Chakkanipāte yassa maggaṃ na jānāsītiādikā pañcasatamattānaṃ therīnaṃ gāthā.
In the Chakkanipāta, the verses beginning with yassa maggaṃ na jānāsi belong to five hundred Therīs.
Trong Chương Sáu Kệ, bài kệ “Con không biết đường đi” v.v… là của năm trăm trưởng lão-ni.
Imāpi purimabuddhesu katādhikārā tattha tattha bhave vivaṭṭūpanissayaṃ kusalaṃ upacinantiyo anukkamena upacitavimokkhasambhārā hutvā imasmiṃ buddhuppāde tattha tattha kulagehe nibbattitvā vayappattā mātāpitūhi patikulaṃ ānītā tattha tattha putte labhitvā gharāvāsaṃ vasantiyo samānajātikassa tādisassa kammassa katattā sabbāva mataputtā hutvā, puttasokena abhibhūtā paṭācārāya theriyā santikaṃ upasaṅkamitvā vanditvā nisinnā attano sokakāraṇaṃ ārocesuṃ.
These Therīs, too, having performed meritorious deeds under previous Buddhas, accumulating wholesome kamma that leads to freedom from saṃsāra in various existences, gradually amassed the requisites for liberation. In this Buddha-era, they were reborn in various brahmin families. Having reached maturity, they were brought by their parents to their husbands' families. There, they bore children and lived the household life. Due to having performed similar kamma of the same kind, all of them became mothers whose children had died. Overwhelmed by grief for their children, they approached the Therī Paṭācārā, paid homage, and sat down, then reported the cause of their sorrow.
Những vị này cũng đã tạo công đức trong các Đức Phật quá khứ, tích lũy thiện nghiệp là nhân duyên thoát khỏi luân hồi trong từng kiếp sống, dần dần tích lũy các yếu tố giải thoát, rồi trong thời Đức Phật này, họ tái sinh vào các gia đình quý tộc khác nhau, khi đến tuổi trưởng thành, được cha mẹ gả về nhà chồng, sống cuộc sống gia đình hạnh phúc, sinh con. Khi những đứa con ấy chạy nhảy chơi đùa thì chúng qua đời. Do đã tạo nghiệp tương tự như vậy, tất cả họ đều mất con, bị nỗi đau mất con hành hạ. Họ đến gặp trưởng lão-ni Paṭācārā, đảnh lễ rồi ngồi xuống và trình bày nguyên nhân nỗi đau của mình.
Therī tāsaṃ sokaṃ vinodentī –
The Therī, desiring to dispel their sorrow,
Trưởng lão-ni, muốn xua tan nỗi đau của họ, đã thuyết pháp bằng bốn bài kệ sau:
Tā tassā dhammaṃ sutvā sañjātasaṃvegā theriyā santike pabbajiṃsu.
Having heard her Dhamma, they were profoundly moved and went forth into homelessness in the presence of the Therī.
Nghe pháp của trưởng lão-ni, họ phát sinh cảm động sâu sắc và xuất gia theo trưởng lão-ni.
Pabbajitvā vipassanāya kammaṃ karontiyo vimuttiparipācanīyānaṃ dhammānaṃ paripākaṃ gatattā na cirasseva saha paṭisambhidāhi arahatte patiṭṭhahiṃsu.
Having gone forth and engaged in vipassanā practice, due to the maturation of the qualities conducive to liberation, they soon became established in arahantship together with the paṭisambhidās.
Sau khi xuất gia, họ thực hành thiền Vipassanā, do các pháp làm chín muồi sự giải thoát đã chín muồi, nên chẳng bao lâu họ đã an trú vào A-la-hán quả cùng với các Tứ Vô Ngại Giải.
Atha tā adhigatārahattā attano paṭipattiṃ paccavekkhitvā udānavasena ‘‘yassa maggaṃ na jānāsī’’tiādikāhi ovādagāthāhi saddhiṃ –
Then, having attained arahantship, they reflected on their own practice and, by way of udāna, together with the verses of instruction beginning with "yassa maggaṃ na jānāsi"—
Khi đã đạt A-la-hán quả, họ quán xét sự thực hành của mình và, cùng với những bài kệ giáo huấn “Con không biết đường đi” v.v… bằng cách tự thốt lên, họ đã nói những bài kệ sau:
Tattha yassa maggaṃ na jānāsi, āgatassa gatassa vāti yassa sattassa idha āgatassa āgatamaggaṃ vā ito gatassa gatamaggaṃ vā tvaṃ na jānāsi.
Therein, yassa maggaṃ na jānāsi, āgatassa gatassa vā means: "You do not know the path of arrival for whichever being has come here, nor the path of departure for one who has gone from here."
Trong đó, “Con không biết đường đi của người đã đến hay đã đi” có nghĩa là con không biết đường đến của chúng sinh đã đến đây, hay đường đi của chúng sinh đã đi từ đây.
Anantarā atītānāgatabhavūpapattiyo sandhāya vadati.
This refers to the immediately preceding and future existences.
Điều này đề cập đến sự tái sinh của các kiếp sống quá khứ và vị lai liền kề.
Taṃ kuto cāgataṃ sattanti taṃ evaṃ aviññātāgatagatamaggaṃ kutoci gatito āgatamaggaṃ āgacchantena antarāmagge sabbena sabbaṃ akataparicayasamāgatapurisasadisaṃ sattaṃ kevalaṃ mamattaṃ uppādetvā mama puttoti kuto kena kāraṇena rodasi.
Taṃ kuto cāgataṃ sattanti means: "Why do you weep for that being, whose path of arrival and departure is unknown, who has come from some destiny, whose path of arrival is like that of a person encountered on the road with whom no acquaintance has been made at all, merely generating the sense of 'mine' and saying 'my son'?"
“Chúng sinh ấy từ đâu mà đến” có nghĩa là chúng sinh ấy, mà đường đến và đường đi của nó con không biết, nó đến từ một nơi nào đó, giống như một người lạ mặt hoàn toàn chưa từng quen biết trên đường đi, tại sao con lại khóc rằng “con của con” mà tạo ra sự chấp thủ “của tôi”?
Appaṭikārato mama puttassa ca akātabbato na ettha rodanakāraṇaṃ atthīti adhippāyo.
The intention is that there is no reason to weep here, due to the lack of reciprocity from your son and the absence of any obligation.
Ý nghĩa là không có lý do gì để khóc ở đây, vì con của con không thể đền đáp ân nghĩa và không có ân nghĩa nào được tạo ra.
Maggañca khossa jānāsīti assa tava puttābhimatassa sattassa āgatassa āgatamaggañca gatassa gatamaggañca atha jāneyyāsi.
Maggañca khossa jānāsīti means: "And if you were to know the path of arrival of that being, your beloved son, who has come, and the path of departure of one who has gone."
“Nếu con biết đường đi” có nghĩa là nếu con biết đường đến của chúng sinh mà con coi là con của mình, và đường đi của nó.
Na naṃ samanusocesīti evampi naṃ na samanusoceyyāsi.
Na naṃ samanusocesīti means: "Even then, you should not grieve for him."
“Con sẽ không than khóc người ấy” có nghĩa là dù biết như vậy, con cũng sẽ không than khóc người ấy.
Evaṃdhammā hi pāṇino, diṭṭhadhammepi hi sattānaṃ sabbehi piyehi manāpehi nānābhāvā vinābhāvā tattha vasavattitāya abhāvato, pageva abhisamparāyaṃ.
Evaṃdhammā hi pāṇino: "For beings are of such a nature." Even in this visible existence, separation from all dear and delightful ones is inevitable for beings, due to the absence of control over such matters, let alone in the next existence.
“Vì chúng sinh vốn có bản chất như vậy.” Ngay cả trong kiếp sống hiện tại, tất cả những người thân yêu và dễ mến đều phải chia ly và xa cách, do không có khả năng kiểm soát chúng, huống chi trong kiếp sống tương lai.
Ayācito tatāgacchīti tato paralokato kenaci ayācito idha āgacchi.
Ayācito tatāgacchīti means: "Uninvited by anyone, he came here from that other world."
“Không được thỉnh cầu, người ấy từ đó mà đến” có nghĩa là từ thế giới bên kia, không được ai thỉnh cầu, người ấy đã đến đây.
‘‘Āgato’’tipi pāḷi, so evattho.
"Āgato" is also a reading, with the same meaning.
Cũng có bản Pali là “āgato”, ý nghĩa cũng vậy.
Nānuññāto ito gatoti idhalokato kenaci ananuññāto paralokaṃ gato.
Nānuññāto ito gatoti means: "Unpermitted by anyone, he went to the other world from this world."
“Không được cho phép, người ấy từ đây mà đi” có nghĩa là từ thế giới này, không được ai cho phép, người ấy đã đi đến thế giới bên kia.
Kutocīti nirayādito yato kutoci gatito.
Kutocīti means: "From some destiny, such as hell and so forth."
“Từ đâu đó” là từ một cảnh giới nào đó, như địa ngục v.v…
Nūnāti parisaṅkāyaṃ.
Nūnāti is for doubt.
“Chắc chắn” là để chỉ sự nghi ngờ.
Vasitvā katipāhakanti katipayadivasamattaṃ idha vasitvā.
Vasitvā katipāhakanti means: "Having stayed here for just a few days."
“Ở lại vài ngày” là ở lại đây chỉ vài ngày.
Itopi aññena gatoti itopi bhavato aññena gato, ito aññampi bhavaṃ paṭisandhivasena upagato.
Itopi aññena gatoti means: "He went from this existence to another; he took rebirth in another existence."
“Từ đây đi đến một nơi khác” có nghĩa là từ kiếp sống này đi đến một kiếp sống khác, tức là tái sinh vào một kiếp sống khác.
Tatopaññena gacchatīti tatopi bhavato aññena gamissati, aññameva bhavaṃ upagamissati.
Tatopaññena gacchatīti means: "He will go from that existence to another; he will take rebirth in another existence."
“Từ đó lại đi đến một nơi khác nữa” có nghĩa là từ kiếp sống đó sẽ đi đến một kiếp sống khác, tức là sẽ tái sinh vào một kiếp sống khác nữa.
Petoti apeto taṃ taṃ bhavaṃ upapajjitvā tato apagato.
Petoti means: "The departed son, having been reborn in various existences, then departed from them."
“Người đã chết” có nghĩa là người đã rời bỏ, đã tái sinh vào kiếp sống đó rồi rời bỏ từ đó.
Manussarūpenāti nidassanamattametaṃ, manussabhāvena tiracchānādibhāvena cāti attho.
Manussarūpenāti is merely an example; the meaning is "in human form, in animal form, etc."
“Mang hình hài con người” đây chỉ là một ví dụ, ý nghĩa là mang hình hài con người, súc sinh v.v…
Saṃsarantoti aparāparaṃ upapattivasena saṃsaranto.
Saṃsarantoti means: "Wandering on from one existence to another by way of rebirth."
“Luân hồi” có nghĩa là luân hồi hết kiếp này đến kiếp khác theo cách tái sinh.
Yathāgato tathā gatoti yathā aviññātagatito ca anāmantetvā āgato tathā aviññātagatiko ananuññātova gato.
Yathāgato tathā gatoti means: "Just as he came from an unknown destiny without being invited, so too he went without being permitted, having an unknown destiny."
“Đến như thế nào thì đi như thế ấy” có nghĩa là đến từ một cảnh giới không biết và không được mời, thì cũng đi từ một cảnh giới không biết và không được cho phép.
Kā tattha paridevanāti tattha tādise avasavattini yathākāmāvacare kā nāma paridevanā, kiṃ paridevitena payojananti attho.
Kā tattha paridevanāti means: "What lamentation can there be concerning such a being who is not subject to one's will, who wanders according to his own desire? What purpose is served by lamentation?"
“Có gì mà phải than khóc?” có nghĩa là trong trường hợp như vậy, không thể kiểm soát được, tùy theo ý muốn mà đi lại, thì than khóc có ích lợi gì?
Sesaṃ vuttanayameva.
The rest is in the same manner as explained.
Phần còn lại cũng theo cách đã nói.
Ettha ca ādito catasso gāthā paṭācārāya theriyā tesaṃ pañcamattānaṃ itthisatānaṃ sokavinodanavasena visuṃ visuṃ bhāsitā.
Here, the first four verses were recited individually by the Therī Paṭācārā to dispel the sorrow of those five hundred women.
Trong những bài kệ này, bốn bài kệ đầu tiên đã được trưởng lão-ni Paṭācārā nói riêng biệt với mục đích xua tan nỗi đau của năm trăm phụ nữ đó.
Tassā ovāde ṭhatvā pabbajitvā adhigatavisesāhi tāhi pañcasatamattāhi bhikkhunīhi chapi gāthā paccekaṃ bhāsitāti daṭṭhabbā.
It should be understood that the six verses were each recited by those five hundred bhikkhunīs who, having stood in her counsel, went forth and attained distinction.
Sáu bài kệ còn lại được năm trăm tỳ-khưu-ni đã xuất gia theo lời giáo huấn của trưởng lão-ni và đã đạt được những thành tựu đặc biệt, nói riêng biệt từng bài.
Puttasokenahaṃ aṭṭātiādikā vāseṭṭhiyā theriyā gāthā.
Puttasokenahaṃ aṭṭāti, etc., are the verses of Therī Vāseṭṭhī.
Bài kệ “Tôi bị nỗi đau mất con hành hạ” v.v… là của trưởng lão-ni Vāseṭṭhī.
Ayampi purimabuddhesu katādhikārā tattha tattha bhave vivaṭṭūpanissayaṃ kusalaṃ upacinantī anukkamena sambhatavimokkhasambhārā devamanussesu saṃsarantī imasmiṃ buddhuppāde vesāliyaṃ kulagehe nibbattitvā vayappattā mātāpitūhi samānajātikassa kulaputtassa dinnā patikulaṃ gantvā tena saddhiṃ sukhasaṃvāsaṃ vasantī ekaṃ puttaṃ labhitvā tasmiṃ ādhāvitvā paridhāvitvā vicaraṇakāle kālaṃ kate puttasokena aṭṭitā ummattikā ahosi.
This Theri Vāseṭṭhī, having performed superior deeds under previous Buddhas, accumulating wholesome kamma conducive to liberation in various existences, and having gathered the requisites for liberation, wandered through celestial and human realms. In this Buddha-era, she was reborn into a good family in Vesālī. Having reached maturity, she was given in marriage by her parents to a young man of equal social standing. Going to her husband's home and living happily with him, she gave birth to one son. When that son died while running around, she was afflicted by sorrow for her son and became insane.
Vị này cũng đã tạo công đức trong các Đức Phật quá khứ, tích lũy thiện nghiệp là nhân duyên thoát khỏi luân hồi trong từng kiếp sống, dần dần tích lũy các yếu tố giải thoát, luân hồi trong cõi trời và cõi người. Trong thời Đức Phật này, bà tái sinh vào một gia đình quý tộc ở Vesālī, khi đến tuổi trưởng thành, được cha mẹ gả cho một người con trai cùng đẳng cấp, bà về nhà chồng sống hạnh phúc với người ấy, sinh được một người con. Khi đứa con ấy chạy nhảy chơi đùa thì nó qua đời. Bà bị nỗi đau mất con hành hạ và trở nên điên loạn.
Sā ñātakesu sāmike ca tikicchaṃ karontesu tesaṃ ajānantānaṃyeva palāyitvā yato tato paribbhamantī mithilānagaraṃ sampattā tatthaddasa bhagavantaṃ antaravīthiyaṃ gacchantaṃ dantaṃ guttaṃ saṃyatindriyaṃ nāgaṃ.
While her relatives and husband were attempting to cure her, she escaped without their knowledge and wandered aimlessly, arriving in the city of Mithilā. There, she saw the Bhagavā walking in the middle of a street, disciplined, restrained, with guarded faculties, like a great elephant.
Dù người thân và chồng đã cố gắng chữa trị, nhưng bà đã bỏ trốn khi họ không hay biết, lang thang khắp nơi và đến thành phố Mithilā. Ở đó, bà thấy Đức Thế Tôn đang đi trên đường phố, Ngài là bậc đã được thuần hóa, được bảo vệ, có các căn được chế ngự, giống như một con voi chúa.
Disvāna saha dassanena buddhānubhāvato apagatummādā pakaticittaṃ paṭilabhi.
Upon seeing him, immediately by the Buddha's power, her madness vanished, and she regained her normal mind.
Vừa nhìn thấy, nhờ uy lực của Đức Phật, bà đã thoát khỏi cơn điên loạn và lấy lại được tâm trí bình thường.
Athassā satthā saṃkhittena dhammaṃ desesi.
Then the Teacher taught her the Dhamma in brief.
Sau đó, Đức Bổn Sư đã thuyết pháp tóm tắt cho bà.
Sā taṃ dhammaṃ sutvā paṭiladdhasaṃvegā satthāraṃ pabbajjaṃ yācitvā satthu āṇāya bhikkhunīsu pabbajitvā katapubbakiccā vipassanaṃ paṭṭhapetvā ghaṭentī vāyamantī paripakkañāṇatāya na cirasseva saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā attano paṭipattiṃ paccavekkhitvā udānavasena –
Having heard that Dhamma, she experienced spiritual urgency, requested ordination from the Teacher, and by the Teacher's command, she ordained among the bhikkhunīs. Having completed her preliminary duties, she established vipassanā, diligently striving, and due to her mature wisdom, she soon attained arahantship together with the paṭisambhidā. Reflecting on her own practice, she uttered these verses of joy:
Nghe pháp ấy, vị ấy khởi tâm xúc động, xin Đức Phật cho xuất gia. Theo lời dạy của Đức Phật, vị ấy xuất gia trong hàng Tỳ khưu ni, sau khi hoàn thành các việc sơ khởi, liền thiết lập thiền quán, tinh tấn nỗ lực. Do trí tuệ đã chín muồi, chẳng bao lâu, vị ấy đạt được quả A-la-hán cùng với các tuệ phân tích. Sau khi quán xét sự thực hành của mình, vị ấy đã thốt lên lời cảm hứng:
Tattha aṭṭāti aṭṭitā.
There, aṭṭā means afflicted.
Trong đó, aṭṭā có nghĩa là bị hành hạ.
Ayameva vā pāṭho, aṭṭitā pīḷitāti attho.
Or this very reading means, aṭṭitā, oppressed.
Hoặc đây là một cách đọc khác, nghĩa là bị hành hạ, bị áp bức.
Khittacittāti sokummādena khittahadayā.
Khittacittā means having a bewildered mind due to the madness of grief.
Khittacittā có nghĩa là tâm bị xáo trộn do điên loạn vì sầu muộn.
Tato eva pakatisaññāya vigamena visaññinī.
And for that very reason, visaññinī means devoid of normal perception.
Do đó, vì mất đi sự nhận thức bình thường, nên visaññinī (mất trí).
Hirottappābhāvato apagatavatthatāya naggā.
Naggā means naked, due to the absence of shame and moral dread.
Vì không có lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, nên naggā (trần truồng) không còn y phục.
Vidhutakesatāya pakiṇṇakesī.
Pakiṇṇakesī means having disheveled hair, due to her hair being shaken out.
Vì tóc bị rối tung, nên pakiṇṇakesī (tóc rối bời).
Tena tenāti gāmena gāmaṃ nagarena nagaraṃ vīthiyā vīthiṃ vicariṃ ahaṃ.
Tena tenā means I wandered from village to village, city to city, street to street.
Tena tenā có nghĩa là tôi đã đi từ làng này sang làng khác, từ thành phố này sang thành phố khác, từ đường phố này sang đường phố khác.
Athāti pacchā ummādasaṃvattaniyassa kammassa parikkhaye.
Athā means afterwards, upon the exhaustion of the kamma that led to madness.
Athā có nghĩa là sau đó, khi nghiệp gây ra sự điên loạn đã chấm dứt.
Sugatanti sobhanagamanattā sundaraṃ ṭhānaṃ gatattā sammā gadattā sammā ca gatattā sugataṃ bhagavantaṃ.
Sugataṃ refers to the Bhagavā, the Sugata, because he has gone well (by the Noble Path), because he has gone to a good state (Nibbāna), and because he speaks rightly.
Sugataṃ có nghĩa là Đức Thế Tôn, bậc Thiện Thệ, vì Ngài có sự đi đứng đẹp đẽ (tức con đường Thánh), đã đến nơi tốt đẹp (tức Nibbāna), đã nói lời đúng đắn, và đã đi một cách đúng đắn (tức từ chân Đức Phật Dīpaṅkara).
Mithilaṃ patīti mithilābhimukhaṃ, mithilānagarābhimukhaṃ gacchantanti attho.
Mithilaṃ patī means heading towards Mithilā, that is, going towards the city of Mithilā.
Mithilaṃ patī có nghĩa là hướng về Mithilā, tức là đang đi về phía thành phố Mithilā.
Yuñjantī satthuvacaneti satthu sammāsambuddhassa sāsane yogaṃ karontī bhāvanaṃ anuyuñjantī.
Yuñjantī satthuvacane means practicing jhāna, engaging in meditation in the dispensation of the Teacher, the Perfectly Enlightened One.
Yuñjantī satthuvacane có nghĩa là tinh tấn tu tập trong giáo pháp của Đức Đạo Sư, bậc Chánh Đẳng Giác, chuyên cần hành thiền.
Sacchākāsiṃ padaṃ sivanti sivaṃ khemaṃ catūhi yogehi anupaddutaṃ nibbānaṃ padaṃ sacchiakāsiṃ.
Sacchākāsiṃ padaṃ sivaṃ means I realized Nibbāna, the peaceful, secure state, unimpeded by the four yogas.
Sacchākāsiṃ padaṃ sivaṃ có nghĩa là tôi đã chứng đạt Nibbāna, trạng thái an lành, vô úy, không bị bốn ách (yoga) quấy nhiễu.
Etadantikāti etaṃ idāni mayā adhigataṃ arahattaṃ anto pariyosānaṃ etesanti etadantikā, sokā.
Etadantikā means having this arahantship, which I have now attained, as their end. These are sorrows.
Etadantikā có nghĩa là những sầu muộn này có sự kết thúc, sự chấm dứt là quả vị A-la-hán mà tôi đã đạt được hiện nay.
Na dāni tesaṃ sambhavo atthīti attho.
It means that there is no possibility of their arising now.
Nghĩa là, bây giờ chúng không còn khả năng phát sinh nữa.
Yato sokāna sambhavoti yato antonijjhānalakkhaṇānaṃ sokānaṃ sambhavo, tesaṃ sokānaṃ pañcupādānakkhandhasaṅkhātā vatthū adhiṭṭhānāni ñātatīraṇapahānapariññāhi pariññātā.
Yato sokāna sambhavo means the bases and foundations, namely the five aggregates of clinging, from which internal, burning sorrows arise, have been fully understood by me through the three types of full understanding: understanding by knowledge, understanding by scrutiny, and understanding by abandoning.
Yato sokāna sambhavo có nghĩa là những căn bản, tức là năm uẩn chấp thủ (pañcupādānakkhandha), là nơi nương tựa của những sầu muộn có đặc tính là sự đau khổ nội tại, đã được thấu triệt bằng các loại tuệ tri (pariññā) như Ñāta-pariññā (biết rõ), Tīraṇa-pariññā (phân tích) và Pahāna-pariññā (đoạn trừ).
Tasmā sokā etadantikāti yojanā.
Therefore, the connection is that sorrows have this as their end.
Do đó, sầu muộn có sự chấm dứt này.
Daharā tvaṃ rūpavatītiādikā khemāya theriyā gāthā.
The verses beginning with Daharā tvaṃ rūpavatī are those of Theri Khemā.
Các câu kệ của Trưởng lão ni Khemā bắt đầu bằng Daharā tvaṃ rūpavatī (Này cô gái trẻ đẹp).
Ayaṃ kira padumuttarassa bhagavato kāle haṃsavatīnagare parādhīnavuttikā paresaṃ dāsī ahosi.
It is said that in the time of Bhagavā Padumuttara, she was a slave in Haṃsavatī city, dependent on others for her livelihood.
Nghe nói, vào thời Đức Thế Tôn Padumuttara, bà ấy sinh ra ở thành phố Haṃsavatī và là một nữ tỳ của người khác, sống phụ thuộc vào người khác.
Sā paresaṃ veyyāvaccakaraṇena jīvikaṃ kappentī ekadivasaṃ padumuttarassa sammāsambuddhassa aggasāvakaṃ sujātattheraṃ piṇḍāya carantaṃ disvā tayo modake datvā taṃdivasameva attano kese vissajjetvā therassa dānaṃ datvā ‘‘anāgate mahāpaññā buddhassa sāvikā bhaveyya’’nti patthanaṃ katvā yāvajīvaṃ kusalakamme appamattā hutvā devamanussesu saṃsarantī anukkamena chakāmasagge, tesaṃ tesaṃ devarājūnaṃ mahesibhāvena upapannā, manussalokepi anekavāraṃ cakkavattīnaṃ maṇḍalarājūnañca mahesibhāvaṃ upagatā mahāsampattiyo anubhavitvā vipassissa bhagavato kāle manussaloke uppajjitvā viññutaṃ patvā, satthu santike dhammaṃ sutvā paṭiladdhasaṃvegā pabbajitvā dasavassasahassāni brahmacariyaṃ carantī bahussutā dhammakathikā hutvā bahujanassa dhammakathanādinā paññāsaṃvattaniyakammaṃ katvā tato cavitvā sugatīsuyeva saṃsarantī imasmiṃ kappe bhagavato ca kakusandhassa bhagavato ca koṇāgamanassa kāle vibhavasampanne kule nibbattitvā viññutaṃ patvā mahantaṃ saṅghārāmaṃ kāretvā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa niyyādesi.
Living by performing services for others, one day she saw Thera Sujāta, the chief disciple of the Perfectly Enlightened Buddha Padumuttara, going for alms. She offered him three sweetmeats. On that very day, she cut off her hair, sold it, and gave the proceeds as an offering to the Thera, making a wish, "May I become a greatly wise female disciple of the Buddha in the future." She remained diligent in wholesome deeds throughout her life, wandering through celestial and human realms. Progressively, she was reborn as a chief queen of various deva kings in the six sensual heavens. In the human realm too, she attained the position of chief queen of Cakkavattī kings and regional kings many times, experiencing great prosperity. In the time of Bhagavā Vipassī, she was born in the human realm, attained understanding, and after hearing the Dhamma from the Teacher, she experienced spiritual urgency and ordained. She practiced the holy life for ten thousand years, becoming well-versed and a Dhamma speaker. By teaching the Dhamma to many people and other such acts, she performed kamma conducive to wisdom. After passing away from that existence, she wandered only in fortunate destinations. In this kappa, during the times of Bhagavā Kakusandha and Bhagavā Koṇāgamana, she was reborn into wealthy families, attained understanding, and had a large monastery built, which she dedicated to the Saṅgha of bhikkhus, headed by the Buddha.
Một ngày nọ, khi đang kiếm sống bằng cách làm công việc phục vụ cho người khác, bà thấy Trưởng lão Sujāta, vị đệ tử tối thắng của Đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara, đang đi khất thực, bà đã cúng dường ba chiếc bánh modaka. Ngay trong ngày đó, bà đã cắt tóc của mình (để bán) và cúng dường cho vị Trưởng lão, rồi phát nguyện: “Mong rằng trong tương lai, tôi sẽ trở thành một nữ đệ tử có đại trí tuệ của Đức Phật.” Sau đó, bà sống không phóng dật trong các việc thiện suốt đời, luân hồi trong cõi trời và cõi người. Dần dần, bà sinh vào sáu cõi dục giới, trở thành hoàng hậu của các vị thiên vương khác nhau. Trong cõi người, bà cũng nhiều lần trở thành hoàng hậu của các vị Chuyển Luân Thánh Vương và các vị vua chư hầu, hưởng thụ những tài sản vĩ đại. Vào thời Đức Thế Tôn Vipassī, bà sinh ra trong cõi người, đạt đến sự hiểu biết, nghe Pháp từ Đức Đạo Sư, khởi tâm xúc động, xuất gia và sống phạm hạnh trong mười ngàn năm. Bà trở thành một người đa văn và là một pháp sư, đã tạo ra nghiệp thiện dẫn đến trí tuệ bằng cách thuyết Pháp cho nhiều người. Sau khi chuyển kiếp từ đó, bà luân hồi trong các cõi thiện. Trong kiếp này, vào thời Đức Thế Tôn Kakusandha và Đức Thế Tôn Koṇāgamana, bà sinh ra trong một gia đình giàu có, đạt đến sự hiểu biết, xây dựng một đại tinh xá và cúng dường cho Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu.
Bhagavato pana kassapadasabalassa kāle kikissa kāsirañño sabbajeṭṭhikā samaṇī nāma dhītā hutvā, satthu santike dhammaṃ sutvā paṭiladdhasaṃvegā agāreyeva ṭhitā, vīsati vassasahassāni komāribrahmacariyaṃ carantī samaṇaguttādīhi attano bhaginīhi saddhiṃ ramaṇīyaṃ pariveṇaṃ kāretvā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa niyyādesi.
Moreover, in the time of Bhagavā Kassapa Dasabala, she was born as Samaṇī, the eldest daughter of King Kikī of Kāsī. Having heard the Dhamma from the Teacher, she experienced spiritual urgency and remained in the palace, practicing the brahmacariya of a maiden for twenty thousand years. Together with her sisters, such as Samaṇaguttā, she had a delightful precinct built and dedicated it to the Saṅgha of bhikkhus, headed by the Buddha.
Vào thời Đức Phật Kassapa, bà là công chúa Samaṇī, con gái lớn nhất của vua Kiki xứ Kāsī. Sau khi nghe Pháp từ Đức Đạo Sư, bà khởi tâm xúc động, vẫn sống tại gia, giữ giới phạm hạnh trinh tiết trong hai vạn năm. Cùng với các em gái của mình như Samaṇaguttā, bà đã xây dựng một khu vườn đẹp đẽ và cúng dường cho Tăng đoàn Tỳ-khưu-ni do Đức Phật đứng đầu.
Evameva tattha tattha bhave āyatanagataṃ uḷāraṃ puññakammaṃ katvā sugatīsuyeva saṃsaritvā imasmiṃ buddhuppāde maddaraṭṭhe sākalanagare rājakule nibbatti.
In this very manner, having performed excellent meritorious deeds focused on the objects (of virtue) in various existences, and having wandered through fortunate destinations, she was reborn into a royal family in Sākala city, in the Madda country, during this Buddha-era.
Cứ như vậy, trong mỗi kiếp, bà đã tạo những nghiệp thiện thù thắng liên quan đến các căn (āyatana) và luân hồi trong các cõi thiện. Trong thời Đức Phật hiện tại, bà sinh ra trong một gia đình hoàng tộc ở thành Sākala, xứ Madda.
Khemātissā nāmaṃ ahosi, suvaṇṇavaṇṇā kañcanasannibhattacā.
Her name was Khemā, and her complexion was like gold, with skin resembling molten gold.
Tên của bà là Khemā, có làn da vàng óng như vàng ròng.
Sā vayappattā bimbisārarañño gehaṃ gatā.
Having reached maturity, she went to the palace of King Bimbisāra.
Khi đến tuổi trưởng thành, bà đã đến cung điện của vua Bimbisāra.
Satthari veḷuvane viharante rūpamattā hutvā ‘‘rūpe dosaṃ dassetī’’ti satthu dassanāya na gacchati.
When the Teacher was residing in Veḷuvana, she, being intoxicated with her beauty, did not go to see the Teacher, thinking, "He points out faults in beauty."
Khi Đức Đạo Sư đang trú tại Veluvana, bà, vì kiêu hãnh về sắc đẹp của mình, đã không đến diện kiến Đức Đạo Sư, nghĩ rằng “Ngài chỉ ra lỗi của sắc đẹp.”
Rājā manussehi veḷuvanassa vaṇṇe pakāsāpetvā deviyā vihāradassanāya cittaṃ uppādesi.
The King had his men proclaim the praises of Veḷuvana, thereby inspiring in the queen a desire to see the monastery.
Vua đã sai người ca ngợi vẻ đẹp của Veluvana, khiến hoàng hậu khởi tâm muốn đến thăm tu viện.
Atha devī ‘‘vihāraṃ passissāmī’’ti rājānaṃ paṭipucchi.
Then the queen inquired of the king, saying, "I will see the monastery."
Thế là hoàng hậu hỏi vua: “Thiếp muốn xem tu viện.”
Rājā ‘‘vihāraṃ gantvā satthāraṃ adisvā āgantuṃ na labhissasī’’ti vatvā purisānaṃ saññaṃ adāsi – ‘‘balakkārenapi deviṃ dasabalaṃ dassethā’’ti.
The King said, "You will not be able to return from the monastery without seeing the Teacher," and he gave a sign to his men: "Even by force, show the Dasabala to the queen."
Vua nói: “Nếu nàng đến tu viện mà không gặp Đức Đạo Sư thì không được phép trở về,” rồi ra hiệu cho các thị vệ: “Hãy buộc hoàng hậu phải diện kiến Đức Thập Lực.”
Devī vihāraṃ gantvā divasabhāgaṃ khepetvā nivattentī satthāraṃ adisvāva gantuṃ āraddhā.
The queen, having gone to the monastery and spent a part of the day, started to leave without having seen the Teacher.
Hoàng hậu đến tu viện, trải qua một buổi rồi định trở về mà không gặp Đức Đạo Sư.
Atha naṃ rājapurisā anicchantimpi satthu santikaṃ nayiṃsu.
Then the royal guards led her to the presence of the Teacher, even though she was unwilling.
Thế là các thị vệ của vua đã dẫn hoàng hậu đến trước Đức Đạo Sư, dù bà không muốn.
Satthā taṃ āgacchantiṃ disvā iddhiyā devaccharāsadisaṃ itthiṃ nimminitvā tālapaṇṇaṃ gahetvā bījayamānaṃ akāsi.
The Teacher, seeing her coming, by psychic power created a woman like a celestial nymph, holding a palm-leaf fan and fanning herself.
Đức Đạo Sư thấy bà đang đến, liền dùng thần thông hóa hiện một nữ nhân giống như thiên nữ, cầm quạt lá cọ đang quạt.
Khemā devī taṃ disvā cintesi – ‘‘evarūpā nāma devaccharapaṭibhāgā itthiyo bhagavato avidūre tiṭṭhanti, ahaṃ etāsaṃ paricārikatāyapi nappahomi, manampi nikkāraṇā pāpacittassa vasena naṭṭhā’’ti nimittaṃ gahetvā tameva itthiṃ olokayamānā aṭṭhāsi.
Queen Khemā, seeing her, thought: "Such beautiful women, resembling celestial nymphs, stand near the Blessed One. I am not even worthy to be their attendant. My mind, too, has been ruined without cause by evil thoughts." Taking this as a sign, she stood gazing at that very woman.
Hoàng hậu Khemā thấy vậy liền suy nghĩ: “Những nữ nhân xinh đẹp như thiên nữ thế này lại đứng gần Đức Thế Tôn, còn mình thì không xứng đáng làm người hầu của họ. Tâm mình vô cớ đã bị hư hoại bởi ý nghĩ xấu xa.” Bà đã nắm lấy dấu hiệu đó và đứng nhìn chăm chú vào nữ nhân kia.
Athassā passantiyāva satthu adhiṭṭhānabalena sā itthī paṭhamavayaṃ atikkamma majjhimavayampi atikkamma pacchimavayaṃ patvā khaṇḍadantā palitakesā valittacā hutvā saddhiṃ tālapaṇṇena parivattitvā pati.
Then, even as she watched, by the power of the Teacher's determination, that woman passed beyond the first stage of life, passed beyond the middle stage, reached the last stage of life, and became one with broken teeth, grey hair, and wrinkled skin, falling down together with the palm-leaf fan.
Thế rồi, ngay khi bà đang nhìn, nhờ oai lực gia trì của Đức Đạo Sư, nữ nhân kia đã vượt qua tuổi thanh xuân, rồi vượt qua tuổi trung niên, đạt đến tuổi già, răng rụng, tóc bạc, da nhăn nheo, rồi cùng với chiếc quạt lá cọ mà ngã lăn ra.
Tato khemā katādhikārattā evaṃ cintesi – ‘‘evaṃvidhampi sarīraṃ īdisaṃ vipattiṃ pāpuṇi, mayhampi sarīraṃ evaṃgatikameva bhavissatī’’ti.
Thereupon, Khemā, being one who had made a great aspiration, reflected thus: "Even a body like this met with such decay; my body, too, will come to such a state."
Từ đó, hoàng hậu Khemā, vì đã tạo nhiều công đức thù thắng, liền suy nghĩ: “Ngay cả thân thể như thế này còn phải chịu sự biến hoại như vậy, thân thể của mình cũng sẽ có cùng số phận.”
Athassā cittācāraṃ ñatvā satthā –
Then the Teacher, knowing her thoughts,
Đức Đạo Sư biết được ý nghĩ của bà, liền nói:
Gāthamāha.
uttered this verse.
Theo các bản Chú giải, khi câu kệ này kết thúc, bà đã chứng A-la-hán cùng với các phân tích tuệ (paṭisambhidā).
Sā gāthāpariyosāne saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇīti aṭṭhakathāsu āgataṃ.
It is stated in the commentaries that at the end of the verse, she attained Arahantship together with the analytical knowledges (paṭisambhidā).
Tuy nhiên, trong Apadāna, có ghi: “Sau khi nghe câu kệ này, bà đã an trú vào quả vị Nhập Lưu, xin phép vua xuất gia và chứng A-la-hán.”
Apadāne pana ‘‘imaṃ gāthaṃ sutvā sotāpattiphale patiṭṭhitā rājānaṃ anujānāpetvā pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇī’’ti āgataṃ.
In the Apadāna, however, it is stated that "having heard this verse, she became established in the fruit of Stream-entry, obtained permission from the king, went forth, and attained Arahantship."
Đây là Bản Pali Apadāna (Apa. Therī 2.2.289-383):
Tatthāyaṃ apadānapāḷi (apa. therī 2.2.289-383) –
This is the Apadāna Pāḷi (apa. therī 2.2.289-383) concerning her:
“Đức Phật Padumuttara, bậc có mắt trong tất cả các pháp,
Arahattaṃ pana patvā phalasukhena nibbānasukhena ca viharantiyā imissā theriyā satipi aññāsaṃ khīṇāsavattherīnaṃ paññāvepullappattiyaṃ tattha pana katādhikāratāya mahāpaññābhāvo pākaṭo ahosi.
Having attained Arahantship and dwelling in the bliss of fruition and the bliss of Nibbāna, even though other Arahant Theris had attained extensive wisdom, the state of having great wisdom became manifest for this Theri, due to her having made a special aspiration in that regard.
Tuy nhiên, dù có nhiều Tỳ-khưu-ni A-la-hán khác cũng đạt được trí tuệ rộng lớn, nhưng do có sự tích lũy công đức đặc biệt trong lĩnh vực này, Tỳ-khưu-ni Khēma đã hiển lộ trí tuệ siêu việt.
Tathā hi naṃ bhagavā jetavanamahāvihāre ariyagaṇamajjhe nisinno paṭipāṭiyā bhikkhuniyo ṭhānantare ṭhapento ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvikānaṃ bhikkhunīnaṃ mahāpaññānaṃ yadidaṃ khemā’’ti (a. ni. 1.235-236) mahāpaññatāya aggaṭṭhāne ṭhapesi.
Indeed, the Blessed One, seated in the midst of the noble assembly in the great Jetavana monastery, while successively placing bhikkhunis in positions of distinction, established her in the foremost position for great wisdom, saying: “Bhikkhus, among my female disciples, the bhikkhunis of great wisdom, that is Khema, is the foremost.”
Thật vậy, khi Đức Thế Tôn đang ngự giữa hội chúng Thánh giả tại Đại Tự viện Jetavana, và lần lượt sắp đặt các Tỳ-khưu-ni vào các vị trí đặc biệt, Ngài đã đặt Tỳ-khưu-ni Khēma vào vị trí hàng đầu về đại trí, nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, trong số các Tỳ-khưu-ni đệ tử của Ta, bậc đại trí nhất là Khēma.”
Taṃ ekadivasaṃ aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisinnaṃ māro pāpimā taruṇarūpena upasaṅkamitvā kāmehi palobhento –
One day, while she was dwelling for the day at the foot of a certain tree, Māra the Evil One approached her in the form of a young man, enticing her with sensual pleasures, and uttered this verse:
Một ngày nọ, khi Tỳ-khưu-ni Khēma đang ngồi thiền ban ngày dưới gốc cây, Māra độc ác đã hiện ra dưới hình dạng một thanh niên và dụ dỗ bà bằng những lời lẽ dục vọng—
Tassattho – kheme, tvaṃ taruṇappattā, yobbane ṭhitā rūpasampannā, ahampi taruṇo yuvā, tasmā mayaṃ yobbaññaṃ akhepetvā pañcaṅgikena turiyena vajjamānena ehi kāmakhiḍḍāratiyā ramāma kīḷāmāti.
The meaning of this is: “Khema, you have reached youth, you are in your prime, endowed with beauty. I too am young and youthful. Therefore, come, let us not waste our youth, but let us delight and play with the joy of sensual pleasures, with a five-instrument orchestra playing.”
Ý nghĩa của bài kệ đó là: “Này Khēma, nàng đang ở tuổi thanh xuân, đang ở độ tuổi đẹp nhất, có sắc đẹp tuyệt vời. Ta cũng trẻ và là một thanh niên. Vì vậy, chúng ta đừng để tuổi thanh xuân trôi qua vô ích, hãy đến đây, chúng ta hãy vui hưởng trò chơi dục lạc với âm nhạc ngũ cung đang tấu lên.”
Tattha aggiṃ paricaraṃ vaneti tapovane aggihuttaṃ paricaranto.
Therein, tending fire in the forest means tending the sacred fire in an ascetic grove.
Trong đó, aggiṃ paricaraṃ vane có nghĩa là phụng sự lửa cúng tế trong rừng khổ hạnh.
Yathābhuccamajānantāti pavattiyo yathābhūtaṃ aparijānantā.
Not knowing the truth means not truly knowing the conditions.
Yathābhuccamajānantā có nghĩa là không biết sự thật về các hiện tượng.
Sesamettha heṭṭhā vuttanayattā uttānameva.
The rest here is clear, as it has been explained below.
Phần còn lại ở đây rõ ràng vì đã được giải thích theo cách đã nói ở dưới.
Alaṅkatā suvasanātiādikā sujātāya theriyā gāthā.
The verses of Theri Sujātā begin with Adorned, well-dressed.
Các bài kệ của Tỳ-khưu-ni Sujātā bắt đầu bằng Alaṅkatā suvasanā.
Ayampi purimabuddhesu katādhikārā tattha tattha bhave vivaṭṭūpanissayaṃ kusalaṃ upacinantī anukkamena sambhatavimokkhasambhārā hutvā imasmiṃ buddhuppāde sāketanagare seṭṭhikule nibbattitvā vayappattā mātāpitūhi samānajātikassa seṭṭhiputtassa dinnā hutvā patikulaṃ gatā.
She too, having made special aspirations under previous Buddhas, accumulating wholesome kamma that leads to emancipation in various existences, gradually gathered the requisites for liberation. In this Buddha-era, she was reborn in a merchant family in the city of Sāketa. Having reached maturity, she was given by her parents to a merchant’s son of the same caste and went to her husband’s home.
Vị này cũng đã tích lũy công đức đặc biệt dưới thời các Đức Phật quá khứ, và ở mỗi kiếp sống, bà đã tích lũy những thiện nghiệp làm nền tảng cho sự giải thoát khỏi vòng luân hồi. Dần dần, bà đã hoàn thiện các yếu tố giải thoát, và trong thời Đức Phật hiện tại, bà sinh ra trong một gia đình trưởng giả ở thành phố Sāketa. Khi đến tuổi trưởng thành, bà được cha mẹ gả cho con trai của một trưởng giả cùng đẳng cấp và về nhà chồng.
Tattha tena saddhiṃ sukhasaṃvāsaṃ vasantī ekadivasaṃ uyyānaṃ gantvā nakkhattakīḷaṃ kīḷitvā parijanena saddhiṃ nagaraṃ āgacchantī añjanavane satthāraṃ disvā pasannamānasā upasaṅkamitvā vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
Dwelling there in harmonious companionship with him, one day she went to a park, celebrated a festival, and as she was returning to the city with her retinue, she saw the Teacher in the Añjana Grove. With a gladdened mind, she approached, paid homage, and sat down at one side.
Ở đó, bà sống hạnh phúc với chồng. Một ngày nọ, bà đi đến một khu vườn, vui chơi trong lễ hội, và khi trở về thành phố cùng đoàn tùy tùng, bà nhìn thấy Đức Đạo Sư ở rừng Añjana. Với tâm hoan hỷ, bà đến đảnh lễ và ngồi xuống một bên.
Satthā tassā anupubbiṃ kathaṃ kathetvā kallacittataṃ ñatvā upari sāmukkaṃsikaṃ dhammadesanaṃ pakāsesi.
The Teacher delivered a progressive discourse to her, and knowing her mind to be receptive, he then expounded the special Dhamma teaching.
Đức Đạo Sư đã thuyết giảng cho bà một bài pháp tuần tự. Khi biết tâm bà đã sẵn sàng, Ngài đã thuyết giảng một bài pháp cao siêu đặc biệt.
Sā desanāvasāne attano katādhikāratāya ñāṇassa paripākaṃ gatattā ca, satthu ca desanāvilāsena yathānisinnāva saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā satthāraṃ vanditvā gehaṃ gantvā sāmikañca mātāpitaro ca anujānāpetvā satthuāṇāya bhikkhunupassayaṃ gantvā bhikkhunīnaṃ santike pabbaji.
At the end of the discourse, due to her having made special aspirations and her knowledge having matured, and also due to the Teacher’s eloquent teaching, she attained Arahantship together with the four paṭisambhidās, right there as she sat. She then paid homage to the Teacher, returned home, obtained permission from her husband and parents, and by the Teacher’s command, went to the bhikkhuni monastery and was ordained by the bhikkhunis.
Khi bài pháp kết thúc, do công đức đã tích lũy và trí tuệ đã chín muồi, cũng như nhờ sự khéo léo trong thuyết pháp của Đức Đạo Sư, bà đã đạt được A-la-hán quả cùng với Tứ Vô Ngại Giải ngay tại chỗ. Sau khi đảnh lễ Đức Đạo Sư, bà trở về nhà, xin phép chồng và cha mẹ, rồi theo lời Đức Đạo Sư, bà đến Tăng xá Tỳ-khưu-ni và xuất gia dưới sự hướng dẫn của các Tỳ-khưu-ni.
Pabbajitvā ca attano paṭipattiṃ paccavekkhitvā udānavasena –
After her ordination, reflecting on her practice, she uttered these verses as an exclamation:
Sau khi xuất gia, bà quán chiếu sự thực hành của mình và nói lên những lời cảm hứng—
Tattha alaṅkatāti vibhūsitā.
Therein, alaṅkatā means adorned.
Trong đó, alaṅkatā có nghĩa là được trang hoàng.
Taṃ pana alaṅkatākāraṃ dassetuṃ ‘‘suvasanā mālinī candanokkhitā’’ti vuttaṃ.
To show that state of being adorned, it is said: “suvasanā mālinī candanokkhitā”.
Để chỉ rõ trạng thái được trang hoàng đó, đã nói “suvasanā mālinī candanokkhitā” (mặc y phục đẹp, đeo vòng hoa, thoa dầu đàn hương).
Tattha mālinīti mālādhārinī.
Therein, mālinī means wearing garlands.
Trong đó, mālinī có nghĩa là người đeo vòng hoa.
Candanokkhitāti candanānulittā.
Candanokkhitā means smeared with sandalwood paste.
Candanokkhitā có nghĩa là thoa dầu đàn hương.
Sabbābharaṇasañchannāti hatthūpagādīhi sabbehi ābharaṇehi alaṅkāravasena sañchāditasarīrā.
Sabbābharaṇasañchannā means having her body completely covered with all ornaments such as bracelets, etc., in the manner of adornment.
Sabbābharaṇasañchannā có nghĩa là thân thể được che phủ, trang sức bằng tất cả đồ trang sức như vòng tay và những thứ khác.
Annaṃ pānañca ādāya, khajjaṃ bhojjaṃ anappakanti sāliodanādiannaṃ, ambapānādipānaṃ, piṭṭhakhādanīyādikhajjaṃ, avasiṭṭhaṃ āhārasaṅkhātaṃ bhojjañca pahūtaṃ gahetvā.
Annaṃ pānañca ādāya, khajjaṃ bhojjaṃ anappakaṃ means taking abundant food such as rice-porridge, drinks such as mango juice, edibles such as pastries and snacks, and other kinds of food.
Annaṃ pānañca ādāya, khajjaṃ bhojjaṃ anappakaṃ có nghĩa là mang theo nhiều thức ăn như cơm gạo, đồ uống như nước xoài, đồ ăn vặt như bánh bột, và các loại thức ăn khác.
Uyyānamabhihārayinti nakkhattakīḷāvasena uyyānaṃ upanesiṃ.
Uyyānamabhihārayiṃ means I brought them to the park for a festival celebration.
Uyyānamabhihārayiṃ có nghĩa là tôi đã đưa đến khu vườn để vui chơi trong lễ hội.
Annapānādiṃ tattha ānetvā saha parijanena kīḷantī ramantī paricāresinti adhippāyo.
The intention is that I brought food and drink there, and together with my retinue, I played, enjoyed, and entertained myself.
Ý nghĩa là: mang thức ăn, đồ uống và những thứ khác đến đó, tôi đã vui chơi và giải trí cùng với tùy tùng.