‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, asurā deve abhiyaṃsu.
“Formerly, bhikkhus, the Asuras attacked the devas.
“Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, các Asura đã tấn công chư thiên.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo susīmaṃ* devaputtaṃ āmantesi – ‘ete, tāta susīma, asurā deve abhiyanti.
Then, bhikkhus, Sakka, king of the devas, addressed the devaputta Susīma: ‘Dear Susīma, these Asuras are attacking the devas.
Bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Sakka, vua của chư thiên, đã gọi Thiên tử Susīma và nói: ‘Này con Susīma, các Asura này đang tấn công chư thiên.
Gaccha, tāta susīma, asure paccuyyāhī’ti.
Go, dear Susīma, counter the Asuras.’
Này con Susīma, hãy đi và chống lại các Asura!’
‘Evaṃ bhaddantavā’ti kho, bhikkhave, susīmo devaputto sakkassa devānamindassa paṭissutvā pamādaṃ āpādesi.
‘Yes, Venerable Sir,’ bhikkhus, the devaputta Susīma, having assented to Sakka, king of the devas, fell into negligence.
‘Vâng, bạch đại đức!’ – Này các Tỷ-kheo, Thiên tử Susīma đã vâng lời Sakka, vua của chư thiên, nhưng lại trở nên phóng dật.
Dutiyampi kho, bhikkhave, sakko devānamindo susīmaṃ devaputtaṃ āmantesi…pe… dutiyampi pamādaṃ āpādesi.
A second time, bhikkhus, Sakka, king of the devas, addressed the devaputta Susīma… And a second time he fell into negligence.
Lần thứ hai, này các Tỷ-kheo, Sakka, vua của chư thiên, đã gọi Thiên tử Susīma… (như trên)… lần thứ hai lại trở nên phóng dật.
Tatiyampi kho, bhikkhave, sakko devānamindo susīmaṃ devaputtaṃ āmantesi…pe… tatiyampi pamādaṃ āpādesi.
A third time, bhikkhus, Sakka, king of the devas, addressed the devaputta Susīma… And a third time he fell into negligence.
Lần thứ ba, này các Tỷ-kheo, Sakka, vua của chư thiên, đã gọi Thiên tử Susīma… (như trên)… lần thứ ba lại trở nên phóng dật.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo susīmaṃ devaputtaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Then, bhikkhus, Sakka, king of the devas, addressed the devaputta Susīma with a verse:
Bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Sakka, vua của chư thiên, đã nói với Thiên tử Susīma bằng kệ:
‘‘So hi nāma, bhikkhave, sakko devānamindo sakaṃ puññaphalaṃ upajīvamāno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ issariyādhipaccaṃ rajjaṃ kārento uṭṭhānavīriyassa vaṇṇavādī bhavissati.
“Monks, Sakka, king of the devas, living on the fruit of his own merit, ruling over the sovereignty and lordship of the Tāvatiṃsa devas, will indeed be a commender of energetic endeavor.
“Này các Tỷ-kheo, ngay cả Sakka, vị vua của chư thiên, đang sống nhờ vào quả phước của mình, đang cai trị vương quốc với quyền uy tối thượng của chư thiên Tāvatiṃsa, mà lại tán thán sự tinh tấn nỗ lực.
Idha kho taṃ, bhikkhave, sobhetha, yaṃ tumhe evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajitā samānā uṭṭhaheyyātha ghaṭeyyātha vāyameyyātha appattassa pattiyā, anadhigatassa adhigamāya, asacchikatassa sacchikiriyāyā’’ti.
It would be fitting here, monks, for you, having gone forth in such a well-proclaimed Dhamma and Vinaya, to arise, strive, and endeavor for the attainment of what has not been attained, for the realization of what has not been realized, for the direct experience of what has not been directly experienced.”
Này các Tỷ-kheo, điều đó sẽ là vẻ vang cho các con, khi các con đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo tuyên thuyết như vậy, mà nỗ lực, tinh tấn, cố gắng để đạt được những gì chưa đạt, chứng đắc những gì chưa chứng đắc, thực chứng những gì chưa thực chứng.”
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.
“Formerly, bhikkhus, a battle between devas and asuras was arrayed.
“Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, một trận chiến giữa chư thiên và Asura đã xảy ra.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse āmantesi –
Then, bhikkhus, Sakka, king of the devas, addressed the Tāvatiṃsa devas:
Bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Sakka, vua của chư thiên, đã gọi chư thiên Tāvatiṃsa và nói:
‘Sace, mārisā, devānaṃ saṅgāmagatānaṃ uppajjeyya bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, mameva tasmiṃ samaye dhajaggaṃ ullokeyyātha.
‘If, sirs, when you have gone to battle, fear, terror, or horripilation should arise in you, then at that time, look at my banner top.
‘Này các hiền hữu, nếu khi các chư thiên đang giao chiến mà sinh ra sợ hãi, hoảng loạn, hoặc dựng tóc gáy, thì vào lúc đó, hãy nhìn lên ngọn cờ của ta.
Mamañhi vo dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati’.
For when you look at my banner top, whatever fear, terror, or horripilation you may have, that will vanish.’
Khi các con nhìn lên ngọn cờ của ta, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng loạn, hay dựng tóc gáy nào sẽ biến mất.’
‘No ce me dhajaggaṃ ullokeyyātha, atha pajāpatissa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha.
‘If you do not look at my banner top, then look at the banner top of Pajāpati, the deva-king.
‘Nếu các con không nhìn lên ngọn cờ của ta, thì hãy nhìn lên ngọn cờ của Pajāpati, vua chư thiên.
Pajāpatissa hi vo devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati’.
For when you look at the banner top of Pajāpati, the deva-king, whatever fear, terror, or horripilation you may have, that will vanish.’
Khi các con nhìn lên ngọn cờ của Pajāpati, vua chư thiên, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng loạn, hay dựng tóc gáy nào sẽ biến mất.’
‘No ce pajāpatissa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha, atha varuṇassa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha.
‘If you do not look at the banner top of Pajāpati, the deva-king, then look at the banner top of Varuṇa, the deva-king.
‘Nếu các con không nhìn lên ngọn cờ của Pajāpati, vua chư thiên, thì hãy nhìn lên ngọn cờ của Varuṇa, vua chư thiên.
Varuṇassa hi vo devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati’.
For when you look at the banner top of Varuṇa, the deva-king, whatever fear, terror, or horripilation you may have, that will vanish.’
Khi các con nhìn lên ngọn cờ của Varuṇa, vua chư thiên, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng loạn, hay dựng tóc gáy nào sẽ biến mất.’
‘No ce varuṇassa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha, atha īsānassa devarājassa dhajaggaṃ ullokeyyātha.
‘If you do not look at the banner top of Varuṇa, the deva-king, then look at the banner top of Īsāna, the deva-king.
‘Nếu các con không nhìn lên ngọn cờ của Varuṇa, vua chư thiên, thì hãy nhìn lên ngọn cờ của Īsāna, vua chư thiên.
Īsānassa hi vo devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissatī’’’ti.
For when you look at the banner top of Īsāna, the deva-king, whatever fear, terror, or horripilation you may have, that will vanish.’”
Khi các con nhìn lên ngọn cờ của Īsāna, vua chư thiên, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng loạn, hay dựng tóc gáy nào sẽ biến mất.’”
‘‘Taṃ kho pana, bhikkhave, sakkassa vā devānamindassa dhajaggaṃ ullokayataṃ, pajāpatissa vā devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ, varuṇassa vā devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ, īsānassa vā devarājassa dhajaggaṃ ullokayataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyethāpi nopi pahīyetha* .
“But, bhikkhus, when one looks at the banner top of Sakka, king of the devas, or at the banner top of Pajāpati, the deva-king, or at the banner top of Varuṇa, the deva-king, or at the banner top of Īsāna, the deva-king, whatever fear, terror, or horripilation may arise, it might vanish, or it might not vanish.
“Tuy nhiên, này các Tỷ-kheo, khi nhìn lên ngọn cờ của Sakka, vua của chư thiên, hoặc nhìn lên ngọn cờ của Pajāpati, vua chư thiên, hoặc nhìn lên ngọn cờ của Varuṇa, vua chư thiên, hoặc nhìn lên ngọn cờ của Īsāna, vua chư thiên, thì bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng loạn, hay dựng tóc gáy nào có thể biến mất, hoặc cũng có thể không biến mất.
‘‘Ahañca kho, bhikkhave, evaṃ vadāmi – ‘sace tumhākaṃ, bhikkhave, araññagatānaṃ vā rukkhamūlagatānaṃ vā suññāgāragatānaṃ vā uppajjeyya bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, mameva tasmiṃ samaye anussareyyātha – itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.
“But I, bhikkhus, say this: ‘If, bhikkhus, when you have gone to the forest, or to the foot of a tree, or to an empty dwelling, fear, terror, or horripilation should arise in you, then at that time, recollect me: Indeed, the Bhagavā is Arahant, Perfectly Self-Enlightened, accomplished in knowledge and conduct, the Fortunate One, knower of the world, unsurpassed leader of persons to be tamed, teacher of devas and humans, the Buddha, the Bhagavā.’
“Còn ta, này các Tỷ-kheo, ta nói rằng: ‘Nếu các con, này các Tỷ-kheo, khi ở trong rừng, hoặc ở dưới gốc cây, hoặc ở trong tịnh thất, mà sinh ra sợ hãi, hoảng loạn, hoặc dựng tóc gáy, thì vào lúc đó, hãy niệm tưởng đến ta: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ Minh Hạnh, Thiện Thệ, bậc am hiểu thế gian, Vô Thượng Sĩ điều ngự trượng phu, Bậc Đạo Sư của chư thiên và loài người, bậc Giác Ngộ, bậc Thế Tôn.’
Mamañhi vo, bhikkhave, anussarataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati.
For when you recollect me, bhikkhus, whatever fear, terror, or horripilation you may have, that will vanish.
Khi các con niệm tưởng đến ta, này các Tỷ-kheo, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng loạn, hay dựng tóc gáy nào sẽ biến mất.
‘‘No ce maṃ anussareyyātha, atha dhammaṃ anussareyyātha – ‘svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti.
“If you do not recollect me, then recollect the Dhamma: ‘The Dhamma is well-proclaimed by the Bhagavā, directly visible, immediate, inviting one to come and see, onward-leading, to be personally experienced by the wise.’
“Nếu các con không niệm tưởng đến ta, thì hãy niệm tưởng đến Pháp: ‘Pháp đã được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình chứng ngộ.’
Dhammañhi vo, bhikkhave, anussarataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati.
For when you recollect the Dhamma, bhikkhus, whatever fear, terror, or horripilation you may have, that will vanish.
Khi các con niệm tưởng đến Pháp, này các Tỷ-kheo, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng loạn, hay dựng tóc gáy nào sẽ biến mất.
‘‘No ce dhammaṃ anussareyyātha, atha saṅghaṃ anussareyyātha – ‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ujuppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ñāyappaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho sāmīcippaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa bhagavato sāvakasaṅgho, āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti.
“If you do not recollect the Dhamma, then recollect the Saṅgha: ‘The Saṅgha of the Bhagavā’s disciples is practicing well, the Saṅgha of the Bhagavā’s disciples is practicing directly, the Saṅgha of the Bhagavā’s disciples is practicing insightfully, the Saṅgha of the Bhagavā’s disciples is practicing respectfully; that is, the four pairs of persons, the eight individual types. This Saṅgha of the Bhagavā’s disciples is worthy of offerings, worthy of hospitality, worthy of gifts, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world.’
“Nếu các con không niệm tưởng đến Pháp, thì hãy niệm tưởng đến Tăng: ‘Chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là những bậc hành trì chân chánh, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là những bậc hành trì ngay thẳng, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là những bậc hành trì đúng Pháp, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là những bậc hành trì hòa kính; tức là bốn đôi tám bậc thánh nhân, đó là chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn, đáng được cúng dường, đáng được hiếu kính, đáng được dâng lễ, đáng được chắp tay đảnh lễ, là phước điền vô thượng của thế gian.’
Saṅghañhi vo, bhikkhave, anussarataṃ yaṃ bhavissati bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā, so pahīyissati.
For when you recollect the Saṅgha, bhikkhus, whatever fear, terror, or horripilation you may have, that will vanish.
Khi các con niệm tưởng đến Tăng, này các Tỷ-kheo, bất kỳ nỗi sợ hãi, hoảng loạn, hay dựng tóc gáy nào sẽ biến mất.”
‘‘Taṃ kissa hetu?
"Why is that?
“Vì lý do gì?
Tathāgato hi, bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho vītarāgo vītadoso vītamoho abhīru acchambhī anutrāsī apalāyī’’ti.
For the Tathāgata, bhikkhus, the Arahant, the Perfectly Self-Enlightened One, is free from lust, free from hatred, free from delusion, fearless, intrepid, undaunted, and never flees."
Này các Tỳ-khưu, bởi vì Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đã ly tham, ly sân, ly si, không sợ hãi, không kinh hoàng, không khiếp đảm, không bỏ chạy.”
Idamavoca bhagavā.
This is what the Blessed One said.
Đức Thế Tôn đã nói điều này.
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā –
Having said this, the Fortunate One, the Teacher, further spoke this:
Sau khi nói điều này, bậc Thiện Thệ, vị Đạo Sư, lại nói thêm điều này:
250. Sāvatthinidānaṃ.
250. Occasion at Sāvatthī.
250. Tại Sāvatthī.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.
“Monks, formerly, a battle between devas and asuras was arrayed.
“Này các Tỳ-khưu, một thời xa xưa, một trận chiến giữa chư Thiên và A-tu-la đã diễn ra.
Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo asure āmantesi – ‘sace, mārisā, devānaṃ asurasaṅgāme samupabyūḷhe asurā jineyyuṃ devā parājineyyuṃ* , yena naṃ sakkaṃ devānamindaṃ kaṇṭhapañcamehi bandhanehi bandhitvā mama santike āneyyātha asurapura’nti.
Then, monks, Vepacitti, the lord of asuras, addressed the asuras thus: ‘Friends, if in the battle between devas and asuras, when it is arrayed, the asuras should win and the devas should be defeated, you should bind Sakka, the lord of devas, with five-fold neck-fetters and bring him to me in the city of the asuras.’
Khi ấy, này các Tỳ-khưu, Vepacitti, vua A-tu-la, đã triệu tập các A-tu-la và nói: ‘Này các bạn, nếu trong trận chiến giữa chư Thiên và A-tu-la này, các A-tu-la chiến thắng và chư Thiên bị đánh bại, thì các ngươi hãy trói Sakkā, vua chư Thiên, bằng năm sợi dây trói (gồm cả dây trói cổ) và dẫn đến ta tại thành A-tu-la.’
Sakkopi kho, bhikkhave, devānamindo deve tāvatiṃse āmantesi – ‘sace, mārisā, devānaṃ asurasaṅgāme samupabyūḷhe devā jineyyuṃ asurā parājineyyuṃ, yena naṃ vepacittiṃ asurindaṃ kaṇṭhapañcamehi bandhanehi bandhitvā mama santike āneyyātha sudhammasabha’’’nti.
And Sakka, the lord of devas, monks, addressed the Tāvatiṃsa devas thus: ‘Friends, if in the battle between devas and asuras, when it is arrayed, the devas should win and the asuras should be defeated, you should bind Vepacitti, the lord of asuras, with five-fold neck-fetters and bring him to me in the Sudhammā assembly hall.’”
Này các Tỳ-khưu, Sakkā, vua chư Thiên, cũng đã triệu tập chư Thiên cõi Tāvatiṃsa và nói: ‘Này các bạn, nếu trong trận chiến giữa chư Thiên và A-tu-la này, chư Thiên chiến thắng và các A-tu-la bị đánh bại, thì các ngươi hãy trói Vepacitti, vua A-tu-la, bằng năm sợi dây trói (gồm cả dây trói cổ) và dẫn đến ta tại hội trường Sudhammā.’”
Tasmiṃ kho pana, bhikkhave, saṅgāme devā jiniṃsu, asurā parājiniṃsu* .
In that battle, monks, the devas won, and the asuras were defeated.
Này các Tỳ-khưu, trong trận chiến đó, chư Thiên đã chiến thắng, các A-tu-la đã bị đánh bại.
Atha kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā vepacittiṃ asurindaṃ kaṇṭhapañcamehi bandhanehi bandhitvā sakkassa devānamindassa santike ānesuṃ sudhammasabhaṃ.
Then, monks, the Tāvatiṃsa devas bound Vepacitti, the lord of asuras, with five-fold neck-fetters and brought him to Sakka, the lord of devas, in the Sudhammā assembly hall.
Khi ấy, này các Tỳ-khưu, chư Thiên cõi Tāvatiṃsa đã trói Vepacitti, vua A-tu-la, bằng năm sợi dây trói (gồm cả dây trói cổ) và dẫn đến Sakkā, vua chư Thiên, tại hội trường Sudhammā.
Tatra sudaṃ, bhikkhave, vepacitti asurindo kaṇṭhapañcamehi bandhanehi baddho sakkaṃ devānamindaṃ sudhammasabhaṃ pavisantañca nikkhamantañca asabbhāhi pharusāhi vācāhi akkosati paribhāsati.
There, monks, Vepacitti, the lord of asuras, bound with five-fold neck-fetters, reviled and abused Sakka, the lord of devas, with impolite and harsh words, both when he entered the Sudhammā assembly hall and when he departed.
Tại đó, này các Tỳ-khưu, Vepacitti, vua A-tu-la, bị trói bằng năm sợi dây trói (gồm cả dây trói cổ), đã nguyền rủa và lăng mạ Sakkā, vua chư Thiên, bằng những lời lẽ thô tục và bất nhã, khi ngài vào và ra khỏi hội trường Sudhammā.
Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṃ devānamindaṃ gāthāhi ajjhabhāsi –
Then, monks, Mātali the charioteer addressed Sakka, the lord of devas, with verses:
Khi ấy, này các Tỳ-khưu, Mātali, người đánh xe, đã nói với Sakkā, vua chư Thiên, bằng những câu kệ:
‘‘So hi nāma, bhikkhave, sakko devānamindo sakaṃ puññaphalaṃ upajīvamāno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ issariyādhipaccaṃ rajjaṃ kārento khantisoraccassa vaṇṇavādī bhavissati.
“Monks, it is indeed fitting that Sakka, the lord of devas, living upon the fruit of his own merit, ruling over the sovereignty and dominion of the Tāvatiṃsa devas, should be an advocate of patience and gentleness.
“Này các Tỳ-khưu, Sakkā, vua chư Thiên, sống nhờ vào quả phước của mình, cai trị chư Thiên cõi Tāvatiṃsa, mà vẫn ca ngợi sự nhẫn nhục và hiền hòa.
Idha kho taṃ, bhikkhave, sobhetha yaṃ tumhe evaṃ svākkhāte dhammavinaye pabbajitā samānā khamā ca bhaveyyātha soratā cā’’ti.
Here, monks, it would be fitting for you, having gone forth in such a well-proclaimed Dhamma and Vinaya, to be patient and gentle.”
Ở đây, này các Tỳ-khưu, thật đáng khen ngợi nếu các ngươi, những người đã xuất gia trong Pháp và Luật được thuyết giảng khéo léo như vậy, có thể trở nên nhẫn nhục và hiền hòa.”
251. Sāvatthinidānaṃ.
251. Occasion at Sāvatthī.
251. Tại Sāvatthī.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.
“Monks, formerly, a battle between devas and asuras was arrayed.
“Này các Tỳ-khưu, một thời xa xưa, một trận chiến giữa chư Thiên và A-tu-la đã diễn ra.
Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca – ‘hotu, devānaminda, subhāsitena jayo’ti.
Then, monks, Vepacitti, the lord of asuras, said to Sakka, the lord of devas: ‘Let victory be through well-spoken words, lord of devas!’
Khi ấy, này các Tỳ-khưu, Vepacitti, vua A-tu-la, đã nói với Sakkā, vua chư Thiên: ‘Này vua chư Thiên, xin cho chiến thắng bằng lời nói hay!’
‘Hotu, vepacitti, subhāsitena jayo’ti.
‘Let victory be through well-spoken words, Vepacitti!’
‘Này Vepacitti, xin cho chiến thắng bằng lời nói hay!’
Atha kho, bhikkhave, devā ca asurā ca pārisajje ṭhapesuṃ – ‘ime no subhāsitadubbhāsitaṃ ājānissantī’ti.
Then, monks, the devas and asuras appointed an assembly: ‘These will discern what is well-spoken and what is ill-spoken for us.’”
Khi ấy, này các Tỳ-khưu, chư Thiên và A-tu-la đã chọn các vị giám khảo và nói: ‘Những vị này sẽ biết lời nói nào là hay, lời nói nào là dở của chúng ta.’
Atha kho, bhikkhave, vepacittiṃ asurindo sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca – ‘bhaṇa, devānaminda, gātha’nti.
Then, bhikkhus, Vepacitti the Asura king said to Sakka, king of devas, ‘Recite a verse, king of devas.’
Khi ấy, này các Tỳ-khưu, Vepacitti, vua A-tu-la, đã nói với Sakkā, vua chư Thiên: ‘Này vua chư Thiên, xin hãy nói một câu kệ!’
Evaṃ vutte, bhikkhave, sakko devānamindo vepacitti asurindaṃ etadavoca – ‘tumhe khvettha, vepacitti, pubbadevā.
When this was said, bhikkhus, Sakka, king of devas, said to Vepacitti the Asura king, ‘You, Vepacitti, are the former devas here.
Khi được nói như vậy, này các Tỳ-khưu, Sakkā, vua chư Thiên, đã nói với Vepacitti, vua A-tu-la: ‘Này Vepacitti, các ngươi là chư Thiên đầu tiên ở đây.
Bhaṇa, vepacitti, gātha’nti.
Recite a verse, Vepacitti.’
Này Vepacitti, xin hãy nói một câu kệ!’
Evaṃ vutte, bhikkhave, vepacitti asurindo imaṃ gāthaṃ abhāsi –
When this was said, bhikkhus, Vepacitti the Asura king recited this verse –
Khi được nói như vậy, này các Tỳ-khưu, Vepacitti, vua A-tu-la, đã nói câu kệ này:
‘‘Bhāsitāya kho pana, bhikkhave, vepacittinā asurindena gāthāya asurā anumodiṃsu, devā tuṇhī ahesuṃ.
‘‘When the verse was recited by Vepacitti the Asura king, bhikkhus, the asuras applauded, but the devas remained silent.
Này các Tỳ-khưu, sau khi Vepacitti, vua A-tu-la, nói câu kệ đó, các A-tu-la đã hoan hỷ, còn chư Thiên thì im lặng.
Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca – ‘bhaṇa, devānaminda, gātha’nti.
Then, bhikkhus, Vepacitti the Asura king said to Sakka, king of devas, ‘Recite a verse, king of devas.’
Khi ấy, này các Tỳ-khưu, Vepacitti, vua A-tu-la, đã nói với Sakkā, vua chư Thiên: ‘Này vua chư Thiên, xin hãy nói một câu kệ!’
Evaṃ vutte, bhikkhave, sakko devānamindo imaṃ gāthaṃ abhāsi –
When this was said, bhikkhus, Sakka, king of devas, recited this verse –
Khi được nói như vậy, này các Tỳ-khưu, Sakkā, vua chư Thiên, đã nói câu kệ này:
‘‘Bhāsitāya kho pana, bhikkhave, sakkena devānamindena gāthāya, devā anumodiṃsu, asurā tuṇhī ahesuṃ.
‘‘When the verse was recited by Sakka, king of devas, bhikkhus, the devas applauded, but the asuras remained silent.
Này các Tỳ-khưu, sau khi Sakkā, vua chư Thiên, nói câu kệ đó, chư Thiên đã hoan hỷ, còn các A-tu-la thì im lặng.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vepacittiṃ asurindaṃ etadavoca – ‘bhaṇa, vepacitti, gātha’nti.
Then, bhikkhus, Sakka, king of devas, said to Vepacitti the Asura king, ‘Recite a verse, Vepacitti.’
Khi ấy, này các Tỳ-khưu, Sakkā, vua chư Thiên, đã nói với Vepacitti, vua A-tu-la: ‘Này Vepacitti, xin hãy nói một câu kệ!’
Evaṃ vutte, bhikkhave, vepacitti asurindo imaṃ gāthaṃ abhāsi –
When this was said, bhikkhus, Vepacitti the Asura king recited this verse –
Khi được nói như vậy, này các Tỳ-khưu, Vepacitti, vua A-tu-la, đã nói câu kệ này:
‘‘Bhāsitāya kho pana, bhikkhave, vepacittinā asurindena gāthāya asurā anumodiṃsu, devā tuṇhī ahesuṃ.
‘‘When the verse was recited by Vepacitti the Asura king, bhikkhus, the asuras applauded, but the devas remained silent.
Này các Tỳ-khưu, sau khi Vepacitti, vua A-tu-la, nói câu kệ đó, các A-tu-la đã hoan hỷ, còn chư Thiên thì im lặng.
Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca – ‘bhaṇa, devānaminda, gātha’nti.
Then, bhikkhus, Vepacitti the Asura king said to Sakka, king of devas, ‘Recite a verse, king of devas.’
Khi ấy, này các Tỳ-khưu, Vepacitti, vua A-tu-la, đã nói với Sakkā, vua chư Thiên: ‘Này vua chư Thiên, xin hãy nói một câu kệ!’
Evaṃ vutte, bhikkhave, sakko devānamindo imā gāthāyo abhāsi –
When this was said, bhikkhus, Sakka, king of devas, recited these verses –
Khi được nói như vậy, này các Tỳ-khưu, Sakkā, vua chư Thiên, đã nói những câu kệ này:
‘‘Bhāsitāsu kho pana, bhikkhave, sakkena devānamindena gāthāsu, devā anumodiṃsu, asurā tuṇhī ahesuṃ.
"When these verses were spoken by Sakka, king of devas, bhikkhus, the devas rejoiced, and the asuras remained silent.
"Này các Tỳ-khưu, khi Thiên chủ Sakka đã nói những bài kệ này, các vị chư thiên hoan hỷ, còn các vị A-tu-la thì im lặng.
Atha kho, bhikkhave, devānañca asurānañca pārisajjā etadavocuṃ – ‘bhāsitā kho vepacittinā asurindena gāthāyo.
Then, bhikkhus, the members of the assembly of devas and asuras said this: 'The verses spoken by Vepacitti, king of asuras,
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, các vị hội đồng của chư thiên và A-tu-la đã nói điều này: 'Những bài kệ đã được A-tu-la chủ Vepacitti nói ra.
Tā ca kho sadaṇḍāvacarā sasatthāvacarā, iti bhaṇḍanaṃ iti viggaho iti kalaho.
are accompanied by rod and weapon, thus leading to quarrels, strife, and contention.
Những bài kệ ấy là những lời nói có gậy, có vũ khí, do đó là cãi cọ, là tranh chấp, là xung đột.
Bhāsitā kho* sakkena devānamindena gāthāyo.
The verses spoken by Sakka, king of devas,
Những bài kệ đã được Thiên chủ Sakka nói ra.
Tā ca kho adaṇḍāvacarā asatthāvacarā, iti abhaṇḍanaṃ iti aviggaho iti akalaho.
are not accompanied by rod or weapon, thus leading to no quarrels, no strife, and no contention.
Những bài kệ ấy là những lời nói không gậy, không vũ khí, do đó là không cãi cọ, không tranh chấp, không xung đột.
Sakkassa devānamindassa subhāsitena jayo’ti.
Victory belongs to Sakka, king of devas, because of his well-spoken words.'
Chiến thắng thuộc về lời nói thiện xảo của Thiên chủ Sakka.'
Iti kho, bhikkhave sakkassa devānamindassa subhāsitena jayo ahosī’’ti.
Thus, bhikkhus, victory belonged to Sakka, king of devas, because of his well-spoken words."
Này các Tỳ-khưu, như vậy, chiến thắng đã thuộc về lời nói thiện xảo của Thiên chủ Sakka."
252. Sāvatthiyaṃ.
At Sāvatthī.
252. Tại Sāvatthī.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.
"On one occasion, bhikkhus, a battle between devas and asuras was arrayed.
"Này các Tỳ-khưu, thuở xưa, một trận chiến giữa chư thiên và A-tu-la đã được dàn trận.
Tasmiṃ kho pana, bhikkhave, saṅgāme asurā jiniṃsu, devā parājiniṃsu.
In that battle, bhikkhus, the asuras won, and the devas were defeated.
Này các Tỳ-khưu, trong trận chiến đó, các A-tu-la đã thắng, các chư thiên đã bại trận.
Parājitā ca kho, bhikkhave, devā apāyaṃsveva uttarenamukhā, abhiyaṃsveva ne asurā.
Having been defeated, bhikkhus, the devas fled facing north, and the asuras pursued them.
Này các Tỳ-khưu, các chư thiên bị đánh bại đã tháo chạy về phía Bắc, còn các A-tu-la thì truy đuổi họ.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo mātali saṅgāhakaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Then, bhikkhus, Sakka, king of devas, addressed Mātali the charioteer with a verse:
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, Thiên chủ Sakka đã nói bài kệ này với người đánh xe Mātali:
‘‘‘Evaṃ bhaddantavā’ti kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkassa devānamindassa paṭissutvā sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ paccudāvattesi.
"Having assented to Sakka, king of devas, saying, 'Yes, Venerable One,' bhikkhus, Mātali the charioteer turned back the chariot yoked with a thousand steeds.
"Này các Tỳ-khưu, người đánh xe Mātali đã đáp lời Thiên chủ Sakka: 'Vâng, thưa Ngài!' và quay đầu cỗ xe ngàn ngựa ājañña.
Atha kho, bhikkhave, asurānaṃ etadahosi – ‘paccudāvatto kho dāni sakkassa devānamindassa sahassayutto ājaññaratho.
Then, bhikkhus, it occurred to the asuras: 'Now the thousand-steed chariot of Sakka, king of devas, has turned back.
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, các A-tu-la đã nghĩ: 'Cỗ xe ngàn ngựa ājañña của Thiên chủ Sakka đã quay đầu.
Dutiyampi kho devā asurehi saṅgāmessantīti bhītā asurapurameva pāvisiṃsu.
The devas will surely fight the asuras again,' Frightened, they entered Asura City.
Chư thiên sẽ lại chiến đấu với các A-tu-la lần thứ hai.' Vì sợ hãi, họ đã chạy vào thành A-tu-la.
Iti kho, bhikkhave, sakkassa devānamindassa dhammena jayo ahosī’’’ti.
Thus, bhikkhus, Sakka, king of devas, achieved victory righteously."
Này các Tỳ-khưu, như vậy, Thiên chủ Sakka đã chiến thắng một cách hợp Pháp."
253. Sāvatthiyaṃ.
At Sāvatthī.
253. Tại Sāvatthī.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakkassa devānamindassa rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi – ‘yopi me assa supaccatthiko tassapāhaṃ na dubbheyya’nti.
"On one occasion, bhikkhus, Sakka, king of devas, while alone and secluded, had this thought arise in his mind: 'Even if I had a bitter enemy, I would not injure him.'
"Này các Tỳ-khưu, thuở xưa, khi Thiên chủ Sakka đang ở một mình, nhập định, một ý nghĩ đã khởi lên trong tâm ngài: 'Dù cho kẻ thù tồi tệ nhất của ta có là ai đi nữa, ta cũng sẽ không làm hại hắn.'
Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkassa devānamindassa cetasā cetoparivitakkamaññāya yena sakko devānamindo tenupasaṅkami.
Then, bhikkhus, Vepacitti, king of asuras, knowing Sakka, king of devas' thought with his own mind, approached Sakka, king of devas.
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, A-tu-la chủ Vepacitti đã biết được ý nghĩ trong tâm của Thiên chủ Sakka bằng tâm của mình, và đã đến gặp Thiên chủ Sakka.
Addasā kho, bhikkhave, sakko devānamindo vepacittiṃ asurindaṃ dūratova āgacchantaṃ.
Sakka, king of devas, bhikkhus, saw Vepacitti, king of asuras, approaching from afar.
Này các Tỳ-khưu, Thiên chủ Sakka đã nhìn thấy A-tu-la chủ Vepacitti đang đến từ xa.
Disvāna vepacittiṃ asurindaṃ etadavoca – ‘tiṭṭha, vepacitti, gahitosī’’’ti.
Having seen Vepacitti, king of asuras, he said to him: 'Stop, Vepacitti! You are caught!'"
Khi nhìn thấy A-tu-la chủ Vepacitti, ngài nói: 'Đứng lại, Vepacitti, ngươi đã bị bắt rồi!'"
254. Sāvatthiyaṃ jetavane.
At Sāvatthī, in Jeta's Grove.
254. Tại Sāvatthī, trong Jetavana.
Tena kho pana samayena bhagavā divāvihāragato hoti paṭisallīno.
At that time, the Blessed One was staying in seclusion during the day.
Bấy giờ, Thế Tôn đang ở trong trú xứ ban ngày, nhập định.
Atha kho sakko ca devānamindo verocano ca asurindo yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā paccekaṃ dvārabāhaṃ nissāya aṭṭhaṃsu.
Then Sakka, king of devas, and Verocana, king of asuras, approached the Blessed One; having approached, they each stood leaning against a doorpost.
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, Thiên chủ Sakka và A-tu-la chủ Verocana đã đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, họ đứng tựa vào mỗi bên trụ cửa.
Atha kho verocano asurindo bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi –
Then Verocana, king of asuras, spoke this verse in the presence of the Blessed One:
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, A-tu-la chủ Verocana đã nói bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
255. Sāvatthiyaṃ.
At Sāvatthī.
255. Tại Sāvatthī.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sambahulā isayo sīlavanto kalyāṇadhammā araññāyatane paṇṇakuṭīsu sammanti.
"On one occasion, bhikkhus, many virtuous hermits of good character dwelt in leaf-huts in a wilderness abode.
"Này các Tỳ-khưu, thuở xưa, nhiều đạo sĩ có giới hạnh, có Pháp lành, sống an tịnh trong các túp lều lá ở khu rừng.
Atha kho, bhikkhave, sakko ca devānamindo vepacitti ca asurindo yena te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā tenupasaṅkamiṃsu.
Then, bhikkhus, Sakka, king of devas, and Vepacitti, king of asuras, approached those virtuous hermits of good character.
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, Thiên chủ Sakka và A-tu-la chủ Vepacitti đã đến chỗ các đạo sĩ có giới hạnh, có Pháp lành ấy.
Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo paṭaliyo* upāhanā ārohitvā khaggaṃ olaggetvā chattena dhāriyamānena aggadvārena assamaṃ pavisitvā te isayo sīlavante kalyāṇadhamme apabyāmato karitvā atikkami.
Then, bhikkhus, Vepacitti, king of asuras, put on thick sandals, slung a sword, and with an umbrella held over him, entered the hermitage through the main entrance, passed by those virtuous hermits of good character keeping them to his left, and went on.
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, A-tu-la chủ Vepacitti đã mang giày dép nhiều lớp, đeo kiếm, được che dù, đi vào am thất bằng cửa chính, và đi ngang qua các đạo sĩ có giới hạnh, có Pháp lành ấy mà không bày tỏ sự tôn kính.
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo paṭaliyo upāhanā orohitvā khaggaṃ aññesaṃ datvā chattaṃ apanāmetvā dvāreneva assamaṃ pavisitvā te isayo sīlavante kalyāṇadhamme anuvātaṃ pañjaliko namassamāno aṭṭhāsi’’.
Then, bhikkhus, Sakka, king of devas, took off his thick sandals, handed his sword to others, removed his umbrella, and entering the hermitage through the entrance, stood respectfully bowing to those virtuous hermits of good character, facing downwind, with his hands clasped in salutation."
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, Thiên chủ Sakka đã cởi giày dép nhiều lớp, giao kiếm cho người khác, bỏ dù xuống, đi vào am thất bằng cửa chính, và đứng chắp tay đảnh lễ các đạo sĩ có giới hạnh, có Pháp lành ấy theo chiều gió."
Atha kho, bhikkhave, te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsiṃsu –
Then, bhikkhus, those virtuous hermits of good character addressed Sakka, king of devas, with a verse:
Này các Tỳ-khưu, bấy giờ, các đạo sĩ có giới hạnh, có Pháp lành ấy đã nói bài kệ này với Thiên chủ Sakka:
256. Sāvatthiyaṃ.
At Sāvatthī.
256. Tại Sāvatthī.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sambahulā isayo sīlavanto kalyāṇadhammā samuddatīre paṇṇakuṭīsu sammanti.
‘‘Formerly, monks, many hermits, virtuous and of good conduct, dwelt peacefully in leaf-huts on the seashore.
Này các Tỳ-khưu, thuở xưa, nhiều vị đạo sĩ có giới hạnh, có pháp lành sống an tịnh trong các túp lều lá bên bờ biển.
Tena kho pana samayena devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.
Now at that time, a battle between devas and asuras had arisen.
Vào lúc bấy giờ, một cuộc chiến giữa chư thiên và A-tu-la đã diễn ra.
Atha kho, bhikkhave, tesaṃ isīnaṃ sīlavantānaṃ kalyāṇadhammānaṃ etadahosi – ‘dhammikā kho devā, adhammikā asurā.
Then, monks, it occurred to those hermits, virtuous and of good conduct: ‘The devas are righteous, the asuras are unrighteous.
Rồi này các Tỳ-khưu, các vị đạo sĩ có giới hạnh, có pháp lành ấy nghĩ rằng: ‘Chư thiên là những bậc giữ Pháp, còn A-tu-la là những kẻ không giữ Pháp.
Siyāpi no asurato bhayaṃ.
There might also be danger for us from the asuras.
Có thể chúng ta sẽ gặp nguy hiểm từ phía A-tu-la.
Yaṃnūna mayaṃ sambaraṃ asurindaṃ upasaṅkamitvā abhayadakkhiṇaṃ yāceyyāmā’’’ti.
Why don't we approach Sambara, the lord of asuras, and ask for the gift of safety?’’’
Vậy chúng ta hãy đến gặp vua A-tu-la Sambara và cầu xin sự bảo hộ’.
‘‘Atha kho, bhikkhave, te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā – seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya evameva – samuddatīre paṇṇakuṭīsu antarahitā sambarassa asurindassa sammukhe pāturahesuṃ.
‘‘Then, monks, those hermits, virtuous and of good conduct – just as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm – disappeared from their leaf-huts on the seashore and appeared before Sambara, the lord of asuras.
Rồi này các Tỳ-khưu, các vị đạo sĩ có giới hạnh, có pháp lành ấy – ví như một người mạnh mẽ co cánh tay đã duỗi ra, hoặc duỗi cánh tay đã co lại – đã biến mất khỏi các túp lều lá bên bờ biển và xuất hiện trước mặt vua A-tu-la Sambara.
Atha kho, bhikkhave, te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā sambaraṃ asurindaṃ gāthāya ajjhabhāsiṃsu –
Then, monks, those hermits, virtuous and of good conduct, addressed Sambara, the lord of asuras, with a verse –
Rồi này các Tỳ-khưu, các vị đạo sĩ có giới hạnh, có pháp lành ấy đã nói với vua A-tu-la Sambara bằng bài kệ:
‘‘Atha kho, bhikkhave, te isayo sīlavanto kalyāṇadhammā sambaraṃ asurindaṃ abhisapitvā – seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya evameva – sambarassa asurindassa sammukhe antarahitā samuddatīre paṇṇakuṭīsu pāturahesuṃ.
‘‘Then, monks, those hermits, virtuous and of good conduct, having cursed Sambara, the lord of asuras – just as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm – disappeared from before Sambara, the lord of asuras, and appeared in their leaf-huts on the seashore.
Này con, hạt giống của ngươi đã được gieo, ngươi sẽ gặt hái quả báo.”
Atha kho, bhikkhave, sambaro asurindo tehi isīhi sīlavantehi kalyāṇadhammehi abhisapito rattiyā sudaṃ tikkhattuṃ ubbijjī’’ti.
Then, monks, Sambara, the lord of asuras, having been cursed by those hermits, virtuous and of good conduct, indeed trembled three times during the night.’’
Rồi này các Tỳ-khưu, các vị đạo sĩ có giới hạnh, có pháp lành ấy, sau khi nguyền rủa vua A-tu-la Sambara – ví như một người mạnh mẽ co cánh tay đã duỗi ra, hoặc duỗi cánh tay đã co lại – đã biến mất trước mặt vua A-tu-la Sambara và xuất hiện trong các túp lều lá bên bờ biển. Rồi này các Tỳ-khưu, vua A-tu-la Sambara, sau khi bị các vị đạo sĩ có giới hạnh, có pháp lành ấy nguyền rủa, đã ba lần kinh hoàng trong đêm.
257. Sāvatthiyaṃ.
257. At Sāvatthī.
Tại Sāvatthī.
‘‘Sakkassa, bhikkhave, devānamindassa pubbe manussabhūtassa satta vatapadāni* samattāni samādinnāni ahesuṃ, yesaṃ samādinnattā sakko sakkattaṃ ajjhagā.
‘‘Monks, when Sakka, the lord of devas, was formerly a human being, he undertook and perfectly observed seven vows, by the perfect observation of which Sakka attained the state of Sakka.
“Này các Tỳ-khưu, khi Thiên chủ Sakka còn là người, Ngài đã hoàn thành và thọ trì bảy giới hạnh, nhờ thọ trì những giới hạnh ấy mà Ngài đạt được địa vị Sakka.
Katamāni satta vatapadāni?
Which are these seven vows?
Bảy giới hạnh ấy là gì?
Yāvajīvaṃ mātāpettibharo assaṃ, yāvajīvaṃ kule jeṭṭhāpacāyī assaṃ, yāvajīvaṃ saṇhavāco assaṃ, yāvajīvaṃ apisuṇavāco assaṃ, yāvajīvaṃ vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ ajjhāvaseyyaṃ muttacāgo payatapāṇi vossaggarato yācayogo dānasaṃvibhāgarato, yāvajīvaṃ saccavāco assaṃ, yāvajīvaṃ akkodhano assaṃ – sacepi me kodho uppajjeyya, khippameva naṃ paṭivineyya’’nti.
‘As long as I live, may I be a supporter of my parents; as long as I live, may I revere the elders in the family; as long as I live, may I be of gentle speech; as long as I live, may I be free from backbiting; as long as I live, may I dwell in a home with a mind free from the stain of stinginess, open-handed, pure-handed, delighting in relinquishment, amenable to requests, delighting in the distribution of gifts; as long as I live, may I be truthful; as long as I live, may I be free from anger – if anger should arise in me, may I quickly suppress it.’’’
‘Suốt đời tôi sẽ nuôi dưỡng cha mẹ; suốt đời tôi sẽ tôn kính những bậc trưởng thượng trong gia đình; suốt đời tôi sẽ nói lời dịu dàng; suốt đời tôi sẽ không nói lời đâm thọc; suốt đời tôi sẽ sống trong gia đình với tâm không còn cấu uế của sự xan tham, là người có sự bố thí rộng lượng, tay trong sạch, thích sự từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng lời cầu xin, thích chia sẻ vật thí; suốt đời tôi sẽ nói lời chân thật; suốt đời tôi sẽ không giận dữ – nếu cơn giận khởi lên, tôi sẽ nhanh chóng chế ngự nó’.
‘‘Sakkassa, bhikkhave, devānamindassa pubbe manussabhūtassa imāni satta vatapadāni samattāni samādinnāni ahesuṃ, yesaṃ samādinnattā sakko sakkattaṃ ajjhagā’’ti.
‘‘Monks, when Sakka, the lord of devas, was formerly a human being, these seven vows were undertaken and perfectly observed by him, by the perfect observation of which Sakka attained the state of Sakka.’’
Này các Tỳ-khưu, khi Thiên chủ Sakka còn là người, Ngài đã hoàn thành và thọ trì bảy giới hạnh này, nhờ thọ trì những giới hạnh ấy mà Ngài đạt được địa vị Sakka.”
258. Sāvatthiyaṃ jetavane.
258. At Sāvatthī in Jetavana.
2. Kinh Sakkanāma
Tatra kho bhagavā bhikkhū etadavoca – ‘‘sakko, bhikkhave, devānamindo pubbe manussabhūto samāno magho nāma māṇavo ahosi, tasmā maghavāti vuccati.
There the Blessed One addressed the bhikkhus thus: ‘‘Monks, when Sakka, the lord of devas, was formerly a human being, he was a young man named Magha, therefore he is called Maghavā.
Tại Sāvatthī, trong Jetavana. Ở đó, Thế Tôn nói với các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu, Thiên chủ Sakka, khi còn là người, tên là Magha, vì thế được gọi là Maghavā.
‘‘Sakkassa, bhikkhave devānamindassa pubbe manussabhūtassa satta vatapadāni samattāni samādinnāni ahesuṃ, yesaṃ samādinnattā sakko sakkattaṃ ajjhagā.
‘‘Monks, when Sakka, the lord of devas, was formerly a human being, he undertook and perfectly observed seven vows, by the perfect observation of which Sakka attained the state of Sakka.
Này các Tỳ-khưu, khi Thiên chủ Sakka còn là người, Ngài đã hoàn thành và thọ trì bảy giới hạnh, nhờ thọ trì những giới hạnh ấy mà Ngài đạt được địa vị Sakka.
Katamāni satta vatapadāni?
Which are these seven vows?
Bảy giới hạnh ấy là gì?
Yāvajīvaṃ mātāpettibharo assaṃ, yāvajīvaṃ kule jeṭṭhāpacāyī assaṃ, yāvajīvaṃ saṇhavāco assaṃ, yāvajīvaṃ apisuṇavāco assaṃ, yāvajīvaṃ vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ ajjhāvaseyyaṃ muttacāgo payatapāṇi vossaggarato yācayogo dānasaṃvibhāgarato, yāvajīvaṃ saccavāco assaṃ, yāvajīvaṃ akkodhano assaṃ – sacepi me kodho uppajjeyya, khippameva naṃ paṭivineyya’’nti.
‘As long as I live, may I be a supporter of my parents; as long as I live, may I revere the elders in the family; as long as I live, may I be of gentle speech; as long as I live, may I be free from backbiting; as long as I live, may I dwell in a home with a mind free from the stain of stinginess, open-handed, pure-handed, delighting in relinquishment, amenable to requests, delighting in the distribution of gifts; as long as I live, may I be truthful; as long as I live, may I be free from anger – if anger should arise in me, may I quickly suppress it.’’’
‘Suốt đời tôi sẽ nuôi dưỡng cha mẹ; suốt đời tôi sẽ tôn kính những bậc trưởng thượng trong gia đình; suốt đời tôi sẽ nói lời dịu dàng; suốt đời tôi sẽ không nói lời đâm thọc; suốt đời tôi sẽ sống trong gia đình với tâm không còn cấu uế của sự xan tham, là người có sự bố thí rộng lượng, tay trong sạch, thích sự từ bỏ, sẵn sàng đáp ứng lời cầu xin, thích chia sẻ vật thí; suốt đời tôi sẽ nói lời chân thật; suốt đời tôi sẽ không giận dữ – nếu cơn giận khởi lên, tôi sẽ nhanh chóng chế ngự nó’.
‘‘Sakkassa, bhikkhave, devānamindassa pubbe manussabhūtassa imāni satta vatapadāni samattāni samādinnāni ahesuṃ, yesaṃ samādinnattā sakko sakkattaṃ ajjhagā’’ti.
‘‘Monks, when Sakka, the lord of devas, was formerly a human being, these seven vows were undertaken and perfectly observed by him, by the perfect observation of which Sakka attained the state of Sakka.’’
Này các Tỳ-khưu, khi Thiên chủ Sakka còn là người, Ngài đã hoàn thành và thọ trì bảy giới hạnh này, nhờ thọ trì những giới hạnh ấy mà Ngài đạt được địa vị Sakka.”
259. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ.
259. Thus have I heard: On one occasion the Blessed One was dwelling in Vesālī, in the Mahāvana, in the Gabled Hall.
3. Kinh Mahāli
Atha kho mahāli licchavī yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then the Licchavi Mahāli approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
Tôi nghe như vầy: Một thời, Thế Tôn trú tại Vesālī, trong Đại Lâm, tại giảng đường có nóc nhọn. Rồi Mahāli Licchavī đến chỗ Thế Tôn; sau khi đảnh lễ Thế Tôn, ông ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho mahāli licchavī bhagavantaṃ etadavoca –
Seated to one side, the Licchavi Mahāli said to the Blessed One –
Ngồi xuống một bên, Mahāli Licchavī bạch Thế Tôn:
‘‘Sakkassa, mahāli, devānamindassa pubbe manussabhūtassa satta vatapadāni samattāni samādinnāni ahesuṃ, yesaṃ samādinnattā sakko sakkattaṃ ajjhagā.
‘‘In the past, when Sakka, king of devas, Mahāli, was a human, he had undertaken seven vows completely, by the undertaking of which Sakka attained the state of Sakka.
“Này Mahāli, khi Sakka, vua của chư thiên, trước đây là người, đã trọn vẹn thọ trì bảy điều thệ nguyện, nhờ sự thọ trì ấy mà Sakka đã đạt được địa vị Sakka.
Katamāni satta vatapadāni?
What were these seven vows?
Bảy điều thệ nguyện ấy là gì?
Yāvajīvaṃ mātāpettibharo assaṃ, yāvajīvaṃ kule jeṭṭhāpacāyī assaṃ, yāvajīvaṃ saṇhavāco assaṃ, yāvajīvaṃ apisuṇavāco assaṃ, yāvajīvaṃ vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ ajjhāvaseyyaṃ muttacāgo payatapāṇi vossaggarato yācayogo dānasaṃvibhāgarato, yāvajīvaṃ saccavāco assaṃ, yāvajīvaṃ akkodhano assaṃ – sacepi me kodho uppajeyya, khippameva naṃ paṭivineyya’’nti.
‘As long as I live, may I be a supporter of my parents; as long as I live, may I revere the elders in the family; as long as I live, may I be gentle in speech; as long as I live, may I be free from backbiting; as long as I live, may I dwell at home with a mind free from the stain of stinginess, open-handed, pure-handed, delighting in giving, responsive to requests, delighting in the distribution of gifts; as long as I live, may I be truthful in speech; as long as I live, may I be free from anger – if anger should arise in me, may I quickly suppress it.’
Trọn đời con sẽ phụng dưỡng cha mẹ, trọn đời con sẽ kính trọng bậc trưởng thượng trong gia đình, trọn đời con sẽ nói lời hòa nhã, trọn đời con sẽ không nói lời đâm thọc, trọn đời con sẽ sống tại gia với tâm không còn bủn xỉn, xả bỏ rộng rãi, bàn tay sẵn sàng cho đi, vui thích trong sự buông bỏ, sẵn sàng khi được yêu cầu, vui thích trong việc chia sẻ vật thực, trọn đời con sẽ nói lời chân thật, trọn đời con sẽ không sân hận – nếu sân hận có khởi lên nơi con, con sẽ nhanh chóng dẹp bỏ nó.”
‘‘Sakkassa, mahāli, devānamindassa pubbe manussabhūtassa imāni satta vatapadāni samattāni samādinnāni ahesuṃ, yesaṃ samādinnattā sakko sakkattaṃ ajjhagā’’ti.
‘‘These seven vows, Mahāli, were completely undertaken by Sakka, king of devas, when he was a human in the past, by the undertaking of which Sakka attained the state of Sakka.’’
“Này Mahāli, khi Sakka, vua của chư thiên, trước đây là người, đã trọn vẹn thọ trì bảy điều thệ nguyện này, nhờ sự thọ trì ấy mà Sakka đã đạt được địa vị Sakka.”
260. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.
At one time the Blessed One was staying at Rājagaha, in Veḷuvana, the Squirrels' Feeding Ground.
260. Một thời, Thế Tôn trú tại Rājagaha, trong Trúc Lâm, nơi nuôi dưỡng các con sóc.
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti.
There the Blessed One addressed the bhikkhus, saying: "Bhikkhus!"
Tại đó, Thế Tôn gọi các Tỳ khưu: “Này các Tỳ khưu.”
‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
"Venerable Sir," those bhikkhus replied to the Blessed One.
“Bạch Thế Tôn,” các Tỳ khưu ấy vâng đáp Thế Tôn.
Bhagavā etadavoca –
The Blessed One said this:
Thế Tôn nói điều này:
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññataro puriso imasmiṃyeva rājagahe manussadaliddo* ahosi manussakapaṇo manussavarāko.
"Formerly, bhikkhus, a certain man in this very Rājagaha was poor among humans, wretched among humans, miserable among humans.
“Này các Tỳ khưu, thuở xưa, có một người đàn ông ngay tại Rājagaha này là một người nghèo khó, một người bần cùng, một người khốn khổ.
So tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyi, sīlaṃ samādiyi, sutaṃ samādiyi, cāgaṃ samādiyi, paññaṃ samādiyi.
He acquired faith in the Dhamma and Vinaya proclaimed by the Tathāgata, he acquired sīla, he acquired learning, he acquired generosity, he acquired wisdom.
Người ấy đã thọ trì tín, thọ trì giới, thọ trì văn, thọ trì xả, thọ trì tuệ trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết.
So tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyitvā sīlaṃ samādiyitvā sutaṃ samādiyitvā cāgaṃ samādiyitvā paññaṃ samādiyitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajji devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ.
Having acquired faith, sīla, learning, generosity, and wisdom in the Dhamma and Vinaya proclaimed by the Tathāgata, with the breaking up of the body, after death, he reappeared in a good destination, a heavenly world, in the company of the devas of Tāvatiṃsa.
Người ấy, sau khi đã thọ trì tín, thọ trì giới, thọ trì văn, thọ trì xả, thọ trì tuệ trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết, sau khi thân hoại mạng chung, đã sanh vào cõi lành, thiên giới, làm bạn đồng hành với chư thiên Tāvatiṃsa.
So aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā ca.
He outshines other devas in both beauty and glory.
Vị ấy vượt trội hơn các chư thiên khác cả về dung sắc lẫn danh tiếng.
Tatra sudaṃ, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – ‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho!
There, bhikkhus, the devas of Tāvatiṃsa were complaining, grumbling, and finding fault, saying: 'Oh, how wonderful, oh, how amazing!
Này các Tỳ khưu, tại đó, chư thiên Tāvatiṃsa đã phàn nàn, chê bai, chỉ trích rằng: ‘Thật kỳ diệu thay, chư vị! Thật hy hữu thay, chư vị!
Ayañhi devaputto pubbe manussabhūto samāno manussadaliddo ahosi manussakapaṇo manussavarāko; so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapanno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ.
This devaputta, having formerly been a human, was poor among humans, wretched among humans, miserable among humans; yet, with the breaking up of the body, after death, he has reappeared in a good destination, a heavenly world, in the company of the devas of Tāvatiṃsa.
Vị thiên tử này, khi trước là người, là một người nghèo khó, một người bần cùng, một người khốn khổ; sau khi thân hoại mạng chung, đã sanh vào cõi lành, thiên giới, làm bạn đồng hành với chư thiên Tāvatiṃsa.
So aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā cā’’’ti.
He outshines other devas in both beauty and glory.'"
Vị ấy vượt trội hơn các chư thiên khác cả về dung sắc lẫn danh tiếng.’”
‘‘Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse āmantesi – ‘mā kho tumhe, mārisā, etassa devaputtassa ujjhāyittha.
"Then, bhikkhus, Sakka, the king of the devas, addressed the devas of Tāvatiṃsa, saying: 'Do not, sirs, complain about this devaputta.
“Bấy giờ, này các Tỳ khưu, Sakka, vua của chư thiên, gọi các chư thiên Tāvatiṃsa: ‘Này các hiền hữu, chư vị chớ nên phàn nàn về vị thiên tử này.
Eso kho, mārisā, devaputto pubbe manussabhūto samāno tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyi, sīlaṃ samādiyi, sutaṃ samādiyi, cāgaṃ samādiyi, paññaṃ samādiyi.
This devaputta, sirs, having formerly been a human, acquired faith in the Dhamma and Vinaya proclaimed by the Tathāgata, he acquired sīla, he acquired learning, he acquired generosity, he acquired wisdom.
Này các hiền hữu, vị thiên tử này, khi trước là người, đã thọ trì tín, thọ trì giới, thọ trì văn, thọ trì xả, thọ trì tuệ trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết.
So tathāgatappavedite dhammavinaye saddhaṃ samādiyitvā sīlaṃ samādiyitvā sutaṃ samādiyitvā cāgaṃ samādiyitvā paññaṃ samādiyitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapanno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ.
Having acquired faith, sīla, learning, generosity, and wisdom in the Dhamma and Vinaya proclaimed by the Tathāgata, with the breaking up of the body, after death, he has reappeared in a good destination, a heavenly world, in the company of the devas of Tāvatiṃsa.
Người ấy, sau khi đã thọ trì tín, thọ trì giới, thọ trì văn, thọ trì xả, thọ trì tuệ trong Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết, sau khi thân hoại mạng chung, đã sanh vào cõi lành, thiên giới, làm bạn đồng hành với chư thiên Tāvatiṃsa.
So aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā cā’’’ti.
He outshines other devas in both beauty and glory.'"
Vị ấy vượt trội hơn các chư thiên khác cả về dung sắc lẫn danh tiếng.’”
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi –
Then, bhikkhus, Sakka, the king of the devas, conciliating the devas of Tāvatiṃsa, on that occasion uttered these verses:
Bấy giờ, này các Tỳ khưu, Sakka, vua của chư thiên, trong khi khuyên giải các chư thiên Tāvatiṃsa, vào lúc ấy đã nói lên những kệ ngôn này:
261. Sāvatthiyaṃ jetavane.
At Sāvatthī, in Jetavana.
261. Tại Sāvatthī, ở Jetavana.
Atha kho sakko devānamindo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Then Sakka, the king of the devas, approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he stood to one side.
Bấy giờ, Sakka, vua của chư thiên, đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
Ekamantaṃ ṭhito kho sakko devānamindo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bhante, bhūmirāmaṇeyyaka’’nti?
Standing to one side, Sakka, the king of the devas, said to the Blessed One: "What, Venerable Sir, is a delightful place?"
Đứng một bên, Sakka, vua của chư thiên, bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, thế nào là một nơi chốn an lạc?”
262. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.
At one time the Blessed One was staying at Rājagaha, on Gijjhakūṭa Mountain.
262. Một thời, Thế Tôn trú tại Rājagaha, trên núi Gijjhakūṭa.
Atha kho sakko devānamindo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Then Sakka, the king of the devas, approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he stood to one side.
Bấy giờ, Sakka, vua của chư thiên, đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
Ekamantaṃ ṭhito kho sakko devānamindo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Standing to one side, Sakka, the king of the devas, addressed the Blessed One in verse:
Đứng một bên, Sakka, vua của chư thiên, đã bạch Thế Tôn bằng kệ ngôn:
263. Sāvatthiyaṃ jetavane.
At Sāvatthī, in Jeta’s Grove.
263. Tại Sāvatthī, ở Jetavana.
Tena kho pana samayena bhagavā divāvihāragato hoti paṭisallīno.
Now at that time the Blessed One was dwelling in seclusion during the day.
Vào lúc ấy, Thế Tôn đang độc cư, nhập tịnh vào ban ngày.
Atha kho sakko ca devānamindo brahmā ca sahampati yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā paccekaṃ dvārabāhaṃ nissāya aṭṭhaṃsu.
Then Sakka, king of devas, and Brahmā Sahampati approached the Blessed One; having approached, they stood each leaning against a doorpost.
Bấy giờ, Sakka, vua của chư thiên, và Phạm thiên Sahampati đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, mỗi vị đứng tựa vào một bên khung cửa.
Atha kho sakko devānamindo bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi –
Then Sakka, king of devas, uttered this verse in the presence of the Blessed One:
Bấy giờ, Sakka, vua của chư thiên, đã nói lên kệ ngôn này trước sự hiện diện của Thế Tôn:
264. Sāvatthiyaṃ.
At Sāvatthī.
264. Tại Sāvatthī.
Tatra…pe… etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo mātaliṃ saṅgāhakaṃ āmantesi – ‘yojehi, samma mātali, sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ.
There… previously, bhikkhus, Sakka, the king of devas, addressed Mātali the charioteer: ‘Harness, good Mātali, the thousand-yoked noble chariot.
Ở đó…v.v… đã nói như sau: “Này các Tỳ-khưu, thuở xưa, Sakka, Thiên Chủ, đã gọi Mātali, người đánh xe, mà rằng: ‘Này bạn Mātali, hãy thắng cỗ xe chiến mã ngàn ngựa.
Uyyānabhūmiṃ gacchāma subhūmiṃ dassanāyā’ti.
Let us go to the pleasure-ground to see a beautiful region.’
Chúng ta hãy đến khu vườn để chiêm ngưỡng vùng đất tươi đẹp.’
‘Evaṃ bhaddantavā’ti kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkassa devānamindassa paṭissutvā sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ yojetvā sakkassa devānamindassa paṭivedesi – ‘yutto kho te, mārisa, sahassayutto ājaññaratho.
‘Yes, venerable sir,’ bhikkhus, Mātali the charioteer, having assented to Sakka, the king of devas, and having harnessed the thousand-yoked noble chariot, informed Sakka, the king of devas: ‘Your thousand-yoked noble chariot, sir, is harnessed.
‘Thưa vâng, thưa Ngài!’ Này các Tỳ-khưu, Mātali, người đánh xe, đã vâng lời Sakka, Thiên Chủ, thắng cỗ xe chiến mã ngàn ngựa, rồi báo cho Sakka, Thiên Chủ, rằng: ‘Thưa Ngài, cỗ xe chiến mã ngàn ngựa của Ngài đã được thắng rồi.
Yassa dāni kālaṃ maññasī’’’ti.
Now, you may do as you deem fit.’”
Ngài thấy lúc nào thích hợp thì hãy đi.’”
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vejayantapāsādā orohanto añjaliṃ katvā* sudaṃ puthuddisā namassati.
Then, bhikkhus, Sakka, the king of devas, as he was descending from the Vejayanta palace, made an añjali and saluted the various directions.
Rồi, này các Tỳ-khưu, Sakka, Thiên Chủ, khi từ cung điện Vejayanta đi xuống, đã chắp tay đảnh lễ khắp các phương hướng.
Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Then, bhikkhus, Mātali the charioteer addressed Sakka, the king of devas, with a verse—
Rồi, này các Tỳ-khưu, Mātali, người đánh xe, đã nói với Sakka, Thiên Chủ, bằng kệ ngôn:
265. Sāvatthiyaṃ jetavane.
At Sāvatthī in the Jetavana.
265. Tại Sāvatthī, trong Jetavana.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo mātaliṃ saṅgāhakaṃ āmantesi – ‘yojehi, samma mātali, sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ, uyyānabhūmiṃ gacchāma subhūmiṃ dassanāyā’ti.
“Previously, bhikkhus, Sakka, the king of devas, addressed Mātali the charioteer: ‘Harness, good Mātali, the thousand-yoked noble chariot, let us go to the pleasure-ground to see a beautiful region.’
“Này các Tỳ-khưu, thuở xưa, Sakka, Thiên Chủ, đã gọi Mātali, người đánh xe, mà rằng: ‘Này bạn Mātali, hãy thắng cỗ xe chiến mã ngàn ngựa, chúng ta hãy đến khu vườn để chiêm ngưỡng vùng đất tươi đẹp.’
‘Evaṃ bhaddantavā’ti kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkassa devānamindassa paṭissutvā sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ yojetvā sakkassa devānamindassa paṭivedesi – ‘yutto kho te, mārisa, sahassayutto ājaññaratho.
‘Yes, venerable sir,’ bhikkhus, Mātali the charioteer, having assented to Sakka, the king of devas, and having harnessed the thousand-yoked noble chariot, informed Sakka, the king of devas: ‘Your thousand-yoked noble chariot, sir, is harnessed.
‘Thưa vâng, thưa Ngài!’ Này các Tỳ-khưu, Mātali, người đánh xe, đã vâng lời Sakka, Thiên Chủ, thắng cỗ xe chiến mã ngàn ngựa, rồi báo cho Sakka, Thiên Chủ, rằng: ‘Thưa Ngài, cỗ xe chiến mã ngàn ngựa của Ngài đã được thắng rồi.
Yassa dāni kālaṃ maññasī’’’ti.
Now, you may do as you deem fit.’”
Ngài thấy lúc nào thích hợp thì hãy đi.’”
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vejayantapāsādā orohanto añjaliṃ katvā sudaṃ bhagavantaṃ namassati.
Then, bhikkhus, Sakka, the king of devas, as he was descending from the Vejayanta palace, made an añjali and saluted the Blessed One.
Rồi, này các Tỳ-khưu, Sakka, Thiên Chủ, khi từ cung điện Vejayanta đi xuống, đã chắp tay đảnh lễ Thế Tôn.
Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Then, bhikkhus, Mātali the charioteer addressed Sakka, the king of devas, with a verse—
Rồi, này các Tỳ-khưu, Mātali, người đánh xe, đã nói với Sakka, Thiên Chủ, bằng kệ ngôn:
266. Sāvatthiyaṃ jetavane.
At Sāvatthī in the Jetavana.
266. Tại Sāvatthī, trong Jetavana.
Tatra kho…pe… etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo mātaliṃ saṅgāhakaṃ āmantesi – ‘yojehi, samma mātali, sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ, uyyānabhūmiṃ gacchāma subhūmiṃ dassanāyā’ti.
There… previously, bhikkhus, Sakka, the king of devas, addressed Mātali the charioteer: ‘Harness, good Mātali, the thousand-yoked noble chariot, let us go to the pleasure-ground to see a beautiful region.’
Ở đó…v.v… đã nói như sau: “Này các Tỳ-khưu, thuở xưa, Sakka, Thiên Chủ, đã gọi Mātali, người đánh xe, mà rằng: ‘Này bạn Mātali, hãy thắng cỗ xe chiến mã ngàn ngựa, chúng ta hãy đến khu vườn để chiêm ngưỡng vùng đất tươi đẹp.’
‘Evaṃ bhaddantavā’ti kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkassa devānamindassa paṭissutvā, sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ yojetvā sakkassa devānamindassa paṭivedesi – ‘yutto kho te, mārisa, sahassayutto ājaññaratho, yassa dāni kālaṃ maññasī’’’ti.
‘Yes, venerable sir,’ bhikkhus, Mātali the charioteer, having assented to Sakka, the king of devas, and having harnessed the thousand-yoked noble chariot, informed Sakka, the king of devas: ‘Your thousand-yoked noble chariot, sir, is harnessed; now, you may do as you deem fit.’”
‘Thưa vâng, thưa Ngài!’ Này các Tỳ-khưu, Mātali, người đánh xe, đã vâng lời Sakka, Thiên Chủ, thắng cỗ xe chiến mã ngàn ngựa, rồi báo cho Sakka, Thiên Chủ, rằng: ‘Thưa Ngài, cỗ xe chiến mã ngàn ngựa của Ngài đã được thắng rồi, Ngài thấy lúc nào thích hợp thì hãy đi.’”
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo vejayantapāsādā orohanto añjaliṃ katvā sudaṃ bhikkhusaṅghaṃ namassati.
Then, bhikkhus, Sakka, the king of devas, as he was descending from the Vejayanta palace, made an añjali and saluted the Bhikkhu Saṅgha.
Rồi, này các Tỳ-khưu, Sakka, Thiên Chủ, khi từ cung điện Vejayanta đi xuống, đã chắp tay đảnh lễ Tăng đoàn Tỳ-khưu.
Atha kho, bhikkhave, mātali saṅgāhako sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Then, bhikkhus, Mātali the charioteer addressed Sakka, the king of devas, with verses—
Rồi, này các Tỳ-khưu, Mātali, người đánh xe, đã nói với Sakka, Thiên Chủ, bằng kệ ngôn:
267. Sāvatthiyaṃ jetavane.
At Sāvatthī in the Jetavana.
267. Tại Sāvatthī, trong Jetavana.
Atha kho sakko devānamindo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Then Sakka, the king of devas, approached the Blessed One; having approached and saluted the Blessed One, he stood to one side.
Rồi Sakka, Thiên Chủ, đã đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và đứng sang một bên.
Ekamantaṃ ṭhito kho sakko devānamindo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Standing to one side, Sakka, the king of devas, addressed the Blessed One with a verse—
Khi đứng sang một bên, Sakka, Thiên Chủ, đã nói với Thế Tôn bằng kệ ngôn:
268. Sāvatthiyaṃ jetavane.
268. At Sāvatthī, in the Jeta Grove.
268. Tại Sāvatthī, trong Jetavana.
Tatra kho…pe… etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno ahosi.
There, the Blessed One said this: “Bhikkhus, in the past, a certain yakkha, ugly and hunchbacked, was seated on Sakka, king of the devas’ throne.
Tại đó… (phần còn lại)… đã nói như sau: “Này các Tỳ-khưu, thuở xa xưa, có một Dạ-xoa (yakkha) nào đó, xấu xí, lùn tịt, bụng phệ, đang ngồi trên ngai vàng của Sakka, chúa tể các chư thiên.
Tatra sudaṃ, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – ‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata, bho!
There, bhikkhus, the Tāvatiṃsa devas grumbled, complained, and expressed their displeasure, saying: ‘Oh, how amazing, how wonderful!
Này các Tỳ-khưu, tại đó, các chư thiên Tāvatiṃsa đã phàn nàn, đã bực tức, đã cằn nhằn: ‘Ôi chao, thật kỳ lạ! Thật phi thường!
Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno’’’ti!
This yakkha, ugly and hunchbacked, is seated on Sakka, king of the devas’ throne!’
Dạ-xoa xấu xí, lùn tịt, bụng phệ này đang ngồi trên ngai vàng của Sakka, chúa tể các chư thiên!’”
Yathā yathā kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti, tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro ca.
Bhikkhus, the more the Tāvatiṃsa devas grumbled, complained, and expressed their displeasure, the more handsome, delightful, and charming that yakkha became.
Này các Tỳ-khưu, các chư thiên Tāvatiṃsa càng phàn nàn, càng bực tức, càng cằn nhằn bao nhiêu, thì Dạ-xoa đó càng trở nên đẹp đẽ hơn, dễ nhìn hơn, và khả ái hơn bấy nhiêu.
‘‘Atha kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā yena sakko devānamindo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā sakkaṃ devānamindaṃ etadavocuṃ – ‘idha te, mārisa, aññataro yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinno.
“Then, bhikkhus, the Tāvatiṃsa devas approached Sakka, king of the devas; having approached, they said to Sakka, king of the devas: ‘Sir, here a certain yakkha, ugly and hunchbacked, is seated on Sakka, king of the devas’ throne.
“Này các Tỳ-khưu, rồi các chư thiên Tāvatiṃsa đã đến chỗ Sakka, chúa tể các chư thiên; sau khi đến, họ đã nói với Sakka, chúa tể các chư thiên như sau: ‘Thưa Ngài, ở đây có một Dạ-xoa nào đó, xấu xí, lùn tịt, bụng phệ, đang ngồi trên ngai vàng của Sakka, chúa tể các chư thiên.
Tatra sudaṃ, mārisa, devā tāvatiṃsā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti – acchariyaṃ vata, bho, abbhutaṃ vata, bho!
There, sir, the Tāvatiṃsa devas grumble, complain, and express their displeasure: “Oh, how amazing, how wonderful!
Thưa Ngài, tại đó, các chư thiên Tāvatiṃsa đã phàn nàn, đã bực tức, đã cằn nhằn: ‘Ôi chao, thật kỳ lạ! Thật phi thường!
Ayaṃ yakkho dubbaṇṇo okoṭimako sakkassa devānamindassa āsane nisinnoti.
This yakkha, ugly and hunchbacked, is seated on Sakka, king of the devas’ throne.”
Dạ-xoa xấu xí, lùn tịt, bụng phệ này đang ngồi trên ngai vàng của Sakka, chúa tể các chư thiên!’
Yathā yathā kho, mārisa, devā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti, tathā tathā so yakkho abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro cāti.
Sir, the more the devas grumble, complain, and express their displeasure, the more handsome, delightful, and charming that yakkha becomes.’
Thưa Ngài, các chư thiên càng phàn nàn, càng bực tức, càng cằn nhằn bao nhiêu, thì Dạ-xoa đó càng trở nên đẹp đẽ hơn, dễ nhìn hơn, và khả ái hơn bấy nhiêu.’
So hi nūna, mārisa, kodhabhakkho yakkho bhavissatī’’’ti.
‘That yakkha, sir, must be one who feeds on anger.’”
‘Thưa Ngài, chắc hẳn Dạ-xoa đó là một Dạ-xoa sống bằng sự sân hận (kodhabhakka yakkha).’”
‘‘Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo yena so kodhabhakkho yakkho tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā dakkhiṇajāṇumaṇḍalaṃ pathaviyaṃ nihantvā yena so kodhabhakkho yakkho tenañjaliṃ paṇāmetvā tikkhattuṃ nāmaṃ sāveti – ‘sakkohaṃ mārisa, devānamindo, sakkohaṃ, mārisa, devānamindo’ti.
“Then, bhikkhus, Sakka, king of the devas, approached that yakkha who fed on anger; having approached, he arranged his upper robe over one shoulder, knelt on his right knee on the ground, extended his joined hands towards that yakkha who fed on anger, and three times announced his name: ‘Sir, I am Sakka, king of the devas; sir, I am Sakka, king of the devas.’
“Này các Tỳ-khưu, rồi Sakka, chúa tể các chư thiên, đã đến chỗ Dạ-xoa sống bằng sự sân hận đó; sau khi đến, Ngài đã vắt y tăng-già-lê (uttarāsaṅga) qua một bên vai, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng về Dạ-xoa sống bằng sự sân hận đó, và ba lần xướng tên mình: ‘Thưa Ngài, tôi là Sakka, chúa tể các chư thiên; thưa Ngài, tôi là Sakka, chúa tể các chư thiên.’
Yathā yathā kho, bhikkhave, sakko devānamindo nāmaṃ sāvesi, tathā tathā so yakkho dubbaṇṇataro ceva ahosi okoṭimakataro ca.
Bhikkhus, the more Sakka, king of the devas, announced his name, the more ugly and hunchbacked that yakkha became.
Này các Tỳ-khưu, Sakka, chúa tể các chư thiên, càng xướng tên mình bao nhiêu, thì Dạ-xoa đó càng trở nên xấu xí hơn và lùn tịt, bụng phệ hơn bấy nhiêu.
Dubbaṇṇataro ceva hutvā okoṭimakataro ca tatthevantaradhāyī’’ti.
Having become more ugly and hunchbacked, he vanished right there.”
Sau khi trở nên xấu xí hơn và lùn tịt, bụng phệ hơn, nó đã biến mất ngay tại đó.”
Atha kho, bhikkhave, sakko devānamindo sake āsane nisīditvā deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi –
Then, bhikkhus, Sakka, king of the devas, sat on his own throne and, admonishing the Tāvatiṃsa devas, on that occasion uttered these verses:
Này các Tỳ-khưu, rồi Sakka, chúa tể các chư thiên, sau khi ngồi trên ngai vàng của mình, đã an ủi các chư thiên Tāvatiṃsa và vào lúc đó đã nói những bài kệ này:
269. Sāvatthiyaṃ…pe… bhagavā etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, vepacitti asurindo ābādhiko ahosi dukkhito bāḷhagilāno.
269. At Sāvatthī…pe… the Blessed One said this: “Bhikkhus, in the past, Vepacitti, king of the asuras, was sick, suffering, gravely ill.
269. Tại Sāvatthī… (phần còn lại)… Thế Tôn đã nói như sau: “Này các Tỳ-khưu, thuở xa xưa, Asurinda Vepacitti bị bệnh, đau đớn, ốm nặng.
Atha kho bhikkhave, sakko devānamindo yena vepacitti asurindo tenupasaṅkami gilānapucchako.
Then, bhikkhus, Sakka, king of the devas, approached Vepacitti, king of the asuras, to inquire about his health.
Này các Tỳ-khưu, rồi Sakka, chúa tể các chư thiên, đã đến chỗ Asurinda Vepacitti để thăm bệnh.
Addasā kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkaṃ devānamindaṃ dūratova āgacchantaṃ.
Bhikkhus, Vepacitti, king of the asuras, saw Sakka, king of the devas, approaching from afar.
Này các Tỳ-khưu, Asurinda Vepacitti đã nhìn thấy Sakka, chúa tể các chư thiên, đang đến từ xa.
Disvāna sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca – ‘tikiccha maṃ devānamindā’ti.
Having seen him, he said to Sakka, king of the devas: ‘O King of devas, cure me!’
Sau khi nhìn thấy, Ngài đã nói với Sakka, chúa tể các chư thiên: ‘Thưa chúa tể các chư thiên, hãy chữa bệnh cho tôi!’
‘Vācehi maṃ, vepacitti, sambarimāya’nti.
‘Teach me, Vepacitti, the magic of Sambara!’
‘Này Vepacitti, hãy dạy cho ta ảo thuật Sambarī!’
‘Na tāvāhaṃ vācemi, yāvāhaṃ, mārisa, asure paṭipucchāmī’’’ti.
‘I will not teach it yet, sir, until I consult the asuras.’”
‘Thưa Ngài, tôi sẽ không dạy cho đến khi tôi hỏi ý kiến các Asura.’”
‘‘Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo asure paṭipucchi – ‘vācemahaṃ, mārisā, sakkaṃ devānamindaṃ sambarimāya’nti?
“Then, bhikkhus, Vepacitti, king of the asuras, consulted the asuras: ‘Sirs, should I teach Sakka, king of the devas, the magic of Sambara?’
“Này các Tỳ-khưu, rồi Asurinda Vepacitti đã hỏi ý kiến các Asura: ‘Thưa các Ngài, tôi có nên dạy cho Sakka, chúa tể các chư thiên, ảo thuật Sambarī không?’
‘Mā kho tvaṃ, mārisa, vācesi sakkaṃ devānamindaṃ sambarimāya’’’nti.
‘Sir, do not teach Sakka, king of the devas, the magic of Sambara!’”
‘Thưa Ngài, Ngài chớ có dạy cho Sakka, chúa tể các chư thiên, ảo thuật Sambarī!’”
Atha kho, bhikkhave, vepacitti asurindo sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Then, bhikkhus, Vepacitti, king of the asuras, addressed Sakka, king of the devas, with a verse:
Rồi, này các Tỳ-khưu, Asurinda Vepacitti đã nói lên bài kệ với Sakka, chúa tể các chư thiên:
270. Sāvatthiyaṃ…pe… ārāme.
270. At Sāvatthī…pe… in the park.
270. Tại Sāvatthī… (phần còn lại)… trong khu vườn.
Tena kho pana samayena dve bhikkhū sampayojesuṃ.
At that time, two bhikkhus were engaged in an altercation.
Vào lúc đó, có hai Tỳ-khưu đã tranh cãi với nhau.
Tatreko bhikkhu accasarā.
Among them, one bhikkhu spoke harshly.
Một Tỳ-khưu đã lỡ lời với người kia.
Atha kho so bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti; so bhikkhu nappaṭiggaṇhāti.
Then that bhikkhu acknowledged his offense as an offense to the other bhikkhu; but that bhikkhu did not accept it.
Rồi Tỳ-khưu đó đã thú nhận lỗi lầm của mình với Tỳ-khưu kia; nhưng Tỳ-khưu kia không chấp nhận.
Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Then many bhikkhus approached the Blessed One; having approached, they paid homage to the Blessed One and sat down to one side.
Rồi nhiều Tỳ-khưu đã đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, họ đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, dve bhikkhū sampayojesuṃ, tatreko bhikkhu accasarā.
Seated to one side, those bhikkhus said to the Blessed One: “Here, Venerable Sir, two bhikkhus were engaged in an altercation; among them, one bhikkhu spoke harshly.
Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỳ-khưu đó đã nói với Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, ở đây có hai Tỳ-khưu đã tranh cãi với nhau, một Tỳ-khưu đã lỡ lời.
Atha kho so, bhante, bhikkhu tassa bhikkhuno santike accayaṃ accayato deseti, so bhikkhu nappaṭiggaṇhātī’’ti.
Then, Venerable Sir, that bhikkhu acknowledged his offense as an offense to the other bhikkhu, but that bhikkhu did not accept it.”
Rồi, bạch Thế Tôn, Tỳ-khưu đó đã thú nhận lỗi lầm của mình với Tỳ-khưu kia, nhưng Tỳ-khưu kia không chấp nhận.”
‘‘Dveme, bhikkhave, bālā.
“These two, bhikkhus, are fools.
“Này các Tỳ-khưu, có hai kẻ ngu này.
Yo ca accayaṃ accayato na passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ nappaṭiggaṇhā’’ti – ime kho, bhikkhave, dve bālā.
He who does not see an offense as an offense, and he who does not accept an offense from one confessing it in accordance with the Dhamma — these two, bhikkhus, are fools.
Kẻ nào không nhận ra lỗi lầm là lỗi lầm, và kẻ nào không chấp nhận lỗi lầm của người thú nhận theo đúng Pháp – này các Tỳ-khưu, đây là hai kẻ ngu.
‘‘Dveme, bhikkhave, paṇḍitā.
“These two, bhikkhus, are wise.
Này các Tỳ-khưu, có hai bậc hiền trí này.
Yo ca accayaṃ accayato passati, yo ca accayaṃ desentassa yathādhammaṃ paṭiggaṇhā’’ti – ime kho, bhikkhave, dve paṇḍitā.
He who sees an offense as an offense, and he who accepts an offense from one confessing it in accordance with the Dhamma — these two, bhikkhus, are wise.
Kẻ nào nhận ra lỗi lầm là lỗi lầm, và kẻ nào chấp nhận lỗi lầm của người thú nhận theo đúng Pháp – này các Tỳ-khưu, đây là hai bậc hiền trí.”
271. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
271. Thus have I heard: On one occasion the Blessed One was dwelling at Sāvatthī, in Jeta Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.
271. Tôi đã nghe như vầy: Một thời Thế Tôn trú tại Sāvatthī, trong Jetavana, khu vườn của Anāthapiṇḍika.
Tatra kho bhagavā bhikkhū…pe… bhagavā etadavoca – ‘‘bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo sudhammāyaṃ sabhāyaṃ deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –
There the Blessed One addressed the bhikkhus…pe… the Blessed One said this: “Bhikkhus, in the past, Sakka, king of the devas, admonishing the Tāvatiṃsa devas in the Sudhammā assembly hall, on that occasion uttered this verse:
Tại đó, Thế Tôn đã… (phần còn lại)… Thế Tôn đã nói như sau: “Này các Tỳ-khưu, thuở xa xưa, Sakka, chúa tể các chư thiên, đã an ủi các chư thiên Tāvatiṃsa trong hội trường Sudhammā, và vào lúc đó đã nói bài kệ này: