại thế giới ấy nữa.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ bhikkhūnaṃ tīṇi saṃyojanāni pahīnāni, rāgadosamohā tanubhūtā, sabbe te sakadāgāmino, sakideva imaṃ lokaṃ āgantvā dukkhassantaṃ karissanti.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus for whom the three fetters are abandoned, and whose lust, hatred, and delusion are attenuated, are all once-returners; they will return to this world just once and make an end of suffering.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào đã đoạn trừ ba kiết sử, tham, sân, si đã trở nên mỏng manh, tất cả họ đều là bậc Nhất Lai, chỉ một lần nữa trở lại thế giới này rồi sẽ chấm dứt khổ đau.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ bhikkhūnaṃ tīṇi saṃyojanāni pahīnāni, sabbe te sotāpannā, avinipātadhammā, niyatā sambodhiparāyanā.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus for whom the three fetters are abandoned are all stream-enterers, no longer subject to downfall, certain of liberation, with enlightenment as their destination.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào đã đoạn trừ ba kiết sử, tất cả họ đều là bậc Nhập Lưu, không còn rơi vào các cõi đọa, chắc chắn sẽ đạt đến giác ngộ.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike ye te bhikkhū dhammānusārino saddhānusārino sabbe te sambodhiparāyanā.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus who are Dhamma-followers and faith-followers all have enlightenment as their destination.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào là bậc tùy pháp hành, tùy tín hành, tất cả họ đều sẽ đạt đến giác ngộ.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ mayi saddhāmattaṃ pemamattaṃ sabbe te saggaparāyanā’’ti.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those in whom there is merely faith in me, merely affection for me, all have heaven as their destination.”
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những ai có chút niềm tin nơi Ta, chút lòng yêu mến, tất cả họ đều sẽ sanh về cõi trời.”