Atīte kira kassapabhagavato parinibbutakāle dve kulabhātaro nikkhamitvā sāvakānaṃ santike pabbajiṃsu.
It is said that in the past, after the Kassapa Buddha had attained parinibbāna, two young men of good family left home and went forth into homelessness under the Buddha's disciples.
Thuở xưa, vào thời Đức Phật Kassapa đã nhập Niết-bàn, hai anh em dòng dõi quý tộc đã xuất gia trở thành Tỳ-kheo dưới sự hướng dẫn của các đệ tử Phật.
Tesu jeṭṭho sāgato nāma ahosi, kaniṭṭho kapilo nāma.
Of these, the elder was named Sāgata, and the younger was named Kapila.
Trong số đó, người anh cả tên là Sāgata, người em út tên là Kapila.
Mātā pana nesaṃ sādhinī nāma, kaniṭṭhabhaginī tāpanā nāma.
Their mother was named Sādhinī, and their younger sister was named Tāpanā.
Mẹ của họ tên là Sādhinī, và em gái út tên là Tāpanā.
Tāpi bhikkhunīsu pabbajiṃsu.
They also went forth among the bhikkhunīs.
Họ cũng xuất gia làm Tỳ-kheo-ni.
Evaṃ tesu pabbajitesu ubho bhātaro ācariyupajjhāyānaṃ vattapaṭivattaṃ katvā viharantā ekadivasaṃ, ‘‘bhante, imasmiṃ sāsane kati dhurānī’’ti pucchitvā ‘‘ganthadhuraṃ vipassanādhurañcāti dve dhurānī’’ti sutvā jeṭṭho ‘‘vipassanādhuraṃ pūressāmī’’ti pañca vassāni ācariyupajjhāyānaṃ santike vasitvā yāva arahattā kammaṭṭhānaṃ gahetvā araññaṃ pavisitvā vāyamanto arahattaṃ pāpuṇi.
Thus, after they had gone forth, both brothers, having performed the duties towards their teachers and preceptors, one day asked, “Venerable sirs, how many burdens are there in this Dispensation?” Having heard, “There are two burdens: the burden of study (ganthadhura) and the burden of insight (vipassanādhura),” the elder thought, “I will fulfill the burden of insight.” He stayed with his teachers and preceptors for five years, then, taking a meditation subject up to Arahantship, he entered the forest and, striving diligently, attained Arahantship.
Sau khi họ xuất gia, hai anh em đã thực hành các phận sự đối với các vị A-xà-lê và Hòa thượng của mình. Một ngày nọ, họ hỏi: "Bạch Đức Thế Tôn, trong Giáo pháp này có bao nhiêu gánh nặng?" Nghe nói có hai gánh nặng là gánh nặng kinh điển (ganthadhura) và gánh nặng thiền quán (vipassanādhura), người anh cả quyết định: "Con sẽ hoàn thành gánh nặng thiền quán." Sau khi sống năm năm với các vị A-xà-lê và Hòa thượng, ông nhận đề mục thiền quán cho đến khi đạt A-la-hán quả, rồi vào rừng tinh tấn tu tập và chứng đắc A-la-hán quả.
Kaniṭṭho ‘‘ahaṃ tāva taruṇo, vuḍḍhakāle vipassanādhuraṃ pūressāmī’’ti ganthadhuraṃ paṭṭhapetvā tīṇi piṭakāni uggaṇhi.
The younger thought, “I am still young; I will fulfill the burden of insight in old age.” He then undertook the burden of study and mastered the three Piṭakas.
Người em út thì nghĩ: "Ta còn trẻ, khi về già ta sẽ hoàn thành gánh nặng thiền quán." Thế là ông bắt đầu gánh nặng kinh điển và học thuộc lòng Tam Tạng.
Tassa pariyattiṃ nissāya mahāparivāro, parivāraṃ nissāya lābho udapādi.
Through his erudition, he acquired a large following, and through his following, he gained much material support.
Nhờ vào sự học hỏi (pariyatti) mà tỳ khưu ấy có một đoàn tùy tùng đông đảo; nhờ có đoàn tùy tùng mà lợi lộc phát sinh.
So bāhusaccamadena matto lābhataṇhāya abhibhūto atipaṇḍitamānitāya parehi vuttaṃ kappiyampi ‘‘akappiya’’nti vadeti, akappiyampi ‘‘kappiya’’nti vadeti, sāvajjampi ‘‘anavajja’’nti, anavajjampi ‘‘sāvajja’’nti.
Intoxicated by the pride of his great learning and overwhelmed by the craving for gain, he, considering himself exceedingly wise, would declare what was allowable to be unallowable, and what was unallowable to be allowable; what was blameworthy to be blameless, and what was blameless to be blameworthy.
Do say sưa vì sự học rộng, bị ái dục về lợi lộc chi phối, và kiêu căng vì tự cho mình là bậc đại trí, nên vị ấy nói điều đáng làm (kappiya) là “không đáng làm” (akappiya), điều không đáng làm là “đáng làm”, điều có lỗi là “không lỗi”, điều không lỗi là “có lỗi”.
So pesalehi bhikkhūhi ‘‘mā, āvuso kapila, evaṃ avacā’’ti vatvā dhammañca vinayañca dassetvā ovadiyamānopi ‘‘tumhe kiṃ jānātha, rittamuṭṭhisadisā’’tiādīni vatvā khuṃsento vambhento carati.
When the virtuous bhikkhus advised him, saying, “Friend Kapila, do not speak thus,” and showed him the Dhamma and Vinaya, he would retort with words like, “What do you know? You are like empty fists!” and would continue to insult and disparage them.
Khi được các tỳ khưu có phẩm hạnh khuyên nhủ: “Này hiền giả Kapila, xin chớ nói như vậy!”, và được chỉ rõ Pháp và Luật, vị ấy vẫn nói những lời như: “Các ông biết gì đâu, giống như nắm tay rỗng tuếch!”, rồi đi khinh miệt và chê bai người khác.
Athassa bhātu sāgatattherassāpi bhikkhū tamatthaṃ ārocesuṃ.
Then the bhikkhus reported the matter to his elder brother, Thera Sāgata.
Sau đó, các tỳ khưu đã báo cáo sự việc này cho Đại Trưởng lão Sāgata, anh trai của vị ấy.
Sopi naṃ upasaṅkamitvā, ‘‘āvuso kapila, tumhādisānañhi sammāpaṭipatti sāsanassa āyu nāma, tasmā paṭipattiṃ pahāya kappiyādīni paṭibāhanto mā evaṃ avacā’’ti ovadi.
He too approached Kapila and advised him, “Friend Kapila, right conduct is indeed the life of the Dispensation for those like you. Therefore, do not abandon right conduct and speak thus, rejecting what is allowable and so on.”
Vị ấy cũng đến gặp Kapila và khuyên nhủ: “Này hiền giả Kapila, đối với những người như hiền giả, sự thực hành chân chánh chính là tuổi thọ của Giáo pháp. Vì vậy, hãy từ bỏ sự thực hành sai lạc, chớ ngăn cản những điều đáng làm (kappiya) và chớ nói như vậy”.
So tassapi vacanaṃ nādiyi.
But Kapila did not heed his words either.
Vị ấy cũng không nghe lời khuyên của Trưởng lão.
Evaṃ santepi thero dvattikkhattuṃ ovaditvā ovādaṃ agaṇhantaṃ ‘‘nāyaṃ mama vacanaṃ karotī’’ti ñatvā ‘‘tena, āvuso, paññāyissasi sakena kammenā’’ti vatvā pakkāmi.
Even so, the elder admonished him two or three times, and realizing that he would not accept the advice, he said, “Then, friend, you will be known by your own deeds,” and departed.
Dù vậy, Trưởng lão đã khuyên nhủ hai ba lần, nhưng khi thấy Kapila không nghe lời khuyên, biết rằng “người này không nghe lời ta”, Trưởng lão nói: “Này hiền giả, ngươi sẽ tự nhận ra hậu quả của nghiệp mình”, rồi bỏ đi.
Tato paṭṭhāya naṃ aññe pesalā bhikkhū chaḍḍayiṃsu.
From that day onwards, other virtuous bhikkhus abandoned him.
Từ đó trở đi, các tỳ khưu có phẩm hạnh khác đã từ bỏ vị ấy.
So durācāro hutvā durācāraparivuto viharanto ekadivasaṃ uposathagge ‘‘pātimokkhaṃ uddisissāmī’’ti bījaniṃ ādāya dhammāsane nisīditvā ‘‘vattati, āvuso, ettha sannipatitānaṃ bhikkhūnaṃ pātimokkha’’nti pucchitvā ‘‘ko attho imassa paṭivacanena dinnenā’’ti tuṇhībhūte bhikkhū disvā, ‘‘āvuso, dhammo vā vinayo vā natthi, pātimokkhena sutena vā asutena vā ko attho’’ti vatvā āsanā vuṭṭhahi.
So, having become of bad conduct and dwelling surrounded by monks of bad conduct, one day in the Uposatha hall, saying, "I will recite the Pātimokkha," he took a fan, sat on the Dhamma seat, and asked, "Friends, is the Pātimokkha recitation proper for the assembled bhikkhus here?" Seeing the bhikkhus remain silent, thinking, "What benefit is there in giving a reply to this Kapilā monk?" he said, "Friends, there is no Dhamma or Vinaya; what benefit is there in hearing or not hearing the Pātimokkha?" and rose from his seat.
Vị ấy trở thành người có ác hạnh, sống cùng với những người có ác hạnh. Một ngày nọ, tại giảng đường Uposatha, vị ấy cầm quạt và ngồi trên pháp tòa, nói: “Tôi sẽ tụng Pātimokkha”. Sau khi hỏi: “Này các hiền giả, Pātimokkha có được tụng cho các tỳ khưu đang tập hợp ở đây không?”, thấy các tỳ khưu im lặng, vị ấy nói: “Này các hiền giả, không có Pháp (Dhamma) hay Luật (Vinaya) gì cả, tụng Pātimokkha hay không tụng thì có ích gì?”, rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Evaṃ so kassapassa bhagavato pariyattisāsanaṃ osakkāpesi.
Thus, he caused the Pariyatti Sāsana of Kassapa the Fortunate One to decline.
Như vậy, vị ấy đã làm suy yếu Giáo pháp (pariyatti-sāsana) của Đức Phật Kassapa.
Sāgatattheropi tadaheva parinibbāyi.
Venerable Sāgata also attained parinibbāna on that very day.
Đại Trưởng lão Sāgata cũng nhập Niết bàn ngay trong ngày đó.
Kapilo āyupariyosāne avīcimhi mahāniraye nibbatti.
Kapilā, at the end of his life, was reborn in the Avīci Great Hell.
Kapila, vào cuối đời, đã tái sinh vào đại địa ngục Avīci.
Sāpissa mātā ca bhaginī ca tasseva diṭṭhānugatiṃ āpajjitvā pesale bhikkhū akkositvā paribhāsitvā tattheva nibbattiṃsu.
His mother and sister, following his example, abused and reviled the virtuous bhikkhus and were reborn there as well.
Mẹ và em gái của vị ấy cũng theo ác kiến của vị ấy, mắng nhiếc và phỉ báng các tỳ khưu có phẩm hạnh, rồi cũng tái sinh vào đó.
Tasmiṃ pana kāle pañcasatā purisā gāmaghātakādīni katvā corikāya jīvantā janapadamanussehi anubaddhā palāyamānā araññaṃ pavisitvā tattha kiñci paṭisaraṇaṃ apassantā aññataraṃ āraññikaṃ bhikkhuṃ disvā vanditvā ‘‘paṭisaraṇaṃ no, bhante, hothā’’ti vadiṃsu.
At that time, five hundred men, having committed acts such as village-raiding and living by theft, were pursued by the people of the countryside. Fleeing, they entered a forest and, finding no refuge there, saw a certain forest-dwelling bhikkhu. They saluted him and said, "Venerable sir, be a refuge for us."
Vào thời điểm đó, có năm trăm người đàn ông sống bằng nghề trộm cắp, đã thực hiện các hành vi như cướp làng. Khi bị người dân truy đuổi, họ bỏ chạy vào rừng. Ở đó, không tìm thấy nơi nương tựa nào, họ thấy một vị tỳ khưu sống trong rừng, liền đảnh lễ và nói: “Bạch Đại đức, xin hãy là nơi nương tựa cho chúng con”.
Thero ‘‘tumhākaṃ sīlasadisaṃ paṭisaraṇaṃ nāma natthi, sabbepi pañcasīlāni samādiyathā’’ti āha.
The Elder said, "There is no refuge like your own sīla; all of you should undertake the Five Precepts."
Trưởng lão nói: “Không có nơi nương tựa nào tốt hơn giới hạnh của các ông. Tất cả các ông hãy thọ trì năm giới”.
Te ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā sīlāni samādiyiṃsu.
They assented, saying, "So be it," and undertook the precepts.
Họ đồng ý và thọ trì các giới.
Atha ne thero ovadi – ‘‘idāni tumhe sīlavantā, jīvitahetupi vo neva sīlaṃ atikkamitabbaṃ, na manopadoso kātabbo’’ti.
Then the Elder exhorted them, "Now you are virtuous. Even for the sake of your lives, you should not transgress the sīla, nor should you harbor ill-will."
Sau đó, Trưởng lão khuyên họ: “Bây giờ các ông đã giữ giới, dù vì mạng sống cũng không được vi phạm giới, không được khởi tâm bất thiện”.
Te ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchiṃsu.
They assented, saying, "So be it."
Họ đồng ý.
Atha ne janapadamanussā taṃ ṭhānaṃ patvā ito cito ca pariyesamānā te core disvā sabbe te jīvitā voropesuṃ.
Then the people of the countryside reached that place and, searching here and there, saw those thieves and deprived all of them of their lives.
Sau đó, người dân trong vùng đến nơi đó, tìm kiếm khắp nơi, thấy những tên trộm đó và đã giết chết tất cả.
Te kālaṃ katvā devaloke nibbattiṃsu, corajeṭṭhako jeṭṭhakadevaputto ahosi.
Having died, they were reborn in the deva-realm, and the chief of the thieves became the chief deva-son.
Họ chết và tái sinh vào cõi trời, tên trộm đầu đàn trở thành vị thiên tử đứng đầu.
Te anulomapaṭilomavasena ekaṃ buddhantaraṃ devaloke saṃsaritvā imasmiṃ buddhuppāde sāvatthinagaradvāre pañcasatakulike kevaṭṭagāme nibbattiṃsu.
They wandered in the deva-realm for one Buddha-interval, alternately ascending and descending, and in this Buddha-era, they were reborn in a fishing village near the city gate of Sāvatthī, into five hundred families.
Sau khi luân hồi qua lại ở cõi trời trong suốt một khoảng thời gian giữa hai Đức Phật, vào thời Đức Phật hiện tại, họ tái sinh vào năm trăm gia đình ngư dân tại một làng chài gần cổng thành Sāvatthī.
Jeṭṭhakadevaputto kevaṭṭajeṭṭhakassa gehe paṭisandhiṃ gaṇhi, itare itaresu.
The chief deva-son took conception in the house of the chief fisherman, and the others in other families.
Vị thiên tử đứng đầu tái sinh vào nhà của người đứng đầu làng chài, những người còn lại tái sinh vào các gia đình khác.
Evaṃ tesaṃ ekadivaseyeva paṭisandhigahaṇañca mātukucchito nikkhamanañca ahosi.
Thus, their conception and emergence from their mothers' wombs occurred on the very same day.
Như vậy, việc tái sinh và ra đời từ bụng mẹ của họ đều diễn ra trong cùng một ngày.
Kevaṭṭajeṭṭhako ‘‘atthi nu kho imasmiṃ gāme aññepi dārakā ajja jātā’’ti pariyesāpetvā tesaṃ jātabhāvaṃ ñatvā ‘‘ete mama puttassa sahāyakā bhavissantī’’ti sabbesaṃ posāvanikaṃ dāpesi.
The chief fisherman inquired, "Are there any other children born today in this village?" Knowing that they were born, he thought, "These will be companions to my son," and provided maintenance for all of them.
Người đứng đầu làng chài đã cho người tìm kiếm xem “có những đứa trẻ nào khác sinh ra trong làng hôm nay không”, và khi biết được sự ra đời của chúng, ông nghĩ: “Những đứa trẻ này sẽ là bạn của con trai ta”, rồi ban phát tiền nuôi dưỡng cho tất cả.
Te sabbepi sahapaṃsukīḷakā sahāyakā hutvā anupubbena vayappattā ahesuṃ.
All of them became playmates, playing together in the dust, and gradually reached maturity.
Tất cả chúng đều là bạn chơi cát cùng nhau và dần dần lớn lên.
Tesaṃ kevaṭṭajeṭṭhakaputtova yasato ca tejato ca aggapuriso ahosi.
Among them, the son of the chief fisherman was the foremost man in terms of fame and splendor.
Trong số đó, con trai của người đứng đầu làng chài là người xuất chúng nhất về danh tiếng và uy quyền.
Kapilopi ekaṃ buddhantaraṃ niraye paccitvā vipākāvasesena tasmiṃ kāle aciravatiyā suvaṇṇavaṇṇo duggandhamukho maccho hutvā nibbatti.
Kapilā, too, having suffered in hell for one Buddha-interval, due to the remaining vipāka, was reborn at that time in the Aciravatī River as a golden-colored fish with a foul-smelling mouth.
Kapila cũng đã chịu khổ trong địa ngục suốt một khoảng thời gian giữa hai Đức Phật, và do phần còn lại của nghiệp báo, vào thời điểm đó, vị ấy tái sinh thành một con cá có màu vàng óng, miệng hôi thối trong sông Aciravatī.
Athekadivasaṃ te sahāyakā ‘‘macche bandhissāmā’’ti jālādīni gahetvā nadiyā khipiṃsu.
Then, one day, those companions, saying, "We will catch fish," took nets and other equipment and cast them into the river.
Một ngày nọ, những người bạn đó nói: “Chúng ta sẽ bắt cá”, rồi cầm lưới và các dụng cụ khác ném xuống sông.
Atha nesaṃ antojālaṃ so maccho pāvisi.
Then that fish entered their net.
Sau đó, con cá đó đã lọt vào lưới của họ.
Taṃ disvā sabbe kevaṭṭagāmavāsino uccāsaddamakaṃsu – ‘‘puttā no paṭhamaṃ macche bandhantā suvaṇṇamacchaṃ bandhiṃsu, idāni no rājā bahudhanaṃ dassatī’’ti.
Seeing it, all the villagers of the fishing village shouted loudly, "Our sons, catching fish for the first time, have caught a golden fish! Now the king will give us much wealth!"
Thấy vậy, tất cả dân làng chài đều reo hò lớn tiếng: “Lần đầu tiên con trai chúng ta đi bắt cá đã bắt được một con cá vàng! Bây giờ nhà vua sẽ ban cho chúng ta rất nhiều tiền!”.
Tepi kho sahāyakā macchaṃ nāvāya pakkhipitvā nāvaṃ ukkhipitvā rañño santikaṃ agamaṃsu.
Those companions placed the fish in a boat, lifted the boat, and went to the king.
Những người bạn đó đặt con cá vào thuyền, rồi nâng thuyền lên và đi đến chỗ nhà vua.
Raññāpi taṃ disvāva ‘‘kiṃ eta’’nti vutte ‘‘maccho, devā’’ti āhaṃsu.
When the king saw it and asked, "What is this?" they replied, "It is a fish, Your Majesty."
Khi nhà vua thấy vậy, hỏi: “Cái gì đây?”, họ thưa: “Bạch Đức Vua, là một con cá ạ”.
Rājā suvaṇṇavaṇṇaṃ macchaṃ disvā ‘‘satthā etassa suvaṇṇavaṇṇakāraṇaṃ jānissatī’’ti macchaṃ gāhāpetvā bhagavato santikaṃ agamāsi.
Seeing the golden-colored fish, the king thought, "The Teacher will know the reason for its golden color," so he had the fish taken and went to the Blessed One.
Nhà vua thấy con cá màu vàng óng, nghĩ: “Đức Thế Tôn sẽ biết nguyên nhân của màu vàng này”, liền sai người mang cá đến và đi đến chỗ Đức Thế Tôn.
Macchena mukhe vivaṭamatteyeva sakalajetavanaṃ ativiya duggandhaṃ ahosi.
As soon as the fish opened its mouth, the entire Jetavana became exceedingly foul-smelling.
Ngay khi con cá vừa há miệng, toàn bộ tinh xá Jetavana trở nên cực kỳ hôi thối.
Rājā satthāraṃ pucchi – ‘‘kasmā, bhante, maccho suvaṇṇavaṇṇo jāto, kasmā cassa mukhato duggandho vāyatī’’ti?
The king asked the Teacher, "Venerable sir, why is the fish golden-colored, and why does a foul smell emanate from its mouth?"
Nhà vua hỏi Đức Thế Tôn: “Bạch Đức Thế Tôn, vì sao con cá này có màu vàng óng, và vì sao miệng nó lại bốc mùi hôi thối?”.
Ayaṃ, mahārāja, kassapabhagavato pāvacane kapilo nāma bhikkhu ahosi bahussuto mahāparivāro lābhataṇhāya abhibhūto attano vacanaṃ agaṇhantānaṃ akkosakaparibhāsako, tassa ca bhagavato sāsanaṃ osakkāpesi, so tena kammena avīcimhi nibbattitvā vipākāvasesena idāni maccho hutvā jāto.
O great king, in the dispensation of Kassapa Buddha, there was a bhikkhu named Kapila, who was learned and had a large retinue. Overcome by craving for gain, he abused and reviled those who did not accept his words, and he caused that Buddha's dispensation to decline. By that kamma, he was reborn in Avīci (hell), and by the remaining result of that kamma, he is now born as a fish.
“Này Đại vương, trong Giáo pháp của Đức Phật Kassapa, có một tỳ khưu tên là Kapila, vị ấy học rộng, có đoàn tùy tùng đông đảo, bị ái dục về lợi lộc chi phối, thường mắng nhiếc và phỉ báng những người không nghe lời mình, và đã làm suy yếu Giáo pháp của Đức Thế Tôn đó. Do nghiệp đó, vị ấy đã tái sinh vào địa ngục Avīci, và do phần còn lại của nghiệp báo, bây giờ vị ấy tái sinh thành một con cá.
Yaṃ pana so dīgharattaṃ buddhavacanaṃ vācesi, buddhassa ca guṇaṃ kathesi, tassa nissandena imaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ paṭilabhi.
But that which he, for a long time, recited the Buddha's words and spoke of the Buddha's virtues, as a result of that, he obtained this golden color.
Còn việc vị ấy đã giảng dạy lời Phật trong một thời gian dài, và đã tán thán công đức của Đức Phật, nhờ quả báo đó mà vị ấy có được màu vàng óng này.
Yaṃ bhikkhūnaṃ akkosakaparibhāsako ahosi, tenassa mukhato duggandho vāyati.
Because he was an abuser and reviler of bhikkhus, a foul smell emanates from his mouth.
Việc vị ấy đã mắng nhiếc và phỉ báng các tỳ khưu, vì nghiệp đó mà miệng vị ấy bốc mùi hôi thối.
‘‘Kathāpemi naṃ, mahārājā’’ti?
"Shall I make him speak, O great king?"
Con có muốn ta nói chuyện với nó không, Đại vương?”
‘‘Kathāpetha, bhante’’ti.
"Make him speak, Venerable Sir," he replied.
“Bạch Đức Thế Tôn, xin hãy nói chuyện với nó ạ”.
Atha naṃ satthā pucchi – ‘‘tvaṃsi kapilo’’ti?
Then the Teacher asked him, "Are you Kapila?"
Sau đó, Đức Thế Tôn hỏi nó: “Ngươi là Kapila phải không?”.
‘‘Āma, bhante, ahaṃ kapilo’’ti.
"Yes, Venerable Sir, I am Kapila."
“Vâng, bạch Đức Thế Tôn, con là Kapila”.
‘‘Kuto āgatosī’’ti?
"From where have you come?"
“Ngươi từ đâu đến?”.
‘‘Avīcimahānirayato, bhante’’ti.
"From the great Avīci hell, Venerable Sir."
“Từ đại địa ngục Avīci, bạch Đức Thế Tôn”.
‘‘Jeṭṭhabhātiko te sāgato kuhiṃ gato’’ti?
"Where has your elder brother Sāgata gone?"
“Anh trai cả của ngươi là Sāgata đã đi đâu?”.
‘‘Parinibbuto, bhante’’ti.
"He has attained Parinibbāna, Venerable Sir."
“Đã nhập Niết bàn, bạch Đức Thế Tôn”.
‘‘Mātā pana te sādhinī kaha’’nti?
"And where is your mother Sādhinī?"
“Vậy mẹ ngươi, Sādhinī, ở đâu?”.
‘‘Mahāniraye nibbattā, bhante’’ti.
"She was reborn in the great hell, Venerable Sir."
“Đã tái sinh vào đại địa ngục, bạch Đức Thế Tôn”.
‘‘Kaniṭṭhabhaginī ca te tāpanā kaha’’nti?
"And where is your younger sister Tāpanā?"
“Và em gái út của ngươi, Tāpanā, ở đâu?”.
‘‘Mahāniraye nibbattā, bhante’’ti.
"She was reborn in the great hell, Venerable Sir."
“Đã tái sinh vào đại địa ngục, bạch Đức Thế Tôn”.
‘‘Idāni tvaṃ kahaṃ gamissasī’’ti?
"Where will you go now?"
“Bây giờ ngươi sẽ đi đâu?”.
‘‘Avīcimahānirayameva, bhante’’ti vatvā vippaṭisārābhibhūto nāvaṃ sīsena paharitvā tāvadeva kālaṃ katvā niraye nibbatti.
Having said, "To the great Avīci hell itself, Venerable Sir," he, overcome by remorse, struck the boat with his head, and at that very moment, he passed away and was reborn in hell.
“Chính là đại địa ngục Avīci, bạch Đức Thế Tôn”, nói xong, bị sự hối hận chi phối, nó đập đầu vào thuyền, và ngay lập tức chết đi, tái sinh vào địa ngục.
Mahājano saṃviggo ahosi lomahaṭṭhajāto.
The great multitude was agitated and their hair stood on end.
Đại chúng kinh hoàng, nổi da gà.
Tattha pamattacārinoti sativossaggalakkhaṇena pamādena pamattacārissa puggalassa neva jhānaṃ na vipassanā na maggaphalāni vaḍḍhanti.
Here, pamattacārino means that for a person living heedlessly, characterized by the abandoning of mindfulness, neither jhāna, nor vipassanā, nor the paths and fruits develop.
Trong đó, pamattacārino (người sống buông lung) có nghĩa là: đối với người sống buông lung, với sự buông lung được đặc trưng bởi sự lãng quên chánh niệm, cả thiền định (jhāna), tuệ quán (vipassanā) lẫn các đạo và quả (maggaphala) đều không phát triển.
Yathā pana rukkhaṃ saṃsibbantī pariyonandhantī tassa vināsāya māluvālatā vaḍḍhati, evamassa cha dvārāni nissāya punappunaṃ uppajjanato taṇhā vaḍḍhatīti attho.
Just as a Māluvā creeper grows, entwining and enveloping a tree for its destruction, so too does craving grow for this person, arising again and again based on the six sense doors; this is the meaning.
Như dây māluvā quấn chặt và bao phủ một cái cây để hủy diệt nó, thì cũng vậy, ái dục (taṇhā) phát triển hết lần này đến lần khác, nương vào sáu căn môn của người ấy, đó là ý nghĩa.
So plavatī hurā huranti so taṇhāvasiko puggalo bhave bhave uplavati dhāvati.
So plavatī hurā huraṃ means that this person, under the sway of craving, leaps and wanders from existence to existence.
So plavatī hurā huranti (người ấy trôi nổi từ đời này sang đời khác): người bị ái dục chi phối ấy trôi nổi, chạy khắp các đời.
Yathā kiṃ viyāti?
Like what?
Như cái gì?
Phalamicchaṃva vanasmi vānaro, yathā rukkhaphalaṃ icchanto vānaro vanasmiṃ dhāvati, tassa tassa rukkhassa sākhaṃ gaṇhāti, taṃ muñcitvā aññaṃ gaṇhāti, tampi muñcitvā aññaṃ gaṇhāti, ‘‘sākhaṃ alabhitvā sannisinno’’ti vattabbataṃ nāpajjati, evameva taṇhāvasiko puggalo hurā huraṃ dhāvanto ‘‘ārammaṇaṃ alabhitvā taṇhāya apavattaṃ patto’’ti vattabbataṃ nāpajjati.
Phalamicchaṃva vanasmi vānaro means that just as a monkey desiring fruit wanders in the forest, grasping the branch of one tree, letting go of it and grasping another, and letting go of that too and grasping another, never reaching a state where it can be said, "It has settled down without finding a branch"; even so, a person under the sway of craving, wandering from one object to another, never reaches a state where it can be said, "He has attained freedom from craving without finding an object."
Phalamicchaṃva vanasmi vānaro (như con vượn trong rừng tìm quả): như con vượn muốn quả cây chạy khắp rừng, nó nắm lấy cành cây này, buông nó ra rồi nắm lấy cành khác, buông nó ra rồi nắm lấy cành khác nữa, nó không thể nói là “không tìm được cành cây nào để ngồi yên”; cũng vậy, người bị ái dục chi phối chạy từ đối tượng này sang đối tượng khác, không thể nói là “không tìm được đối tượng nào để ái dục không khởi lên”, đó là ý nghĩa.
Yanti yaṃ puggalaṃ esā lāmakabhāvena jammī visāhāratāya visapupphatāya visaphalatāya visaparibhogatāya rūpādīsu visattatāya āsattatāya visattikāti saṅkhyaṃ gatā chadvārikataṇhā abhibhavati.
Yaṃ refers to the person whom this six-doored craving, which is wretched due to its base nature, and called visattikā (clinging) due to its similarity to poison in food, poison in flowers, poison in fruits, and poison in consumption, and due to its clinging and attachment to forms and so on, overcomes.
Yanti (người mà): người mà ái dục sáu căn môn này, được gọi là visattikā (sự dính mắc) do sự thấp kém, do là chất độc, do là hoa độc, do là quả độc, do sự hưởng thụ độc hại, do sự dính mắc vào các sắc pháp (rūpa) v.v., đã chế ngự.
Yathā nāma vassāne punappunaṃ vassantena devena abhivaṭṭhaṃ bīraṇatiṇaṃ vaḍḍhati, evaṃ tassa puggalassa anto vaṭṭamūlakā sokā abhivaḍḍhantīti attho.
Just as Bīraṇa grass grows abundantly when rain falls again and again during the rainy season, so too do sorrows, which are rooted in the cycle of existence, increase within that person; this is the meaning.
Như cỏ bīraṇa phát triển khi trời mưa hết lần này đến lần khác vào mùa mưa, thì cũng vậy, những sầu muộn có gốc rễ từ vòng luân hồi (vaṭṭa) của người ấy phát triển mạnh mẽ, đó là ý nghĩa.
Taṃ vo vadāmīti tena kāraṇena ahaṃ tumhe vadāmi.
That I declare to you means, for that reason, I declare to you.
Taṃ vo vadāmīti (Ta nói với các con điều đó): vì lý do đó, Ta nói với các con.
Bhaddaṃ voti bhaddaṃ tumhākaṃ hotu, mā ahaṃ kapilo viya vināsaṃ pāpuṇathāti attho.
May good fortune be yours means, may good fortune be yours; may you not come to ruin like this Kapila, is the meaning.
Bhaddaṃ voti (phước lành cho các con): mong phước lành đến với các con, chớ để các con phải chịu sự hủy diệt như Kapila, đó là ý nghĩa.
Mūlanti imissā chadvārikataṇhāya arahattamaggañāṇena mūlaṃ khaṇatha.
The root means, with the knowledge of the Arahant-path, dig up the root of this six-doored craving.
Mūlanti (gốc rễ): hãy đào tận gốc rễ của ái dục sáu căn môn này bằng trí tuệ đạo quả A-la-hán.
Kiṃ viyāti?
Like what?
Như cái gì?
Usīratthova bīraṇaṃ, yathā usīrena atthiko puriso mahantena kudālena bīraṇaṃ khaṇati, evamassā mūlaṃ khaṇathāti attho.
As one seeking usīra digs up bīraṇa grass, just as a man seeking usīra digs up bīraṇa grass with a large hoe, so too dig up its root, is the meaning.
Usīratthova bīraṇaṃ (như người cần cỏ usīra đào cỏ bīraṇa): như người cần cỏ usīra dùng cái cuốc lớn đào cỏ bīraṇa, thì cũng vậy, hãy đào tận gốc rễ của nó, đó là ý nghĩa.
Mā vo naḷaṃva sotova, māro bhañji punappunanti mā tumhe nadīsote jātaṃ naḷaṃ mahāvegena āgato nadīsoto viya kilesamāro maraṇamāro devaputtamāro ca punappunaṃ bhañjatūti attho.
May Māra not break you again and again, like a river current breaks reeds, means, may the defilement-Māra, the death-Māra, and the devaputta-Māra not break you again and again, like a strong river current breaks reeds grown in the river current, is the meaning.
Mā vo naḷaṃva sotova, māro bhañji punappunanti (chớ để Māra phá hoại các con hết lần này đến lần khác, như dòng nước phá hoại cây sậy): chớ để Māra phiền não, Māra chết chóc, và Māra thiên tử phá hoại các con hết lần này đến lần khác, như dòng nước chảy xiết phá hoại cây sậy mọc trong dòng sông, đó là ý nghĩa.
Ekasmiṃ kira samaye satthā rājagahaṃ piṇḍāya pavisanto ekaṃ sūkarapotikaṃ disvā sitaṃ pātvākāsi.
It is said that on one occasion, the Teacher, entering Rājagaha for alms, saw a sow and smiled.
Một lần nọ, khi Đức Phật vào Rājagaha để khất thực, Ngài thấy một con heo nái và mỉm cười.
Tassa sitaṃ karontassa mukhavivaraniggataṃ dantobhāsamaṇḍalaṃ disvā ānandatthero ‘‘ko nu kho, bhante, hetu sitassa pātukammāyā’’ti sitakāraṇaṃ pucchi.
Seeing the circle of radiant teeth emerging from his opened mouth as he smiled, Venerable Ānanda asked the reason for the smile, saying, "What, venerable sir, is the cause for this smile?"
Thấy vòng sáng từ răng hiện ra khi Ngài mỉm cười, Tôn giả Ānanda hỏi nguyên nhân nụ cười: “Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào khiến Ngài mỉm cười?”
Atha naṃ satthā āha – ‘‘passasetaṃ, ānanda, sūkarapotika’’nti?
Then the Teacher said to him, "Do you see that sow, Ānanda?"
Bấy giờ, Đức Phật nói với ngài: “Ānanda, con có thấy con heo nái kia không?”
‘‘Āma, bhante’’ti.
"Yes, venerable sir," he replied.
“Bạch Thế Tôn, vâng.”
Esā kakusandhassa bhagavato sāsane ekāya āsanasālāya sāmantā kukkuṭī ahosi.
This sow was once a hen near an assembly hall during the dispensation of Kakusandha, the Blessed One.
Con heo này từng là một con gà mái sống gần một hội trường trong giáo pháp của Đức Phật Kakusandha.
Sā ekassa yogāvacarassa vipassanākammaṭṭhānaṃ sajjhāyantassa dhammaghosaṃ sutvā tato cutā rājakule nibbattitvā ubbarī nāma rājadhītā ahosi.
Having heard the sound of the Dhamma when a meditator was reciting his vipassanā meditation subject, she passed away from that state and was reborn in a royal family as a princess named Ubbarī.
Con gà mái đó, sau khi nghe tiếng pháp từ một vị hành giả đang tụng niệm đề mục tuệ quán (vipassanākammaṭṭhāna), đã chết và tái sinh làm công chúa tên Ubbarī trong hoàng tộc.
Sā aparabhāge sarīravalañjaṭṭhānaṃ paviṭṭhā puḷavakarāsiṃ disvā tattha puḷavakasaññaṃ uppādetvā paṭhamaṃ jhānaṃ paṭilabhi.
Later, having entered a latrine, she saw a heap of maggots, and by developing the perception of maggots there, she attained the first jhāna.
Về sau, khi vào nhà vệ sinh, nàng thấy một đống giòi và khởi lên tưởng về giòi (puḷavakasaññā), rồi chứng đắc sơ thiền.
Sā tattha yāvatāyukaṃ ṭhatvā tato cutā brahmaloke nibbatti.
Having remained there for her lifespan, she passed away from that state and was reborn in the Brahma world.
Nàng sống ở đó cho đến hết tuổi thọ, sau khi chết, tái sinh vào cõi Phạm thiên.
Tato cavitvā puna gativasena ālulamānā idāni sūkarayoniyaṃ nibbatti, idaṃ kāraṇaṃ disvā mayā sitaṃ pātukatanti.
Having passed away from there, and being tossed about again by the force of her destiny, she is now reborn in the womb of a sow; seeing this reason, I revealed my smile.
Từ đó, nàng chết và lại lang thang theo các cõi tái sinh, nay tái sinh vào loài heo. Thấy lý do này, Ta đã mỉm cười.
Taṃ sutvā ānandattherappamukhā bhikkhū mahantaṃ saṃvegaṃ paṭilabhiṃsu.
Hearing that, the bhikkhus, led by Venerable Ānanda, experienced great spiritual urgency.
Nghe vậy, các tỳ khưu, đứng đầu là Tôn giả Ānanda, đã khởi lên sự xúc động lớn.
Satthā tesaṃ saṃvegaṃ uppādetvā bhavataṇhāya ādīnavaṃ pakāsento antaravīthiyaṃ ṭhitakova imā gāthā abhāsi –
Having aroused their spiritual urgency, the Teacher, while standing in the middle of the street, proclaimed the danger of craving for existence with these verses:
Đức Phật, để khơi dậy sự xúc động nơi họ và tuyên bố hiểm họa của ái dục tái sinh (bhavataṇhā), đã đứng giữa đường và thuyết những câu kệ này:
Tattha mūleti yassa rukkhassa catūsu disāsu catudhā heṭṭhā ca ujukameva gate pañcavidhamūle chedanaphālanapācanavijjhanādīnaṃ kenaci upaddavena anupaddave thirapattatāya daḷhe so rukkho uparicchinnopi sākhānaṃ vasena punadeva rūhati, evameva chadvārikāya taṇhāya anusaye arahattamaggañāṇena anuhate asamucchinne tasmiṃ tasmiṃ bhave jātiādibhedaṃ idaṃ dukkhaṃ punappunaṃ nibbattatiyevāti attho.
Therein, mūle means: just as when the five kinds of great roots of a tree—those that go in four ways in the four directions, and those that go straight down—are strong, having attained firmness, undisturbed by any calamity such as cutting, splitting, extracting, or piercing, that tree, even if cut at the top, grows again by means of its branches; in the same way, when the underlying tendency (anusaya) of craving (taṇhā) operating through the six doors is not destroyed or uprooted by the arahattamagga-ñāṇa (knowledge of the path to Arahantship), this suffering, distinguished by birth and so on, arises again and again in each existence. This is the meaning.
Trong đó, mūleti (gốc rễ): gốc rễ của cây nào không bị tổn hại bởi bất kỳ sự phá hoại nào như chặt, chẻ, nung, đâm, v.v., và vững chắc do sự kiên cố, thì cây đó, dù bị chặt ở phía trên, vẫn mọc lại nhờ các cành. Cũng vậy, khi tùy miên ái dục sáu căn môn chưa bị nhổ tận gốc bằng trí tuệ đạo quả A-la-hán, thì khổ đau này, với các loại như sinh, v.v., chắc chắn sẽ tái sinh hết lần này đến lần khác trong mỗi đời, đó là ý nghĩa.
Savanti sabbadhi sotāti ime taṇhāsotā cakkhudvārādīnaṃ vasena sabbesu rūpādīsu ārammaṇesu savanato, sabbāpi rūpataṇhā…pe… dhammataṇhāti sabbabhavesu vā savanato sabbadhi savanti nāma.
Savanti sabbadhi sotā means: these streams of craving are called "flowing everywhere" because they flow in all objects (ārammaṇa) such as rūpa, through the eye-door and so on, and because all craving for rūpa, and so on, up to craving for dhammas, flows in all existences.
Savanti sabbadhi sotāti (các dòng ái dục chảy khắp mọi nơi): những dòng ái dục này được gọi là chảy khắp mọi nơi vì chúng chảy trong tất cả các đối tượng như sắc pháp, v.v., thông qua các căn môn như nhãn môn, v.v., và vì tất cả các loại ái dục như sắc ái (rūpataṇhā), v.v., cho đến pháp ái (dhammataṇhā), đều chảy trong tất cả các đời.
Latāti paliveṭhanaṭṭhena saṃsibbanaṭṭhena ca latā viyāti latā.
Latā means: it is like a creeper (latā) because it entwines and intertwines.
Latāti (dây leo): giống như dây leo vì có tính chất quấn quanh và kết nối.
Uppajja tiṭṭhatīti chahi dvārehi uppajjitvā rūpādīsu ārammaṇesu tiṭṭhati.
Uppajja tiṭṭhatī means: it arises through the six doors and remains in objects such as rūpa.
Uppajja tiṭṭhatīti (sinh khởi và tồn tại): sinh khởi từ sáu căn môn và tồn tại trong các đối tượng như sắc pháp, v.v.
Tañca disvāti taṃ pana taṇhālataṃ ‘‘etthesā taṇhā uppajjamānā uppajjatī’’ti jātaṭṭhānavasena disvā.
Tañca disvā means: having seen that creeper of craving, understanding "this craving arises where it arises," by its place of origin.
Tañca disvāti (thấy điều đó): thấy dây leo ái dục đó theo nơi sinh khởi, tức là “ái dục này sinh khởi ở đây”.
Paññāyāti satthena vane jātaṃ lataṃ viya maggapaññāya mūle chindathāti attho.
Paññāyā means: cut the root with the wisdom of the path (maggapaññā), just as one cuts a creeper growing in the forest with a knife. This is the meaning.
Paññāyāti (bằng trí tuệ): hãy chặt tận gốc rễ bằng trí tuệ đạo lộ, như người dùng dao chặt dây leo mọc trong rừng, đó là ý nghĩa.
Saritānīti anusaṭāni payātāni.
Saritānī means: flowed, gone forth.
Saritānīti (những dòng chảy): những dòng chảy liên tục.
Sinehitānīti cīvarādīsu pavattasinehavasena sinehitāni ca, taṇhāsinehamakkhitānīti attho.
Sinehitānī means: also smeared with the oil of craving, due to the affection that arises for robes and so on. This is the meaning.
Sinehitānīti (những sự dính mắc): những sự dính mắc do sự yêu thích khởi lên đối với y phục, v.v., và những sự dính mắc vào ái dục, đó là ý nghĩa.
Somanassānīti taṇhāvasikassa jantuno evarūpāni somanassāni bhavanti.
Somanassānī means: such joys arise for a being under the sway of craving.
Somanassāni (hỷ lạc) là những sự hoan hỷ như thế này phát sinh nơi chúng sinh bị ái dục chi phối.
Te sātasitāti te taṇhāvasikā puggalā sātanissitā sukhanissitā ca hutvā sukhesino sukhapariyesino bhavanti.
Te sātasitā means: those persons under the sway of craving, being rooted in pleasure (sāta) and rooted in happiness (sukha), become seekers of happiness and pursuers of happiness.
Te sātasitā (họ nương tựa vào sự vui thích) là những người bị ái dục chi phối, nương tựa vào sự vui thích và nương tựa vào hạnh phúc, trở thành những kẻ tìm cầu hạnh phúc.
Te veti ye evarūpā narā, te jātijarābyādhimaraṇāni upagacchantiyevāti jātijarūpagā nāma honti.
Te ve means: those people who are like this, they certainly encounter birth, old age, sickness, and death, and are therefore called jātijarūpagā (subject to birth and old age).
Te ve (họ thật sự) là những người như vậy, họ phải chịu sinh, già, bệnh, chết; do đó, họ được gọi là những kẻ phải chịu sinh và già.
Pajāti ime sattā tāsakaraṇena tasiṇāti saṅkhyaṃ gatāya taṇhāya purakkhatā parivāritā hutvā.
Pajā means: these beings, being surrounded and encompassed by craving (tasiṇā), which is characterized by causing fear.
Pajā (chúng sinh) là những chúng sinh này bị vây quanh, bị bao phủ bởi ái dục, được gọi là tasiṇā (khát ái) do sự tạo ra khát ái.
Bandhitoti luddena araññe baddho saso viya parisappanti bhāyanti.
Bandhito means: they tremble and fear like a hare caught by a hunter in the forest.
Bandhito (bị trói buộc) là họ sợ hãi, run rẩy như con thỏ bị người thợ săn trói trong rừng.
Saṃyojanasaṅgasattakāti dasavidhena saṃyojanasaṅgena ceva sattavidhena rāgasaṅgādinā ca sattā baddhā tasmiṃ vā laggā hutvā.
Saṃyojanasaṅgasattakā means: being bound by the ten kinds of fetters (saṃyojana) and attachments, and by the seven kinds of attachments such as passion (rāga), or being stuck in them.
Saṃyojanasaṅgasattakā (bị trói buộc bởi kiết sử và sự chấp thủ) là bị trói buộc bởi mười loại kiết sử (saṃyojana) và bảy loại chấp thủ (saṅga) như chấp thủ vào dục (rāgasaṅga), hoặc bị mắc kẹt vào những đối tượng như sắc (rūpāyatana) đó.
Cirāyāti ciraṃ dīghamaddhānaṃ punappunaṃ jātiādikaṃ dukkhaṃ upagacchantīti attho.
Cirāyā means: they repeatedly encounter suffering, such as birth, for a long, extended period. This is the meaning.
Cirāyā (trong một thời gian dài) có nghĩa là họ phải chịu đựng khổ đau như sinh (jāti) lặp đi lặp lại trong một thời gian dài.
Tasmāti yasmā tasiṇāya purakkhatā paliveṭhitā sattā, tasmā attano virāgaṃ rāgādivigamaṃ nibbānaṃ patthento ākaṅkamāno bhikkhu arahattamaggenetaṃ tasiṇaṃ vinodaye panuditvā nīharitvā chaḍḍeyyāti attho.
Tasmā means: because beings are surrounded and entwined by craving (tasiṇā), therefore, a bhikkhu (monk) who desires and longs for his own dispassion (virāga), which is the departure from passion and so on, i.e., Nibbāna, should dispel, remove, and cast away this craving (tasiṇā) by the Arahantship-path. This is the meaning.
Tasmā (do đó) là vì chúng sinh bị ái dục vây quanh, bao bọc, nên vị Tỳ-khưu mong muốn Niết-bàn, sự ly tham, sự đoạn trừ tham ái của chính mình, cần phải đoạn trừ, loại bỏ, và vứt bỏ ái dục đó bằng con đường A-la-hán.
Sāpi kho sūkarapotikā tato cavitvā suvaṇṇabhūmiyaṃ rājakule nibbatti, tato cutā bārāṇasiyaṃ, tato cutā suppārakapaṭṭane assavāṇijagehe nibbatti, tato cutā kāvīrapaṭṭane nāvikassa gehe nibbatti, tato cutā anurādhapure issarakulagehe nibbatti, tato cutā tasseva dakkhiṇadisāya bhokkantagāme sumanassa nāma kuṭumbikassa dhītā nāmena sumanā eva hutvā nibbatti.
That young sow, having passed away from that state, was reborn in a royal family in Suvaṇṇabhūmi. Having passed away from there, she was reborn in Bārāṇasī. Having passed away from there, she was reborn in the house of a horse-merchant in Suppārakapaṭṭana. Having passed away from there, she was reborn in the house of a boatman in Kāvirapaṭṭana. Having passed away from there, she was reborn in the house of a noble family in Anurādhapura. Having passed away from there, she was reborn as a daughter named Sumanā, of a householder named Sumana, in Bhokkantagāma, to the south of Anurādhapura itself.
Con heo con đó sau khi chết từ kiếp đó, đã tái sinh vào một gia đình hoàng tộc ở Suvaṇṇabhūmi, rồi từ đó chết, tái sinh ở Bārāṇasī, từ đó chết, tái sinh vào nhà của một thương gia ngựa ở cảng Suppāraka, từ đó chết, tái sinh vào nhà của một thuyền trưởng ở cảng Kāvirapaṭṭana, từ đó chết, tái sinh vào nhà một gia đình quý tộc ở Anurādhapura, rồi từ đó chết, tái sinh thành con gái của một gia chủ tên Sumanassa ở làng Bhokkantagāma, nằm về phía nam của Anurādhapura, và được đặt tên là Sumanā.
Athassā pitā tasmiṃ gāme chaḍḍite dīghavāpiraṭṭhaṃ gantvā mahāmunigāme nāma vasi.
Then, her father, having abandoned that village, went to Dīghavāpi district and resided in a village named Mahāmunigāma.
Sau đó, cha cô, vì phải rời bỏ ngôi làng đó, đã đến vùng Dīghavāpi và sống ở một ngôi làng tên là Mahāmunigāma.
Tattha naṃ duṭṭhagāmaṇirañño amacco lakuṇḍakaatimbaro nāma kenacideva karaṇīyena gato disvā mahantaṃ maṅgalaṃ katvā ādāya mahāpuṇṇagāmaṃ gato.
There, Lakunḍaka Atimbara, an minister of King Duṭṭhagāmaṇī, having gone there for some business, saw her. He then performed a great ceremony, took her, and went to Mahāpuṇṇagāma.
Tại đó, viên quan tên Lakuṇḍaka Atimbara của vua Duṭṭhagāmaṇi, nhân một việc gì đó, đã đến, thấy cô, bèn tổ chức một lễ cưới lớn rồi đưa cô về làng Mahāpuṇṇa.
Atha naṃ koṭipabbatamahāvihāravāsī mahāanuruddhatthero nāma tattha piṇḍāya caritvā tassā gehadvāre ṭhito disvā bhikkhūhi saddhiṃ kathesi, ‘‘āvuso, sūkarapotikā nāma lakuṇḍakaatimbaramahāmattassa bhariyabhāvaṃ pattā, aho acchariya’’nti.
Then, Mahā-Anuruddha Thera, who resided in Koṭipabbata Mahāvihāra, having gone for alms in that village and standing at the door of that minister's wife, saw her and spoke with the bhikkhus, "Friends, the young sow has attained the state of being the wife of the great minister Lakuṇḍaka-Atimbara; oh, how wonderful!"
Khi ấy, Đại trưởng lão Mahāanuruddha, trú tại Đại Tự viện Koṭipabbata, đi khất thực tại đó, thấy cô đứng trước cửa nhà cô, bèn nói với các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu, con heo con đó đã trở thành vợ của đại thần Lakuṇḍaka Atimbara, thật là kỳ diệu!”
Sā taṃ kathaṃ sutvā atītabhave ugghāṭetvā jātissarañāṇaṃ paṭilabhi.
That minister's wife, hearing that speech, recalled her past existences and gained the knowledge of previous births (jātissarañāṇa).
Nghe lời nói đó, cô đã khơi dậy các kiếp quá khứ và chứng đắc Túc Mạng Trí.
Taṅkhaṇaññeva uppannasaṃvegā sāmikaṃ yācitvā mahantena issariyena pañcabalakattherīnaṃ santike pabbajitvā tissamahāvihāre mahāsatipaṭṭhānasuttakathaṃ sutvā sotāpattiphale patiṭṭhahi.
At that very moment, filled with a sense of urgency, she requested her husband, and with great retinue, she went forth into homelessness under the bhikkhunis named Pañcabalaka. In Tissa Mahāvihāra, she listened to the discourse on the Mahāsatipaṭṭhāna Sutta and became established in the fruit of stream-entry (sotāpattiphala).
Ngay lập tức, với tâm xúc động, cô xin phép chồng, rồi với sự uy quyền lớn, cô xuất gia với các Tỳ-khưu-ni Pañcabalaka, sau đó nghe bài giảng về kinh Đại Niệm Xứ tại Đại Tự viện Tissa và chứng đắc quả Tu-đà-hoàn.
Pacchā damiḷamaddane kate ñātīnaṃ vasanaṭṭhānaṃ bhokkantagāmameva gantvā tattha vasantī kallamahāvihāre āsīvisopamasuttantaṃ sutvā arahattaṃ pāpuṇi.
Later, after the suppression of the Damila, she went to Bhokkantagāma, the dwelling place of her relatives, and while residing there, she listened to the Āsīvisopama Suttanta in Kalla Mahāvihāra and attained Arahantship.
Sau này, khi cuộc chiến chống lại người Damiḷa (Tamil) kết thúc, cô trở về làng Bhokkantagāma, nơi thân quyến cô sinh sống, và tại đó, khi đang ở Đại Tự viện Kalla, cô nghe kinh Āsīvisopama và chứng đắc quả A-la-hán.
Sā parinibbānadivase bhikkhubhikkhunīhi pucchitā bhikkhunisaṅghassa sabbaṃ imaṃ pavattiṃ nirantaraṃ kathetvā sannipatitassa bhikkhusaṅghassa majjhe maṇḍalārāmavāsinā dhammapadabhāṇakamahātissattherena saddhiṃ saṃsanditvā ‘‘ahaṃ pubbe manussayoniyaṃ nibbattitvā tato cutā kukkuṭī hutvā tattha senassa santikā sīsacchedaṃ patvā rājagahe nibbattā, paribbājikāsu pabbajitvā paṭhamajjhānabhūmiyaṃ nibbattitvā tato cutā seṭṭhikule nibbattā nacirasseva cavitvā sūkarayoniṃ gantvā tato cutā suvaṇṇabhūmiṃ, tato cutā bārāṇasiṃ, tato cutā suppārakapaṭṭanaṃ, tato cutā kāvīrapaṭṭanaṃ, tato cutā anurādhapuraṃ, tato cutā bhokkantagāma’’nti evaṃ samavisame terasa attabhāve patvā ‘‘idāni ukkaṇṭhitvā pabbajitvā arahattaṃ pattā, sabbepi appamādena sampādethā’’ti vatvā catasso parisā saṃvejetvā parinibbāyīti.
On the day of her parinibbāna, being questioned by bhikkhus and bhikkhunis, she continuously recounted this entire story to the assembly of bhikkhunis. Then, in the midst of the assembled Saṅgha of bhikkhus, she correlated her account with Mahātissa Thera, the Dhamma-reciter residing in Maṇḍalārāma, saying, "Formerly, I was born in the human realm, and having passed away from there, I became a hen. There, I was beheaded by a hawk and was reborn in Rājagaha. I went forth as a wandering ascetic and was reborn in the realm of the first jhāna. Having passed away from there, I was reborn in a merchant's family, and not long after, having passed away, I went to the realm of a sow. Having passed away from there, I went to Suvaṇṇabhūmi, then to Bārāṇasī, then to Suppāraka port, then to Kāvirapaṭṭana port, then to Anurādhapura, then to Bhokkantagāma." Thus, having passed through thirteen existences, both favorable and unfavorable, she said, "Now, having become weary, I went forth and attained Arahantship. May all of you also strive with diligence!" Having thus stirred the four assemblies, she attained parinibbāna.
Vào ngày nhập Niết-bàn, khi được các Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni hỏi, cô đã kể lại toàn bộ câu chuyện này không ngừng cho Tăng đoàn Tỳ-khưu-ni, và trước Tăng đoàn Tỳ-khưu đang tụ họp, cô đã đối chiếu với Đại trưởng lão Dhammapadabhāṇaka Mahātissa, trú tại Maṇḍalārāma, và nói: “Trước đây, tôi đã tái sinh vào loài người, rồi từ đó chết, trở thành một con gà mái, tại đó tôi bị diều hâu chặt đầu, rồi tái sinh ở Rājagaha, xuất gia làm du sĩ, tái sinh vào cõi sơ thiền, rồi từ đó chết, tái sinh vào gia đình trưởng giả, không lâu sau đó chết, đi vào loài heo, rồi từ đó chết, đến Suvaṇṇabhūmi, từ đó chết, đến Bārāṇasī, từ đó chết, đến cảng Suppāraka, từ đó chết, đến cảng Kāvirapaṭṭana, từ đó chết, đến Anurādhapura, từ đó chết, đến làng Bhokkantagāma.” Như vậy, cô đã trải qua mười ba kiếp sống thăng trầm, rồi nói: “Bây giờ, tôi đã chán nản, xuất gia và chứng đắc A-la-hán. Tất cả quý vị hãy hoàn thành (con đường) với sự không phóng dật!” Sau khi làm xúc động bốn chúng, cô đã nhập Niết-bàn.
Eko kira mahākassapattherassa saddhivihāriko hutvā cattāri jhānāni uppādetvāpi attano mātulassa suvaṇṇakārassa gehe visabhāgārammaṇaṃ disvā tattha paṭibaddhacitto vibbhami.
It is said that a certain disciple of Mahākassapa Thera, having developed the four jhāna, saw an unsuitable object in the house of his maternal uncle, a goldsmith, and becoming attached to it, he strayed.
Có một vị Tỳ-khưu, đệ tử của Đại trưởng lão Mahākassapa, mặc dù đã chứng đắc bốn thiền, nhưng khi thấy một đối tượng không thích hợp trong nhà của người chú làm thợ vàng, tâm ông đã bị vướng mắc vào đó và ông đã lạc lối (tức là hoàn tục).
Atha naṃ manussā alasabhāvena kammaṃ kātuṃ anicchantaṃ gehā nīhariṃsu.
Then, people, seeing him unwilling to work due to laziness, drove him out of the house.
Sau đó, mọi người đã đuổi ông ra khỏi nhà vì ông lười biếng, không muốn làm việc.
So pāpamittasaṃsaggena corakammena jīvikaṃ kappento vicari.
He wandered about, making a living by robbery through association with evil companions.
Ông đã sống bằng nghề trộm cắp do giao du với bạn xấu.
Atha naṃ ekadivasaṃ gahetvā pacchābāhaṃ gāḷhabandhanaṃ bandhitvā catukke catukke kasāhi tāḷentā āghātanaṃ nayiṃsu.
Then, one day, they seized him, bound his arms tightly behind his back, flogged him at every crossroads, and led him to the place of execution.
Một ngày nọ, ông bị bắt, bị trói chặt tay ra sau lưng, bị đánh bằng roi ở mỗi ngã tư và bị dẫn đến pháp trường.
Thero piṇḍāya carituṃ pavisanto taṃ dakkhiṇena dvārena nīhariyamānaṃ disvā bandhanaṃ sithilaṃ kāretvā ‘‘pubbe tayā paricitakammaṭṭhānaṃ puna āvajjehī’’ti āha.
The Thera, entering for alms, saw him being led out through the southern gate, loosened his bonds, and said, "Recollect again the meditation subject you were formerly familiar with!"
Đại trưởng lão (Mahākassapa) khi vào khất thực, thấy ông bị dẫn ra từ cửa phía nam, bèn bảo nới lỏng dây trói và nói: “Hãy quán tưởng lại đề mục thiền định mà ngươi đã thực hành trước đây!”
So tena ovādena satuppādaṃ labhitvā puna catutthajjhānaṃ nibbattesi.
By that admonition, he regained mindfulness and re-established the fourth jhāna.
Nhờ lời khuyên đó, ông đã có được sự tỉnh thức và tái đắc Tứ thiền.
Atha naṃ ‘‘āghātanaṃ netvā ghātessāmā’’ti sūle uttāsesuṃ.
Then, they threatened to impale him, saying, "We will take him to the place of execution and kill him!"
Sau đó, họ dọa sẽ dẫn ông đến pháp trường và giết ông bằng cách đóng cọc.
So na bhāyati na santasati.
He was neither afraid nor terrified.
Ông không sợ hãi, không run rẩy.
Athassa tasmiṃ tasmiṃ disābhāge ṭhitā manussā asisattitomarādīni āvudhāni ukkhipitvāpi taṃ asantasantameva disvā ‘‘passatha, bho, imaṃ purisaṃ, anekasatānañhi āvudhahatthānaṃ purisānaṃ majjhe neva chambhati na vedhati, aho acchariya’’nti acchariyabbhutajātā mahānādaṃ naditvā rañño taṃ pavattiṃ ārocesuṃ.
Then, the people standing in various directions, even after raising weapons such as swords, spears, and javelins, saw him unafraid and untrembling, and exclaimed with great astonishment, "Look, sirs, at this man! In the midst of hundreds of armed men, he neither trembles nor quakes. Oh, how wonderful!" They reported this matter to the king.
Khi ấy, những người đứng ở các hướng khác nhau, dù đã vung kiếm, giáo, lao và các loại vũ khí khác lên, nhưng thấy ông không hề run sợ, bèn nói: “Này các bạn, hãy nhìn người đàn ông này! Giữa hàng trăm người cầm vũ khí, ông ta không hề run sợ hay run rẩy. Thật là kỳ diệu!” Họ kinh ngạc và thốt lên một tiếng kêu lớn, rồi báo cáo sự việc đó cho nhà vua.
Rājā taṃ kāraṇaṃ sutvā ‘‘vissajjetha na’’nti āha.
The king, hearing this, said, "Release him!"
Nhà vua nghe chuyện đó, bèn nói: “Hãy thả ông ta ra!”
Satthu santikampi gantvā tamatthaṃ ārocayiṃsu.
They also went to the Teacher and reported the matter.
Họ cũng đến chỗ Đức Phật và báo cáo sự việc.
Satthā obhāsaṃ pharitvā tassa dhammaṃ desento imaṃ gāthamāha –
The Teacher, radiating light, taught him the Dhamma, speaking this verse:
Đức Phật tỏa hào quang và thuyết pháp cho ông ta bằng bài kệ này:
Ekasmiṃ kira kāle bahū sandhicchedakapanthaghātakamanussaghātake core ānetvā kosalarañño dassayiṃsu.
It is said that at one time, many thieves—housebreakers, highway robbers, and murderers—were brought and shown to the King of Kosala.
Vào một thời điểm nọ, nhiều tên trộm chuyên phá tường, cướp đường và giết người đã bị bắt và dẫn đến trình diện vua Kosala.
Te rājā andubandhanarajjubandhanasaṅkhalikabandhanehi bandhāpesi.
The king had them bound with shackles, ropes, and chains.
Nhà vua đã ra lệnh trói chúng bằng dây thừng, dây xích và gông cùm.
Tiṃsamattāpi kho jānapadā bhikkhū satthāraṃ daṭṭhukāmā āgantvā disvā vanditvā punadivase sāvatthiṃ piṇḍāya carantā bandhanāgāraṃ gantvā te core disvā piṇḍapātapaṭikkantā sāyanhasamaye tathāgataṃ upasaṅkamitvā, ‘‘bhante, ajja amhehi piṇḍāya carantehi bandhanāgāre bahū corā andubandhanādīhi baddhā mahādukkhaṃ anubhavantā diṭṭhā, te tāni bandhanāni chinditvā palāyituṃ na sakkonti, atthi nu kho, bhante, tehi bandhanehi thirataraṃ aññaṃ bandhanaṃ nāmā’’ti pucchiṃsu.
About thirty bhikkhus from the countryside, wishing to see the Teacher, came, saw him, and paid homage. The next day, while walking for alms in Sāvatthī, they went to the prison and saw those thieves suffering greatly, bound by shackles and so forth, unable to break their bonds and escape. After returning from their alms round, in the evening, they approached the Tathāgata and asked, “Venerable Sir, today, while we were walking for alms, we saw many thieves in the prison, bound by shackles and so forth, suffering greatly. They cannot break those bonds and escape. Venerable Sir, is there any other bond stronger than these bonds?”
Khoảng ba mươi vị tỳ khưu từ các vùng quê, vì muốn gặp Đức Bổn Sư, đã đến, thấy, và đảnh lễ Ngài. Vào ngày hôm sau, khi đi khất thực ở Sāvatthī, họ đến nhà giam, thấy những tên trộm bị trói buộc bằng xiềng xích, cùm kẹp, v.v., đang chịu đựng khổ sở lớn lao. Sau khi khất thực xong, vào buổi chiều, họ đến gần Đức Như Lai và hỏi: “Bạch Thế Tôn, hôm nay khi chúng con đi khất thực, chúng con đã thấy nhiều tên trộm trong nhà giam bị trói buộc bằng xiềng xích, cùm kẹp, v.v., đang chịu khổ sở lớn lao. Chúng không thể phá vỡ những xiềng xích đó để trốn thoát. Bạch Thế Tôn, có chăng một sự trói buộc nào khác kiên cố hơn những xiềng xích đó không?”
Satthā, ‘‘bhikkhave, kiṃ bandhanāni nāmetāni, yaṃ panetaṃ dhanadhaññaputtadārādīsu taṇhāsaṅkhātaṃ kilesabandhanaṃ, etaṃ etehi sataguṇena sahassaguṇena satasahassaguṇena thirataraṃ, evaṃ mahantampi panetaṃ ducchindaniyaṃ bandhanaṃ porāṇakapaṇḍitā chinditvā himavantaṃ pavisitvā pabbajiṃsū’’ti vatvā atītaṃ āhari –
The Teacher said, “Bhikkhus, what are these called bonds? The bond of defilement, which is craving for wealth, grain, sons, wives, and so forth, is a hundred times, a thousand times, a hundred thousand times stronger than these. Even such a great and hard-to-break bond as this was broken by the ancient wise ones, who entered the Himalayas and went forth into homelessness.” Having said this, he related a past event:
Đức Bổn Sư đáp: “Này các tỳ khưu, những thứ này có đáng gọi là sự trói buộc gì đâu? Chính sự trói buộc của phiền não, tức là tham ái đối với tài sản, ngũ cốc, con cái, vợ con, v.v., mới kiên cố hơn gấp trăm, gấp ngàn, gấp trăm ngàn lần so với những thứ này. Mặc dù sự trói buộc này vô cùng lớn lao và khó cắt đứt, nhưng các bậc hiền triết thời xưa đã cắt đứt nó, đi vào Hy Mã Lạp Sơn và xuất gia.” Nói xong, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ –
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ duggatagahapatikule nibbatti.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a poor householder's family.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ tát đã tái sinh vào một gia đình gia chủ nghèo khó.
Tassa vayappattassa pitā kālamakāsi.
When he reached maturity, his father passed away.
Khi Ngài đến tuổi trưởng thành, cha Ngài qua đời.
So bhatiṃ katvā mātaraṃ posesi.
He worked for wages and supported his mother.
Ngài làm công để nuôi mẹ.
Athassa mātā anicchamānasseva ekaṃ kuladhītaraṃ gehe katvā aparabhāge kālamakāsi.
Then his mother, against his wishes, brought a girl of good family into the house, and later she too passed away.
Sau đó, mẹ Ngài đã cưới một cô gái dòng dõi cho Ngài, dù Ngài không muốn, và rồi bà cũng qua đời.
Bhariyāyapissa kucchiyaṃ gabbho patiṭṭhahi.
His wife also conceived a child in her womb.
Vợ Ngài cũng mang thai.
So gabbhassa patiṭṭhitabhāvaṃ ajānantova, ‘‘bhadde, tvaṃ bhatiṃ katvā jīva, ahaṃ pabbajissāmī’’ti āha.
Not knowing that she was pregnant, he said, “My dear, you live by working for wages; I will go forth.”
Ngài không biết việc vợ mình có thai, bèn nói: “Này hiền thê, nàng hãy làm công mà sống, ta sẽ xuất gia.”
‘‘Sāmi, nanu gabbho me patiṭṭhito, mayi vijātāya dārakaṃ disvā pabbajissasī’’ti āha.
She said, “My lord, am I not pregnant? When I have given birth, seeing the child, you may go forth.”
Nàng đáp: “Thưa phu quân, chẳng phải con đã mang thai sao? Khi con sinh nở, thấy con rồi thì phu quân hãy xuất gia.”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā tassā vijātakāle, ‘‘bhadde, tvaṃ sotthinā vijātā, idāni ahaṃ pabbajissāmī’’ti āpucchi.
He agreed, saying “So be it.” When she had given birth, he asked her, “My dear, you have given birth safely. Now I will go forth.”
Ngài chấp thuận “Được thôi,” và khi nàng sinh nở, Ngài nói: “Này hiền thê, nàng đã sinh nở an toàn rồi, giờ đây ta sẽ xuất gia.”
Atha naṃ sā ‘‘puttassa tāva thanapānato apagamanakālaṃ āgamehī’’ti vatvā puna gabbhaṃ gaṇhi.
Then she said to him, “Wait until the child is weaned from breastfeeding,” and she conceived again.
Bấy giờ, nàng nói: “Hãy đợi đến khi con cai sữa đã,” rồi lại mang thai.
So cintesi – ‘‘imaṃ sampaṭicchāpetvā gantuṃ na sakkā, imissā anācikkhitvāva palāyitvā pabbajissāmī’’ti.
He thought, “I cannot go after getting her consent. I will escape and go forth without telling her.”
Ngài nghĩ: “Không thể đi nếu đợi nàng chấp thuận, ta sẽ trốn đi xuất gia mà không báo cho nàng biết.”
So tassā anācikkhitvāva rattibhāge uṭṭhāya palāyi.
So, without telling her, he got up in the night and fled.
Thế là, Ngài đã trốn đi vào ban đêm mà không báo cho nàng biết.
Atha naṃ nagaraguttikā aggahesuṃ.
Then the city guards apprehended him.
Bấy giờ, những người canh gác thành đã bắt Ngài.
So ‘‘ahaṃ, sāmi, mātuposako nāma, vissajjetha ma’’nti attānaṃ vissajjāpetvā ekasmiṃ ṭhāne vasitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññāsamāpattiyo labhitvā jhānakīḷāya kīḷanto vihāsi.
He said, “Sirs, I am a supporter of my mother. Release me.” Having secured his release, he lived in a certain place, went forth as an ascetic, attained the supernormal powers and attainments, and dwelt enjoying the bliss of jhāna.
Ngài nói: “Thưa quý vị, tôi là người nuôi dưỡng mẹ, xin hãy thả tôi ra,” và sau khi được thả, Ngài sống ở một nơi, xuất gia theo lối ẩn sĩ, đạt được các thắng trí và các thành tựu thiền định, an trú trong niềm vui của thiền định.
So tattha vasantoyeva ‘‘evarūpampi nāma me ducchindaniyaṃ puttadārabandhanaṃ kilesabandhanaṃ chinna’’nti imaṃ udānaṃ udānesi.
While dwelling there, he uttered this inspired utterance: “Such a hard-to-break bond of sons and wives, a bond of defilement, has been cut by me.”
Khi sống ở đó, Ngài đã thốt lên lời cảm hứng này: “Sự trói buộc của phiền não, tức là sự trói buộc con cái và vợ con, vốn khó cắt đứt như thế này, đã được ta cắt đứt!”
Tattha dhīrāti buddhādayo paṇḍitapurisā yaṃ saṅkhalikasaṅkhātaṃ ayasā nibbattaṃ āyasaṃ, andubandhanasaṅkhātaṃ dārujaṃ, yañca pabbajatiṇehi vā aññehi vā vākādīhi rajjuṃ katvā kataṃ rajjubandhanaṃ, taṃ asiādīhi chindituṃ sakkuṇeyyabhāvena thiranti na vadantīti attho.
Therein, dhīrā means that wise men, such as the Buddhas, do not call that bond strong which is made of iron, such as a chain, or made of wood, such as a stock, or a rope-bond made by using reeds or other fibers like bark, because it can be cut with a sword or other means. This is the meaning.
Ở đây, dhīrā (bậc hiền trí) là Đức Phật và các bậc trí giả khác. Họ không gọi sự trói buộc bằng sắt, tức là xiềng xích, sự trói buộc bằng gỗ, tức là cùm kẹp, hay sự trói buộc bằng dây thừng làm từ cỏ pabbaja hoặc các loại vỏ cây khác, là kiên cố vì chúng có thể bị cắt đứt bằng kiếm, v.v. Đó là ý nghĩa.
Sārattarattāti sārattā hutvā rattā, bahalatararāgarattāti attho.
Sārattarattā means being intensely attached, deeply imbued with passion, this is the meaning.
Sārattarattā (tham đắm mãnh liệt) có nghĩa là đã tham đắm mãnh liệt, tức là bị ràng buộc bởi tham ái sâu đậm. Đó là ý nghĩa.
Maṇikuṇḍalesūti maṇīsu ceva kuṇḍalesu ca, maṇivicittesu vā kuṇḍalesu.
Maṇikuṇḍalesu means in jewels and in earrings, or in earrings adorned with jewels.
Maṇikuṇḍalesu (vào ngọc quý, hoa tai) có nghĩa là vào ngọc quý và vào hoa tai, hoặc vào hoa tai được trang trí bằng ngọc quý.
Etaṃ daḷhanti ye maṇikuṇḍalesu sārattarattā, tesaṃ so rāgo ca yā puttadāresu apekkhā taṇhā, etaṃ kilesamayaṃ bandhanañca paṇḍitapurisā daḷhanti vadanti.
Etaṃ daḷhaṃ means that the wise men call this bond of defilement strong—that passion of those who are intensely attached to jewels and earrings, and that craving which is the longing for sons and wives.
Etaṃ daḷhaṃ (điều này là kiên cố) có nghĩa là các bậc trí giả gọi sự tham ái mãnh liệt của những người tham đắm vào ngọc quý và hoa tai, cùng với sự quyến luyến (taṇhā) đối với con cái và vợ con, là sự trói buộc của phiền não kiên cố.
Ohārinanti ākaḍḍhitvā catūsu apāyesu pātanato avaharati heṭṭhā haratīti ohārinaṃ.
Ohārinaṃ means that which pulls down, that which carries down, because it drags one down and casts one into the four lower realms.
Ohārinaṃ (kéo xuống) có nghĩa là kéo xuống, dẫn xuống thấp, vì nó kéo và ném người ta vào bốn cõi đọa lạc.
Sithilanti bandhanaṭṭhāne chavicammamaṃsāni na chindati, lohitaṃ na nīharati, bandhanabhāvampi ajānāpetvā thalapathajalapathādīsu kammāni kātuṃ detīti sithilaṃ.
Sithilaṃ means loose, because it does not cut the skin, flesh, and muscles at the place of binding, does not draw blood, and allows one to perform tasks on land and water routes without even realizing that one is bound.
Sithilaṃ (lỏng lẻo) có nghĩa là lỏng lẻo vì nó không cắt da, thịt, gân ở chỗ trói buộc, không làm chảy máu, và cho phép người ta thực hiện các công việc trên đường bộ, đường thủy, v.v., mà không nhận ra mình đang bị trói buộc.
Duppamuñcanti lobhavasena hi ekavārampi uppannaṃ kilesabandhanaṃ daṭṭhaṭṭhānato kacchapo viya dummociyaṃ hotīti duppamuñcaṃ.
Duppamuñcaṃ means hard to release, because a bond of defilement, once arisen, even for a moment due to greed, is hard to extricate from the place where it has bitten, like a tortoise.
Duppamuñcaṃ (khó thoát khỏi) có nghĩa là khó thoát khỏi vì sự trói buộc của phiền não, một khi đã khởi lên dù chỉ một lần do lòng tham, thì khó mà thoát ra được như con rùa khó thoát khỏi chỗ bị cắn.
Etampi chetvānāti etaṃ daḷhampi kilesabandhanaṃ ñāṇakhaggena chinditvā anapekkhino hutvā kāmasukhaṃ pahāya paribbajanti, pakkamanti pabbajantīti attho.
Etampi chetvāna means having cut even this strong bond of defilement with the sword of wisdom, they become free from longing, abandon sensual pleasures, and wander forth, meaning they go forth and take up the ascetic life.
Etampi chetvānā (cắt đứt cả điều này) có nghĩa là cắt đứt cả sự trói buộc phiền não kiên cố này bằng thanh kiếm trí tuệ, trở nên không còn quyến luyến, từ bỏ lạc thú dục vọng và xuất gia, tức là rời bỏ cuộc sống thế tục để trở thành người xuất gia. Đó là ý nghĩa.
Sā kira padumuttarapādamūle patthitapatthanā ativiya abhirūpā pāsādikā ahosi.
She, having made her aspiration at the feet of Padumuttara Buddha, was exceedingly beautiful and charming.
Được biết, nàng đã nguyện ước dưới chân Đức Phật Padumuttara, và nàng vô cùng xinh đẹp, duyên dáng.
‘‘Satthā kira rūpassa dosaṃ kathetī’’ti sutvā pana satthu santikaṃ gantuṃ na icchi.
However, hearing that "the Teacher speaks of the fault of beauty," she did not wish to go to the Teacher.
Tuy nhiên, khi nghe nói “Đức Bổn Sư thuyết về sự xấu xa của sắc đẹp,” nàng không muốn đến gặp Ngài.
Rājā tassā rūpamadamattabhāvaṃ ñatvā veḷuvanavaṇṇanāpaṭisaṃyuttāni gītāni kāretvā naṭādīnaṃ dāpesi.
The king, knowing her intoxication with pride in her beauty, had songs composed praising Veḷuvana and gave them to dancers and others.
Vua, biết nàng kiêu ngạo vì sắc đẹp, đã sai sáng tác những bài ca ngợi Veluvana và ban cho các vũ công, v.v.
Tesaṃ tāni gāyantānaṃ saddaṃ sutvā tassā veḷuvanaṃ adiṭṭhapubbaṃ viya asutapubbaṃ viya ca ahosi.
Hearing the sound of them singing those songs, Veḷuvana appeared to her as if it had never been seen or heard before.
Khi nghe tiếng họ hát những bài ca đó, Veluvana đối với nàng như chưa từng được thấy, chưa từng được nghe.
Sā ‘‘kataraṃ uyyānaṃ sandhāya gāyathā’’ti pucchitvā, ‘‘devī, tumhākaṃ veḷuvanuyyānamevā’’ti vutte uyyānaṃ gantukāmā ahosi.
She asked, "Which park are you singing about?" And when told, "Queen, it is your Veḷuvana park," she desired to go to the park.
Nàng hỏi: “Các ngươi đang hát về khu vườn nào vậy?” Khi được đáp: “Thưa Hoàng hậu, chính là khu vườn Veluvana của người,” nàng muốn đến khu vườn đó.
Satthā tassā āgamanaṃ ñatvā parisamajjhe nisīditvā dhammaṃ desentova tālavaṇṭaṃ ādāya attano passe ṭhatvā bījamānaṃ abhirūpaṃ itthiṃ nimmini.
The Teacher, knowing of her coming, sat in the midst of the assembly and, while teaching the Dhamma, created a very beautiful woman fanning herself with a palm-leaf fan, standing beside Him.
Đức Bổn Sư, biết nàng sắp đến, đã ngồi giữa hội chúng và thuyết pháp, đồng thời tạo ra một người phụ nữ xinh đẹp đứng bên cạnh Ngài, cầm quạt lá cọ quạt cho Ngài.
Khemā, devīpi pavisamānāva taṃ itthiṃ disvā cintesi – ‘‘sammāsambuddho rūpassa dosaṃ kathetīti vadanti, ayañcassa santike itthī bījayamānā ṭhitā, nāhaṃ imissā kalabhāgampi upemi, na mayā īdisaṃ itthirūpaṃ diṭṭhapubbaṃ, satthāraṃ abhūtena abbhācikkhanti maññe’’ti cintetvā tathāgatassa kathāsaddampi anisāmetvā tameva itthiṃ olokayamānā aṭṭhāsi.
Queen Khemā, upon entering, saw that woman and thought, "They say the Perfectly Enlightened One speaks of the fault of beauty, and yet this woman is standing beside Him, fanning Him. I am not even a fraction of her beauty; I have never seen such a beautiful woman. I think they falsely accuse the Teacher." Thinking thus, she did not even listen to the Tathāgata's discourse, but stood gazing only at that woman.
Hoàng hậu Khemā, vừa bước vào đã thấy người phụ nữ đó và nghĩ: “Người ta nói Đức Chánh Đẳng Giác thuyết về sự xấu xa của sắc đẹp, mà đây lại có một người phụ nữ đang quạt cho Ngài. Ta không bằng một phần nhỏ của nàng ấy. Ta chưa từng thấy một người phụ nữ nào xinh đẹp như vậy. Chắc là người ta đã vu khống Đức Bổn Sư một cách sai trái.” Nghĩ vậy, nàng không lắng nghe lời thuyết pháp của Đức Như Lai mà chỉ nhìn chằm chằm vào người phụ nữ đó.
Satthā tassā tasmiṃ rūpe uppannabahumānataṃ ñatvā taṃ rūpaṃ paṭhamavayādivasena dassetvā heṭṭhā vuttanayeneva pariyosāne aṭṭhimattāvasānaṃ katvā dassesi.
The Teacher, knowing her great admiration for that beauty, showed that beauty in its stages of youth and so on, and then, in the manner described below, at the end, He showed it reduced to mere bones.
Đức Bổn Sư, biết được sự tôn kính sâu sắc của nàng đối với sắc đẹp đó, đã cho nàng thấy sắc đẹp đó trải qua các giai đoạn tuổi tác, v.v., và cuối cùng, theo cách đã nói ở trên, Ngài cho nàng thấy nó chỉ còn là bộ xương.
Khemā taṃ disvā ‘‘evarūpampi nāmetaṃ rūpaṃ muhutteneva khayavayaṃ sampattaṃ, natthi vata imasmiṃ rūpe sāro’’ti cintesi.
Khemā, seeing that, thought, "Even such beauty as this reaches decay and dissolution in a moment. Truly, there is no essence in this beauty."
Khemā, thấy vậy, nghĩ: “Sắc đẹp như thế này mà chỉ trong chốc lát đã đến sự hủy hoại và tàn phai. Thật không có cốt lõi gì trong sắc đẹp này!”
Satthā tassā cittācāraṃ oloketvā, ‘‘kheme, tvaṃ ‘imasmiṃ rūpe sāro atthī’ti cintesi, passa dānissa asārabhāva’’nti vatvā imaṃ gāthamāha –
The Teacher, observing the inclination of her mind, said, "Khemā, you thought, 'There is essence in this beauty.' Now see its lack of essence," and then uttered this verse:
Đức Bổn Sư, quán sát tâm ý của nàng, nói: “Này Khemā, con đã nghĩ rằng ‘có cốt lõi trong sắc đẹp này.’ Bây giờ hãy xem sự vô cốt lõi của nó,” rồi Ngài thuyết bài kệ này –
Tattha makkaṭakova jālanti yathā nāma makkaṭako suttajālaṃ katvā majjhe ṭhāne nābhimaṇḍale nipanno pariyante patitaṃ paṭaṅgaṃ vā makkhikaṃ vā vegena gantvā vijjhitvā tassa rasaṃ pivitvā puna gantvā tasmiṃyeva ṭhāne nipajjati, evameva ye sattā rāgarattā dosapaduṭṭhā mohamūḷhā sayaṃkataṃ taṇhāsotaṃ anupatanti, te taṃ samatikkamituṃ na sakkonti, evaṃ duratikkamaṃ.
There, like a spider into the web means: just as a spider, having made a silken web, lies in the middle, in the navel-like center, and quickly goes to a grasshopper or fly that has fallen at the edge, pierces it, drinks its essence, and then returns to lie in that very place; in the same way, those beings who are attached by lust, corrupted by hatred, deluded by ignorance, and repeatedly fall into the craving-stream they themselves have made, are unable to overcome it. Thus, it is difficult to overcome.
Trong kệ đó, mạng nhện là: Như con nhện giăng lưới tơ do mình tạo ra, nằm ở giữa, tại rốn, rồi nhanh chóng đi đến chỗ châu chấu hay ruồi rơi vào rìa, đâm chích hút máu chúng, rồi lại trở về nằm tại chỗ đó. Cũng vậy, những chúng sinh bị tham ái trói buộc, bị sân hận làm ô nhiễm, bị si mê che lấp, rơi vào dòng ái dục do chính mình tạo ra, thì không thể vượt qua được dòng đó, thật khó vượt qua như vậy.
Etampi chetvāna vajanti dhīrāti paṇḍitā etaṃ bandhanaṃ chetvā anapekkhino nirālayā hutvā arahattamaggena sabbadukkhaṃ pahāya vajanti, gacchantīti attho.
The wise, having cut even this, depart means: the wise, having cut this bond, become unattached and free from attachment, and departing by the Arahantship Path, they abandon all suffering and go forth; this is the meaning.
Bậc trí cắt đứt cái này mà đi nghĩa là: Các bậc trí cắt đứt sự trói buộc ái dục này, trở thành những người không còn chấp thủ, không còn nơi nương tựa, từ bỏ mọi khổ đau bằng con đường A-la-hán quả mà đi, nghĩa là ra đi.
Desanāvasāne khemā arahatte patiṭṭhahi, mahājanassāpi sātthikā dhammadesanā ahosi.
At the end of the discourse, Khema became established in Arahantship, and the Dhamma discourse was beneficial to the great multitude as well.
Khi bài thuyết pháp kết thúc, Khemā đạt A-la-hán quả, và bài pháp cũng mang lại lợi ích cho đại chúng.
Satthā rājānaṃ āha – ‘‘mahārāja, khemāya pabbajituṃ vā parinibbāyituṃ vā vaṭṭatī’’ti.
The Teacher said to the king, “Great King, it is fitting for Khema to go forth or to attain final Nibbāna.”
Đức Thế Tôn nói với nhà vua: “Đại vương, Khemā nên xuất gia hoặc nhập Niết-bàn.”
Bhante, pabbājetha naṃ, alaṃ parinibbānenāti.
“Venerable Sir, let her go forth; there is no need for her to attain final Nibbāna,” he replied.
Bạch Thế Tôn, xin hãy cho cô ấy xuất gia, không nên nhập Niết-bàn.
Sā pabbajitvā aggasāvikā ahosīti.
Having gone forth, she became the foremost female disciple.
Sau khi xuất gia, cô ấy trở thành nữ Đại đệ tử.
Pañcasatā kira naṭā saṃvacchare vā chamāse vā patte rājagahaṃ gantvā rañño sattāhaṃ samajjaṃ katvā bahuṃ hiraññasuvaṇṇaṃ labhanti, antarantare ukkhepadāyānaṃ pariyanto natthi.
It is said that five hundred acrobats, once a year or every six months, would go to Rājagaha, perform a seven-day festival for the king, and receive much gold and silver; there was no end to the gifts given in between.
Nghe nói, cứ mỗi năm hoặc sáu tháng, năm trăm diễn viên xiếc lại đến Rājagaha, biểu diễn bảy ngày cho nhà vua và nhận được rất nhiều vàng bạc; ngoài ra, những món quà tặng không ngừng nghỉ.
Mahājano mañcātimañcādīsu ṭhatvā samajjaṃ olokesi.
The great multitude watched the festival, standing on elevated platforms and the like.
Đại chúng đứng trên các giàn giáo cao để xem buổi biểu diễn.
Athekā laṅghikadhītā vaṃsaṃ abhiruyha tassa upari parivattitvā tassa pariyante ākāse caṅkamamānā naccati ceva gāyati ca.
Then a certain acrobat’s daughter climbed a bamboo pole, turned over on top of it, and danced and sang while walking back and forth in the air at its end.
Lúc đó, một cô con gái của người diễn viên đu dây leo lên cây sào, xoay tròn trên đỉnh sào, rồi đi lại trên không trung ở đầu sào, vừa múa vừa hát.
Tasmiṃ samaye uggaseno nāma seṭṭhiputto sahāyakena saddhiṃ mañcātimañce ṭhito taṃ oloketvā tassā hatthapādavikkhepādīsu uppannasineho gehaṃ gantvā ‘‘taṃ labhanto jīvissāmi, alabhantassa me idheva maraṇa’’nti āhārūpacchedaṃ katvā mañcake nipajji.
At that time, a rich man’s son named Uggasena, standing with a friend on an elevated platform, watched her and, becoming infatuated by her hand and foot movements, went home and lay on his bed, refusing food, saying, “If I get her, I will live; if I don’t get her, I will die right here.”
Vào thời điểm đó, một con trai của trưởng giả tên là Uggasena, cùng với bạn của mình, đứng trên giàn giáo cao, nhìn cô ấy và nảy sinh tình cảm với những cử chỉ tay chân của cô ấy. Anh ta về nhà và nói: “Nếu tôi có được cô ấy thì tôi sẽ sống, nếu không có được cô ấy thì tôi sẽ chết ngay tại đây,” rồi nhịn ăn và nằm trên giường.
Mātāpitūhi, ‘‘tāta, kiṃ te rujjatī’’ti pucchitopi ‘‘taṃ me naṭadhītaraṃ labhantassa jīvitaṃ atthi, alabhantassa me idheva maraṇa’’nti vatvā, ‘‘tāta, mā evaṃ kari, aññaṃ te amhākaṃ kulassa ca bhogānañca anurūpaṃ kumārikaṃ ānessāmā’’ti vuttepi tatheva vatvā nipajji.
Even when his parents asked, “Son, what ails you?” he replied, “If I get that acrobat’s daughter, I will live; if I don’t get her, I will die right here.” And even when they said, “Son, don’t do this; we will bring you another maiden suitable for our family and wealth,” he said the same thing and lay down.
Cha mẹ hỏi: “Con ơi, con bị bệnh gì vậy?”, nhưng anh ta trả lời: “Nếu con có được cô con gái diễn viên xiếc đó thì con sẽ sống, nếu không có được cô ấy thì con sẽ chết ngay tại đây.” Khi cha mẹ nói: “Con ơi, đừng làm như vậy, chúng ta sẽ cưới cho con một cô gái khác phù hợp với gia đình và tài sản của chúng ta,” anh ta vẫn nói y như vậy và nằm yên.
Athassa pitā bahuṃ yācitvāpi taṃ saññāpetuṃ asakkonto tassa sahāyaṃ pakkosāpetvā kahāpaṇasahassaṃ datvā ‘‘ime kahāpaṇe gahetvā attano dhītaraṃ mayhaṃ puttassa detū’’ti pahiṇi.
Then his father, though pleading much, was unable to persuade him, so he summoned his friend, gave him a thousand kahāpaṇas, and sent him with the message, “Take these kahāpaṇas and give your daughter to my son.”
Sau đó, cha anh ta đã cố gắng thuyết phục anh ta rất nhiều nhưng không thành công, bèn gọi bạn của anh ta đến, đưa cho một ngàn đồng tiền vàng và sai đi nói với cha của cô gái: “Hãy nhận những đồng tiền vàng này và gả con gái của ông cho con trai tôi.”
So ‘‘nāhaṃ kahāpaṇe gahetvā demi, sace pana so imaṃ alabhitvā jīvituṃ na sakkoti, tena hi amhehi saddhiṃyeva vicaratu, dassāmissa dhītara’’nti āha.
He replied, “I will not take kahāpaṇas and give my daughter. But if he cannot live without obtaining her, then let him travel with us; I will give him my daughter.”
Người cha của cô gái nói: “Tôi sẽ không nhận tiền vàng mà gả con gái. Nhưng nếu con trai ông không có được con gái tôi mà không thể sống được, thì hãy để anh ta sống cùng chúng tôi, tôi sẽ gả con gái cho anh ta.”
Mātāpitaro puttassa tamatthaṃ ārocesuṃ.
His parents informed their son of the matter.
Cha mẹ anh ta báo tin đó cho con trai.
So ‘‘ahaṃ tehi saddhiṃ vicarissāmī’’ti vatvā yācantānampi tesaṃ kathaṃ anādiyitvā nikkhamitvā nāṭakassa santikaṃ agamāsi.
He said, “I will travel with them,” and disregarding his parents’ pleas, he left and went to the acrobat.
Anh ta nói: “Con sẽ sống cùng họ,” rồi không nghe lời khuyên của cha mẹ, bỏ đi đến chỗ người diễn viên xiếc.
So tassa dhītaraṃ datvā tena saddhiṃyeva gāmanigamarājadhānīsu sippaṃ dassento vicari.
The acrobat gave his daughter to Uggasena, and they traveled together, performing their art in villages, towns, and royal capitals.
Người diễn viên xiếc gả con gái cho anh ta, và anh ta cùng với người cha vợ đi khắp các làng mạc, thị trấn, kinh đô để biểu diễn nghệ thuật.
Sāpi tena saddhiṃ saṃvāsamanvāya nacirasseva puttaṃ labhitvā kīḷāpayamānā ‘‘sakaṭagopakassa putta, bhaṇḍahārakassa putta, kiñci ajānakassa puttā’’ti vadati.
She, too, having cohabited with him, soon bore a son and, while playing with him, would say, “Son of a cart-driver, son of a burden-bearer, son of one who knows nothing.”
Cô ấy sống chung với anh ta và chẳng bao lâu sau sinh một đứa con. Khi chơi đùa với con, cô ấy nói: “Con của người giữ xe bò, con của người khuân vác hàng, con của người chẳng biết gì cả.”
Sopi nesaṃ sakaṭaparivattakaṃ katvā ṭhitaṭṭhāne goṇānaṃ tiṇaṃ āharati, sippadassanaṭṭhāne laddhabhaṇḍakaṃ ukkhipitvā harati.
He also, having unyoked their carts, brought grass for the oxen at the stopping place, and at the place of displaying skills, he lifted and carried the goods obtained.
Anh ta cũng làm người lật xe của họ, mang cỏ cho bò ở nơi họ đậu, và khuân vác đồ đạc nhận được ở nơi biểu diễn nghệ thuật.
Tadeva kira sandhāya sā itthī puttaṃ kīḷāpayamānā tathā vadati.
It is said that referring to that very thing, while that woman was amusing her son, she spoke in that manner.
Nghe nói, cô ấy nói như vậy khi chơi đùa với con, ám chỉ điều đó.
So attānaṃ ārabbha tassā gāyanabhāvaṃ ñatvā taṃ pucchi – ‘‘maṃ sandhāya kathesī’’ti?
He, knowing that she was singing about himself, asked her, "Are you speaking about me?"
Anh ta biết rằng cô ấy đang hát ám chỉ mình, bèn hỏi cô ấy: “Nàng nói ám chỉ ta ư?”
‘‘Āma, taṃ sandhāyā’’ti.
"Yes, about you," she said.
“Vâng, ám chỉ chàng đó.”
‘‘Evaṃ sante ahaṃ palāyissāmī’’ti.
"If that is so, I will run away," he said.
“Nếu vậy thì ta sẽ bỏ đi.”
Sā ‘‘kiṃ pana mayhaṃ tayā palāyitena vā āgatena vā’’ti punappunaṃ tadeva gītaṃ gāyati.
She, saying, "What is it to me whether you run away or come back?", sang that same song again and again.
Cô ấy nói: “Chàng bỏ đi hay đến thì có ích gì cho ta?” rồi lặp đi lặp lại bài hát đó.
Sā kira attano rūpasampattiñceva dhanalābhañca nissāya taṃ kismiñci na maññati.
It is said that she, relying on her beauty and wealth, did not think much of him.
Nghe nói, cô ấy không coi trọng anh ta chút nào, dựa vào sắc đẹp và lợi lộc tài sản của mình.
So ‘‘kiṃ nu kho nissāya imissā ayaṃ māno’’ti cintento ‘‘sippaṃ nissāyā’’ti ñatvā ‘‘hotu, sippaṃ uggaṇhissāmī’’ti sasuraṃ upasaṅkamitvā tassa jānanakasippaṃ uggaṇhitvā gāmanigamādīsu sippaṃ dassento anupubbena rājagahaṃ āgantvā ‘‘ito sattame divase uggaseno seṭṭhiputto nagaravāsīnaṃ sippaṃ dassessatī’’ti ārocāpesi.
He, wondering, "What is the cause of her pride?", realized, "It is due to her skill." So he thought, "Very well, I will learn a skill." He approached his father-in-law, learned the skill he knew, and displaying his skill in villages and towns, he gradually came to Rājagaha and announced, "Seven days from now, Uggasena, the son of a rich merchant, will display his skill to the city dwellers."
Anh ta suy nghĩ: “Nàng kiêu căng như vậy là dựa vào cái gì?” rồi nhận ra: “Dựa vào nghệ thuật,” bèn nghĩ: “Được rồi, ta sẽ học nghệ thuật.” Anh ta đến gần cha vợ, học được những kỹ năng dễ học của ông, rồi đi khắp các làng mạc, thị trấn để biểu diễn nghệ thuật. Dần dần, anh ta đến Rājagaha và loan báo rằng: “Bảy ngày nữa, con trai của trưởng giả Uggasena sẽ biểu diễn nghệ thuật cho dân chúng trong thành.”
Nagaravāsino mañcātimañcādayo bandhāpetvā sattame divase sannipatiṃsu.
The city dwellers had stages and platforms built, and on the seventh day, they assembled.
Dân chúng trong thành dựng các giàn giáo cao và tụ tập vào ngày thứ bảy.
Sopi saṭṭhihatthaṃ vaṃsaṃ abhiruyha tassa matthake aṭṭhāsi.
He also climbed a sixty-cubit bamboo pole and stood on its top.
Anh ta cũng leo lên cây sào dài sáu mươi cubit và đứng trên đỉnh sào.
Taṃ divasaṃ satthā paccūsakāle lokaṃ volokento taṃ attano ñāṇajālassa anto paviṭṭhaṃ disvā ‘‘kiṃ nu kho bhavissatī’’ti āvajjento ‘‘sve seṭṭhiputto sippaṃ dassessāmīti vaṃsamatthake ṭhassati, tassa dassanatthaṃ mahājano sannipatissati.
On that day, the Teacher, surveying the world in the early morning, saw him enter the net of his knowledge and, wondering "What will happen?", reflected: "Tomorrow, the rich merchant's son will stand on top of a bamboo pole, saying, 'I will display my skill.' A great multitude will gather to see him.
Vào ngày đó, Đức Thế Tôn, vào buổi sáng sớm, quán sát thế gian và thấy anh ta đã vào trong mạng lưới trí tuệ của Ngài. Ngài suy nghĩ: “Điều gì sẽ xảy ra đây?” rồi biết rằng: “Ngày mai, con trai của trưởng giả sẽ đứng trên đỉnh sào để biểu diễn nghệ thuật, và đại chúng sẽ tụ tập để xem. Ở đó, Ta sẽ thuyết một bài kệ bốn câu, và sau khi nghe bài kệ đó, tám vạn bốn ngàn chúng sinh sẽ chứng ngộ Pháp, và Uggasena cũng sẽ chứng A-la-hán quả.”
Tatra ahaṃ catuppadikaṃ gāthaṃ desessāmi, taṃ sutvā caturāsītiyā pāṇasahassānaṃ dhammābhisamayo bhavissati, uggasenopi arahatte patiṭṭhahissatī’’ti aññāsi.
There I shall preach a four-lined verse, and hearing it, eighty-four thousand beings will attain the Dhamma, and Uggasena will also be established in Arahantship."
Đức Thế Tôn biết rằng: “Ngày mai, con trai của trưởng giả sẽ đứng trên đỉnh sào để biểu diễn nghệ thuật, và đại chúng sẽ tụ tập để xem. Ở đó, Ta sẽ thuyết một bài kệ bốn câu, và sau khi nghe bài kệ đó, tám vạn bốn ngàn chúng sinh sẽ chứng ngộ Pháp, và Uggasena cũng sẽ chứng A-la-hán quả.”
Satthā punadivase kālaṃ sallakkhetvā bhikkhusaṅghaparivuto rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi.
The Teacher, having noted the time on the next day, entered Rājagaha for alms, surrounded by the Sangha of bhikkhus.
Sáng hôm sau, Đức Thế Tôn nhận biết thời điểm thích hợp, cùng với hội chúng Tỳ-kheo, Ngài vào Rājagaha để khất thực.
Uggasenopi satthari antonagaraṃ apaviṭṭheyeva unnādanatthāya mahājanassa aṅgulisaññaṃ datvā vaṃsamatthake patiṭṭhāya ākāseyeva satta vāre parivattitvā oruyha vaṃsamatthake aṭṭhāsi.
Uggasena also, even before the Teacher had entered the city, gave a signal with his finger to the crowd to make a loud noise, then stood on the top of the bamboo pole, revolved seven times in the air, descended, and stood on the top of the bamboo pole.
Uggasena, trước khi Đức Thế Tôn vào thành, đã ra hiệu bằng ngón tay cho đại chúng để gây sự chú ý, rồi đứng trên đỉnh sào, xoay tròn bảy lần trên không trung, sau đó hạ xuống và đứng trên đỉnh sào.
Tasmiṃ khaṇe satthā nagaraṃ pavisanto yathā taṃ parisā na oloketi, evaṃ katvā attānameva olokāpesi.
At that moment, the Teacher, entering the city, made it so that the assembly did not look at Uggasena, but looked only at himself.
Vào khoảnh khắc đó, Đức Thế Tôn, khi vào thành, đã làm cho đại chúng không nhìn Uggasena mà chỉ nhìn chính Ngài.
Uggaseno parisaṃ oloketvā ‘‘na maṃ parisā oloketī’’ti domanassappatto ‘‘idaṃ mayā saṃvacchare kattabbaṃ sippaṃ, satthari nagaraṃ pavisante parisā maṃ anoloketvā satthārameva oloketi, moghaṃ vata me sippadassanaṃ jāta’’nti cintesi.
Uggasena looked at the assembly and, becoming dejected, thought, "The assembly is not looking at me! This is a skill I am to perform once a year. When the Teacher entered the city, the assembly did not look at me, but looked only at the Teacher. My skill display has become futile!"
Uggasena nhìn đại chúng và buồn bã nghĩ: “Đại chúng không nhìn mình! Đây là nghệ thuật mà mình phải biểu diễn mỗi năm một lần, vậy mà khi Đức Thế Tôn vào thành, đại chúng không nhìn mình mà chỉ nhìn Đức Thế Tôn. Thật vô ích khi mình biểu diễn nghệ thuật!”
Evañca pana vatvā vaṃsamatthakato vehāsaṃ abbhuggantvā ākāseva cuddasakkhattuṃ parivattitvā oruyha vaṃsamatthakeva aṭṭhāsi.
Having said this, he sprang up into the air from the top of the bamboo pole, revolved fourteen times in the air, descended, and stood on the very top of the bamboo pole.
Nói xong như vậy, anh ta từ đỉnh sào bay vút lên không trung, xoay tròn mười bốn lần trên không, rồi hạ xuống và đứng yên trên đỉnh sào.
Atha naṃ satthā, ‘‘uggasena, paṇḍitena nāma atītānāgatapaccuppannesu khandhesu ālayaṃ pahāya jātiādīhi muccituṃ vaṭṭatī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
Then the Teacher, saying to him, "Uggasena, a wise person should abandon attachment to past, future, and present aggregates, and be liberated from birth and so forth," spoke this verse:
Khi đó, Đức Thế Tôn nói với anh ta: “Này Uggasena, bậc trí nên từ bỏ sự chấp trước vào các uẩn trong quá khứ, vị lai và hiện tại, để giải thoát khỏi sinh, già, v.v.,” rồi Ngài nói bài kệ này:
Tattha muñca pureti atītesu khandhesu ālayaṃ nikantiṃ ajjhosānaṃ patthanaṃ pariyuṭṭhānaṃ gāhaṃ parāmāsaṃ taṇhaṃ muñca.
Here, release the past means to release attachment, delight, infatuation, longing, obsession, grasping, clinging, and craving for the past aggregates.
Trong kệ đó, buông bỏ cái cũ nghĩa là hãy buông bỏ sự chấp trước, sự ưa thích, sự chìm đắm, sự mong cầu, sự chi phối, sự nắm giữ, sự sai lầm, sự tham ái vào các uẩn trong quá khứ.
Pacchatoti anāgatesupi khandhesu ālayādīni muñca.
Release the future means to release attachment and so forth for the future aggregates as well.
Cái sau nghĩa là hãy buông bỏ sự chấp trước, v.v., vào các uẩn trong vị lai.
Majjheti paccuppannesupi tāni muñca.
Majjhe means, release those in the present (aggregates) as well.
Majjheti (ở giữa): hãy từ bỏ chúng cả trong hiện tại.
Bhavassa pāragūti evaṃ sante tividhassāpi bhavassa abhiññāpariññāpahānabhāvanāsacchikiriyavasena pāragū pāraṅgato hutvā khandhadhātuāyatanādibhede sabbasaṅkhate vimuttamānaso viharanto puna jātijarāmaraṇāni na upagacchatīti attho.
Bhavassa pāragū means: When this is so, having become one who has gone to the far shore of the three kinds of existence (bhava) by way of direct knowledge (abhiññā), full understanding (pariññā), abandonment (pahāna), development (bhāvanā), and realization (sacchikiriyā), and dwelling with a mind liberated from all conditioned things (saṅkhata) such as aggregates (khandha), elements (dhātu), and sense-bases (āyatana), one does not again undergo birth, aging, and death; this is the meaning.
Bhavassa pāragū (đã qua bờ hữu) nghĩa là: Khi đã như vậy, người đã đạt đến bờ bên kia của ba loại hữu, bằng cách liễu tri (abhiññā), toàn tri (pariññā), đoạn trừ (pahāna), tu tập (bhāvanā) và chứng ngộ (sacchikiriyā) các hữu, đã trở thành người vượt bờ, với tâm giải thoát khỏi tất cả pháp hữu vi, được phân biệt thành uẩn, giới, xứ, v.v., sống một đời không còn tái sinh, già, chết nữa.
Desanāvasāne caturāsītiyā pāṇasahassānaṃ dhammābhisamayo ahosi.
At the end of the discourse, the realization of the Dhamma occurred for eighty-four thousand beings.
Khi bài giảng kết thúc, tám vạn bốn ngàn chúng sinh đã chứng ngộ Pháp.
Seṭṭhiputtopi vaṃsamatthake ṭhitakova saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā vaṃsato oruyha satthu santikaṃ āgantvā pañcapatiṭṭhitena satthāraṃ vanditvā pabbajjaṃ yāci.
The merchant's son, while still standing at the top of the pole, attained Arahantship together with the four paṭisambhidā, descended from the pole, came to the Teacher, worshipped the Teacher with the five-point prostration, and requested ordination.
Con trai của vị trưởng giả, trong khi vẫn đứng trên đỉnh cây sào, đã đạt được A-la-hán quả cùng với Tứ Vô Ngại Giải (paṭisambhidā). Sau đó, ông xuống khỏi cây sào, đến gần Đức Phật, đảnh lễ Ngài bằng năm điểm chạm đất và cầu xin xuất gia.
Atha naṃ satthā dakkhiṇahatthaṃ pasāretvā ‘‘ehi bhikkhū’’ti āha.
Then the Teacher extended his right hand and said, “Come, bhikkhu!”
Bấy giờ, Đức Phật đưa tay phải ra và nói: “Này Tỳ-kheo, hãy đến đây!”
So tāvadeva aṭṭhaparikkhāradharo saṭṭhivassikatthero viya ahosi.
Immediately, he became one bearing the eight requisites, like an elder of sixty vassas.
Ngay lập tức, ông trở thành một vị Trưởng lão như đã an cư sáu mươi năm, với đầy đủ tám vật dụng của một Tỳ-kheo.
Atha naṃ bhikkhū, ‘‘āvuso uggasena, saṭṭhihatthassa te vaṃsassa matthakato otarantassa bhayaṃ nāma nāhosī’’ti pucchitvā ‘‘natthi me, āvuso, bhaya’’nti vutte satthu ārocesuṃ, ‘‘bhante, uggaseno ‘na bhāyāmī’ti vadati, abhūtaṃ vatvā aññaṃ byākarotī’’ti.
Then the bhikkhus asked him, “Friend Uggasena, when you descended from the top of the sixty-cubit pole, did you not feel any fear?” And when he replied, “Friends, I have no fear,” they reported to the Teacher, “Venerable Sir, Uggasena says, ‘I am not afraid,’ speaking falsely and making a different declaration.”
Sau đó, các Tỳ-kheo hỏi ông: “Này Hiền giả Uggasena, khi từ đỉnh cây sào cao sáu mươi cubit xuống, Hiền giả có sợ hãi không?” Khi ông trả lời: “Này Hiền giả, tôi không sợ hãi,” các Tỳ-kheo đã trình lên Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, Uggasena nói ‘con không sợ hãi,’ ông ấy đã nói điều không có thật và tuyên bố một điều khác.”
Satthā ‘‘na, bhikkhave, mama puttena uggasenena sadisā chinnasaṃyojanā bhikkhū bhāyanti, na tasantī’’ti vatvā brāhmaṇavagge imaṃ gāthamāha –
The Teacher said, “Bhikkhus, bhikkhus like my son Uggasena, whose fetters are cut, do not fear, nor do they tremble,” and then he spoke this verse in the Brāhmaṇa Vagga:
Đức Phật nói: “Này các Tỳ-kheo, những Tỳ-kheo đã đoạn trừ các kiết sử (saṃyojana) như con trai của Ta, Uggasena, không sợ hãi, không run rẩy,” rồi Ngài thuyết bài kệ này trong phẩm Bà-la-môn:
Desanāvasāne bahūnaṃ dhammābhisamayo ahosi.
At the end of the discourse, the realization of the Dhamma occurred for many.
Khi bài giảng kết thúc, nhiều người đã chứng ngộ Pháp.
Punekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘kiṃ nu kho, āvuso, evaṃ arahattūpanissayasampannassa bhikkhuno naṭadhītaraṃ nissāya naṭehi saddhiṃ vicaraṇakāraṇaṃ, kiṃ arahattūpanissayakāraṇa’’nti?
Then, one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall, saying, “Friends, what was the reason for this bhikkhu, who was endowed with the proximate cause for Arahantship, to wander with dancers, relying on a dancer’s daughter? What was the reason for the proximate cause of Arahantship?”
Một ngày khác, các Tỳ-kheo đã khởi lên cuộc đàm luận trong Pháp đường: “Này các Hiền giả, tại sao một Tỳ-kheo có duyên lành chứng đắc A-la-hán quả như vậy lại phải sống chung với các nghệ sĩ vì một cô con gái nghệ sĩ? Điều gì là nguyên nhân của duyên lành chứng đắc A-la-hán quả đó?”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte, ‘‘bhikkhave, ubhayampetaṃ iminā eva kata’’nti vatvā tamatthaṃ pakāsetuṃ atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, “Bhikkhus, what is the topic of discussion you are gathered for now?” And when they replied, “This is it, Venerable Sir,” he said, “Bhikkhus, both of these were done by this very person,” and to explain the matter, he recounted a past story.
Đức Phật đến hỏi: “Này các Tỳ-kheo, hiện tại các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì?” Khi được trả lời: “Về chuyện này, bạch Thế Tôn,” Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, cả hai điều này đều do người này tạo tác,” rồi Ngài kể lại một câu chuyện quá khứ để làm sáng tỏ vấn đề.
Atīte kira kassapadasabalassa suvaṇṇacetiye kariyamāne bārāṇasivāsino kulaputtā bahuṃ khādanīyabhojanīyaṃ yānakesu āropetvā ‘‘hatthakammaṃ karissāmā’’ti cetiyaṭṭhānaṃ gacchantā antarāmagge ekaṃ theraṃ piṇḍāya pavisantaṃ passiṃsu.
It is said that in the past, when a golden cetiya was being built for Kassapa the Ten-Powered One, young men from Bārāṇasī loaded much food and drink onto carts and went to the cetiya site, saying, “We will do manual labor.” On the way, they saw an elder entering for alms.
Thuở xưa, khi bảo tháp vàng của Đức Phật Kassapa Thập Lực đang được xây dựng, các thiện nam tử ở Ba-la-nại đã chất đầy thức ăn và đồ uống lên xe, rồi nói: “Chúng ta sẽ đi làm công quả,” và đi đến nơi xây tháp. Trên đường đi, họ thấy một vị Trưởng lão đang đi khất thực.
Athekā kuladhītā theraṃ oloketvā sāmikaṃ āha – ‘‘sāmi, ayyo, piṇḍāya pavisati, yānake ca no bahuṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ, pattamassa āhara, bhikkhaṃ dassāmā’’ti.
Then a certain young lady, seeing the elder, said to her husband, “My lord, the elder is entering for alms, and we have much food and drink in our cart. Bring his bowl, we will give alms.”
Bấy giờ, một cô gái con nhà gia thế nhìn thấy vị Trưởng lão và nói với chồng: “Chàng ơi, Tôn giả đang đi khất thực. Chúng ta có rất nhiều thức ăn và đồ uống trên xe. Chàng hãy mang bát của Ngài đến, chúng ta sẽ cúng dường.”
So taṃ pattaṃ āharitvā khādanīyabhojanīyassa pūretvā therassa hatthe patiṭṭhapetvā ubhopi patthanaṃ kariṃsu, ‘‘bhante, tumhehi diṭṭhadhammasseva bhāgino bhaveyyāmā’’ti.
He brought the bowl, filled it with food and drink, placed it in the elder’s hands, and both of them made a wish, saying, “Venerable Sir, may we be sharers of the Dhamma you have realized.”
Người chồng mang bát đến, đổ đầy thức ăn và đồ uống vào, rồi đặt vào tay vị Trưởng lão. Cả hai vợ chồng cùng ước nguyện: “Bạch Tôn giả, xin cho chúng con được chia sẻ Pháp mà Tôn giả đã chứng ngộ.”
Sopi thero khīṇāsavova, tasmā olokento tesaṃ patthanāya samijjhanabhāvaṃ ñatvā sitaṃ akāsi.
That elder was also an Arahant (khīṇāsava), so looking at them, he knew that their wish would be fulfilled and smiled.
Vị Trưởng lão đó là một vị A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc (khīṇāsava). Vì vậy, khi nhìn thấy, Ngài biết rằng ước nguyện của họ sẽ thành tựu, nên Ngài mỉm cười.
Taṃ disvā sā itthī sāmikaṃ āha – ‘‘amhākaṃ, ayyo, sitaṃ karoti, eko naṭakārako bhavissatī’’ti.
Seeing this, the woman said to her husband, “The Venerable One smiles at us; one of us will become a dancer.”
Thấy vậy, người vợ nói với chồng: “Tôn giả mỉm cười với chúng ta, một diễn viên sẽ xuất hiện.”
Sāmikopissā ‘‘evaṃ bhavissati, bhadde’’ti vatvā pakkāmi.
Her husband also said to her, “So it will be, my dear,” and departed.
Người chồng cũng nói với vợ: “Đúng vậy, thưa nàng,” rồi bỏ đi.
Idaṃ tesaṃ pubbakammaṃ.
This was their past kamma.
Đây là nghiệp quá khứ của họ.
Te tattha yāvatāyukaṃ ṭhatvā devaloke nibbattitvā tato cavitvā sā itthī naṭagehe nibbatti, puriso seṭṭhigehe.
Having lived their full lifespan there, they were reborn in the deva world, and after passing away from there, the woman was reborn in a dancer’s family, and the man in a merchant’s family.
Sau khi sống trọn tuổi thọ ở đó, họ tái sinh vào cõi trời. Từ đó, người vợ tái sinh vào nhà nghệ sĩ, còn người chồng tái sinh vào nhà trưởng giả.
So ‘‘evaṃ, bhadde, bhavissatī’’ti tassā paṭivacanassa dinnattā naṭehi saddhiṃ vicari.
Because he had given the reply to her, “So it will be, my dear,” he wandered with the dancers.
Vì đã đáp lại vợ rằng “Đúng vậy, thưa nàng,” nên anh ta đã sống chung với các nghệ sĩ.
Khīṇāsavattherassa dinnapiṇḍapātaṃ nissāya arahattaṃ pāpuṇi.
He attained Arahantship by virtue of the alms-food given to the Arahant elder.
Nhờ sự cúng dường bát cơm cho vị Trưởng lão A-la-hán, anh ta đã đạt được A-la-hán quả.
Sāpi naṭadhītā ‘‘yā me sāmikassa gati, mayhampi sā eva gatī’’ti pabbajitvā arahatte patiṭṭhahīti.
That dancer’s daughter also, reflecting, “Whatever destiny my husband has, that same destiny is mine,” went forth and became established in Arahantship.
Cô con gái nghệ sĩ đó cũng suy nghĩ: “Số phận của chồng ta thế nào thì số phận của ta cũng thế ấy,” rồi xuất gia và an trú trong A-la-hán quả.
Eko kira daharabhikkhu salākagge attano pattasalākaṃ gahetvā salākayāguṃ ādāya āsanasālaṃ gantvā pivi.
It is said that a certain young bhikkhu, having taken his own meal ticket from the end of the ticket hall, took the ticket porridge and went to the dining hall and drank it.
Một Tỳ-kheo trẻ nọ, sau khi lấy phiếu ăn của mình ở nơi phát phiếu, mang cháo phiếu đến sảnh ăn và uống.
Tattha udakaṃ alabhitvā udakatthāya ekaṃ gharaṃ agamāsi.
Not finding water there, he went to a certain house for water.
Ở đó, không tìm thấy nước, ông đi đến một ngôi nhà để xin nước.
Tattha taṃ ekā kumārikā disvāva uppannasinehā, ‘‘bhante, puna pānīyena atthe sati idheva āgaccheyyāthā’’ti āha.
In that house, a certain young girl, as soon as she saw him, felt affection for him and said, “Venerable sir, if you need drinking water again, please come to this very house of ours.”
Tại đó, một cô gái trẻ vừa nhìn thấy ông đã nảy sinh tình cảm và nói: “Bạch Tôn giả, nếu sau này cần nước uống, xin hãy đến đây.”
So tato paṭṭhāya yadā pānīyaṃ na labhati, tadā tattheva gacchati.
From that day onwards, whenever he did not find water, he would go to that very house.
Từ đó trở đi, mỗi khi không tìm được nước uống, ông lại đến ngôi nhà đó.
Sāpissa pattaṃ gahetvā pānīyaṃ deti.
And she would take his bowl and give him drinking water.
Cô gái đó cũng nhận bát của ông và dâng nước uống.
Evaṃ gacchante kāle yāgumpi datvā punekadivasaṃ tattheva nisīdāpetvā bhattaṃ adāsi.
As time passed in this manner, she also gave him porridge, and then one day, she made him sit there and gave him a meal.
Cứ thế, thời gian trôi qua, cô gái không chỉ dâng cháo mà một ngày nọ còn mời ông ngồi lại đó và dâng cơm.
Santike cassa nisīditvā, ‘‘bhante, imasmiṃ gehe na kiñci natthi nāma, kevalaṃ mayaṃ vicaraṇakamanussameva na labhāmā’’ti kathaṃ samuṭṭhāpesi.
Sitting near him, she started a conversation, saying, “Venerable sir, there is nothing lacking in this house; we just don’t have anyone to manage things.”
Ngồi gần ông, cô gái khởi lên câu chuyện: “Bạch Tôn giả, trong nhà này không thiếu thứ gì cả, chỉ là chúng con không có người quản lý.”
So kathipāheneva tassā kathaṃ sutvā ukkaṇṭhi.
Having heard her words after a couple of days, that bhikkhu became discontent.
Ông Tỳ-kheo, sau khi nghe câu chuyện của cô gái chỉ sau vài ngày, đã cảm thấy chán nản.
Atha naṃ ekadivasaṃ āgantukā bhikkhū disvā ‘‘kasmā tvaṃ, āvuso, kiso uppaṇḍupaṇḍukajātosī’’ti pucchitvā ‘‘ukkaṇṭhitomhi, āvuso’’ti vutte ācariyupajjhāyānaṃ santikaṃ nayiṃsu.
Then one day, visiting bhikkhus saw him and asked, “Friend, why are you so thin and pale, like a faded leaf?” When he replied, “Friends, I am discontent,” they led him to his teachers and preceptors.
Một ngày nọ, các Tỳ-kheo khách thấy ông và hỏi: “Này Hiền giả, tại sao Hiền giả lại gầy gò, xanh xao như vậy?” Khi ông trả lời: “Này các Hiền giả, tôi cảm thấy chán nản,” họ đã dẫn ông đến gặp các vị thầy và thầy tế độ của ông.
Tepi naṃ satthu santikaṃ netvā tamatthaṃ ārocesuṃ.
They, too, led him to the Teacher and reported the matter.
Các vị ấy cũng dẫn ông đến gặp Đức Phật và trình bày sự việc.
Satthā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti pucchitvā ‘‘sacca’’nti vutte ‘‘kasmā tvaṃ mādisassa āraddhavīriyassa buddhassa sāsane pabbajitvā ‘sotāpanno’ti vā ‘sakadāgāmī’ti vā attānaṃ avadāpetvā ‘ukkaṇṭhito’ti vadāpesi, bhāriyaṃ te kammaṃ kata’’nti vatvā ‘‘kiṃ kāraṇā ukkaṇṭhitosī’’ti pucchi.
The Teacher asked, “Is it true, bhikkhu, that you are discontent?” When he said, “It is true,” the Teacher said, “Why, having gone forth in the Dispensation of a Buddha like me, who has aroused great energy, do you allow yourself to be called ‘discontent’ instead of ‘a Stream-enterer’ or ‘a Once-returner’? You have done a grave deed.” Having said this, he asked, “For what reason are you discontent?”
Đức Phật hỏi: “Này Tỳ-kheo, có thật là ông cảm thấy chán nản không?” Khi ông trả lời: “Thật vậy,” Đức Phật nói: “Tại sao ông lại xuất gia trong giáo pháp của một Đức Phật đầy tinh tấn như Ta, mà không tự xưng là ‘Bậc Nhập Lưu’ hay ‘Bậc Nhất Lai’ mà lại tự xưng là ‘chán nản’? Ông đã tạo nghiệp nặng rồi!” Rồi Ngài hỏi: “Vì lý do gì mà ông chán nản?”
‘‘Bhante, ekā maṃ itthī evamāhā’’ti vutte, ‘‘bhikkhu, anacchariyaṃ etaṃ tassā kiriyaṃ.
When he replied, “Venerable sir, a certain woman told me thus,” the Teacher said, “Bhikkhu, this action of hers is not surprising.
Khi ông trả lời: “Bạch Thế Tôn, một người phụ nữ đã nói với con như vậy,” Đức Phật nói: “Này Tỳ-kheo, hành động của cô ta không có gì đáng ngạc nhiên.
Sā hi pubbe sakalajambudīpe aggadhanuggahapaṇḍitaṃ pahāya taṃmuhuttadiṭṭhake ekasmiṃ sinehaṃ uppādetvā taṃ jīvitakkhayaṃ pāpesī’’ti vatvā tassatthassa pakāsanatthaṃ bhikkhūhi yācito –
For in the past, she abandoned the foremost master archer in the entire Jambudīpa and developed affection for a man she had seen just that moment, and caused the master archer to lose his life.” Having said this, and being requested by the bhikkhus to clarify that matter, he recounted the past story:
Trước đây, cô ta đã bỏ một vị hiền trí cung thủ giỏi nhất toàn cõi Diêm Phù Đề, nảy sinh tình cảm với một người vừa mới gặp, và đã khiến người ấy mất mạng.” Sau đó, theo lời thỉnh cầu của các Tỳ-kheo, để làm sáng tỏ sự việc, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ:
Atīte cūḷadhanuggahapaṇḍitakāle takkasilāyaṃ disāpāmokkhassa ācariyassa santike sippaṃ uggahetvā tena tuṭṭhena dinnaṃ dhītaraṃ ādāya bārāṇasiṃ gacchantassa ekasmiṃ aṭavimukhe ekūnapaññāsāya kaṇḍehi ekūnapaññāsacore māretvā kaṇḍesu khīṇesu corajeṭṭhakaṃ gahetvā bhūmiyaṃ pātetvā, ‘‘bhadde, asiṃ āharā’’ti vutte tāya taṅkhaṇaṃ diṭṭhacore sinehaṃ katvā corassa hatthe asitharuṃ ṭhapetvā corena dhanuggahapaṇḍitassa māritabhāvaṃ āvikatvā corena ca taṃ ādāya gacchantena ‘‘mampi esā aññaṃ disvā attano sāmikaṃ viya mārāpessati, kiṃ me imāyā’’ti ekaṃ nadiṃ disvā orimatīre taṃ ṭhapetvā tassā bhaṇḍakaṃ ādāya ‘‘tvaṃ idheva hohi, yāvāhaṃ bhaṇḍikaṃ uttāremī’’ti tattheva taṃ pahāya gamanabhāvañca āvikatvā –
In the past, during the time of the Cūḷadhanuggaha Paṇḍita, after he had learned his craft from the chief teacher in Takkasilā, and the teacher, being pleased, had given him his daughter, he was traveling to Bārāṇasī. At the entrance to a certain forest, he killed forty-nine robbers with forty-nine arrows. When his arrows were exhausted, he seized the chief robber, threw him to the ground, and said, “My dear, bring me the sword.” When he said this, the woman, having conceived affection for the robber she had just seen, placed the hilt of the sword in the robber’s hand. The robber then killed the master archer. The Teacher also revealed how the robber, taking the woman with him, thought, “This woman, seeing someone else, will make him kill me just as she did her husband. What use is she to me?” And seeing a river, he left her on the near bank, took her belongings, and said, “You stay here until I carry the bundle across,” and then abandoned her there and went away.
Thuở xưa, vào thời Cūḷadhanuggahapaṇḍita, một người đã học nghệ thuật từ vị đạo sư danh tiếng ở Takkasilā, được vị đạo sư hài lòng gả con gái cho. Khi đang trên đường về Ba-la-nại, tại cửa rừng, anh ta đã giết bốn mươi chín tên cướp bằng bốn mươi chín mũi tên. Khi tên đã hết, anh ta bắt tên cướp đầu sỏ, quật xuống đất và nói: “Nàng ơi, hãy mang gươm đến.” Nhưng cô vợ lúc đó lại nảy sinh tình cảm với tên cướp vừa mới thấy, đặt cán gươm vào tay tên cướp, và tên cướp đã giết Cung thủ hiền trí. Tên cướp dẫn cô ta đi, nhưng rồi lại suy nghĩ: “Cô ta có thể thấy người khác và lại sai người giết ta như đã làm với chồng mình. Ta cần gì cô ta?” Thế là, khi thấy một con sông, hắn để cô ta ở bờ bên này, lấy hết đồ đạc của cô ta và nói: “Nàng hãy ở lại đây, ta sẽ đưa hành lý qua sông.” Rồi hắn bỏ rơi cô ta ở đó và bỏ đi.
Imaṃ pañcakanipāte cūḷadhanuggahajātakaṃ vitthāretvā ‘‘tadā cūḷadhanuggahapaṇḍito tvaṃ ahosi, sā itthī etarahi ayaṃ kumārikā, siṅgālarūpena āgantvā tassā niggahakārako sakko devarājā ahamevā’’ti vatvā ‘‘evaṃ sā itthī taṃmuhuttadiṭṭhake ekasmiṃ sinehena sakalajambudīpe aggapaṇḍitaṃ jīvitā voropesi, taṃ itthiṃ ārabbha uppannaṃ tava taṇhaṃ chinditvā viharāhi bhikkhū’’ti taṃ ovaditvā uttarimpi dhammaṃ desento imā dve gāthā abhāsi –
Having elaborated on this Cūḷadhanuggaha Jātaka in the Pañcakanipāta, and having said, "At that time, you were the wise Cūḷadhanuggaha, and that woman is now this young maiden. I, Sakka, the king of devas, was the one who came in the form of a jackal and brought about her downfall," and having admonished that bhikkhu, "Thus, that woman, out of affection for a thief seen for just a moment, deprived the foremost wise man in the entire Jambudīpa of his life. Therefore, bhikkhu, cut off the craving that has arisen in you concerning that woman and dwell in peace," the Teacher, desiring to preach further Dhamma, spoke these two verses:
Sau khi kể rộng Jātaka Cūḷadhanuggaha trong Pañcakanipāta này, Đức Phật nói: “Khi ấy, vị hiền giả Cūḷadhanuggaha chính là ngươi, còn người phụ nữ kia nay là cô gái này. Ta, Sakka, vua chư thiên, đã đến dưới hình dạng con chó rừng để trừng phạt cô ta.” Và sau khi khuyên vị tỳ khưu ấy rằng: “Người phụ nữ đó vì tình yêu với một tên trộm mà cô ta vừa thấy trong khoảnh khắc đã giết chết vị hiền giả tối thượng của toàn cõi Jambudīpa. Này tỳ khưu, hãy đoạn trừ tham ái của ngươi đối với người phụ nữ đó và an trú!”, Ngài tiếp tục thuyết pháp và nói hai bài kệ này:
Tattha vitakkamathitassāti kāmavitakkādīhi vitakkehi nimmathitassa.
Therein, vitakkamathitassa means: tormented by thoughts such as sensual thoughts.
Trong đó, vitakkamathitassa có nghĩa là bị các tư duy như dục tư duy (kāmavitakka) khuấy động.
Tibbarāgassāti bahalarāgassa.
Tibbarāgassa means: having thick passion.
Tibbarāgassa có nghĩa là có tham ái mạnh mẽ.
Subhānupassinoti iṭṭhārammaṇe subhanimittagāhādivasena vissaṭṭhamānasatāya subhanti anupassantassa.
Subhānupassino means: one who repeatedly observes as beautiful, due to a mind released by grasping at a beautiful sign in a desirable object.
Subhānupassino có nghĩa là người luôn thấy điều tốt đẹp bằng cách nắm giữ tướng tốt đẹp (subhanimitta) trên đối tượng khả ái (iṭṭhārammaṇa), v.v., do tâm phóng dật.
Taṇhāti evarūpassa jhānādīsu ekampi na vaḍḍhati, atha kho chadvārikā taṇhāyeva bhiyyo vaḍḍhati.
Taṇhā means: for such a person, not even one of the jhāna states, etc., increases; rather, it is craving through the six doors that increases further.
Taṇhā có nghĩa là đối với người như vậy, dù chỉ một thiền định cũng không tăng trưởng, mà chính tham ái sáu cửa (chadvārika taṇhā) lại tăng trưởng hơn nữa.
Esa khoti eso puggalo taṇhābandhanaṃ daḷhaṃ suthiraṃ karoti.
Esa kho means: this person makes the bond of craving firm and stable.
Esa kho có nghĩa là người ấy làm cho sự trói buộc của tham ái trở nên vững chắc, kiên cố.
Vitakkūpasameti micchāvitakkādīnaṃ vūpasamasaṅkhāte dasasu asubhesu paṭhamajjhāne.
Vitakkūpasame means: in the first jhāna, which is called the calming of wrong thoughts, etc., among the ten asubha meditations.
Vitakkūpasame có nghĩa là trong thiền thứ nhất (paṭhamajjhāna) liên quan đến mười pháp bất tịnh (asubha) được gọi là sự lắng dịu của các tà tư duy (micchāvitakka), v.v.
Sadā satoti yo ettha abhirato hutvā niccaṃ upaṭṭhitasatitāya sato taṃ asubhajhānaṃ bhāveti.
Sadā sato means: whoever, delighting therein, always cultivates that asubha jhāna, being mindful due to ever-present mindfulness.
Sadā sato có nghĩa là người nào hoan hỷ trong thiền định này, luôn tỉnh giác với chánh niệm hiện tiền, quán tưởng thiền bất tịnh đó.
Byanti kāhitīti esa bhikkhu tīsu bhavesu uppajjanakaṃ taṇhaṃ vigatantaṃ karissati.
Byanti kāhiti means: this bhikkhu will bring to an end the craving that arises in the three existences.
Byanti kāhiti có nghĩa là vị tỳ khưu ấy sẽ làm cho tham ái phát sinh trong ba cõi không còn nữa.
Mārabandhananti eso tebhūmakavaṭṭasaṅkhātaṃ mārabandhanampi chindissatīti attho.
Mārabandhana means: the meaning is that this person will also cut Māra's bond, which is called the saṃsāra of the three realms.
Mārabandhana có nghĩa là người ấy sẽ cắt đứt cả sự trói buộc của Māra, tức là vòng luân hồi ba cõi (tebhūmakavaṭṭa).
Ekadivasañhi vikāle sambahulā therā jetavanavihāraṃ pavisitvā rāhulattherassa vasanaṭṭhānaṃ gantvā taṃ uṭṭhāpesuṃ.
One day, in the evening, many elder bhikkhus entered the Jetavana monastery and went to the dwelling place of Elder Rāhula and made him get up.
Vào một ngày nọ, vào buổi tối, nhiều vị Trưởng lão đã đi vào Tịnh xá Jetavana, đến chỗ ở của Trưởng lão Rāhula và bảo ngài đứng dậy.
So aññattha vasanaṭṭhānaṃ apassanto tathāgatassa gandhakuṭiyā pamukhe nipajji.
As he could not find another dwelling place, he lay down in front of the Tathāgata's Perfumed Chamber.
Ngài ấy, không tìm thấy chỗ ở nào khác, đã nằm ngủ ở phía trước Gandhakuti của Đức Như Lai.
Tadā so āyasmā arahattaṃ patto avassikova hoti.
At that time, that Venerable One had attained Arahantship but was still a novice (had not yet completed his rains retreat).
Khi ấy, Tôn giả ấy đã chứng đắc A-la-hán quả nhưng vẫn chưa thọ giới.
Māro vasavattibhavane ṭhitoyeva taṃ āyasmantaṃ gandhakuṭipamukhe nipannaṃ disvā cintesi – ‘‘samaṇassa gotamassa rujanakaaṅgulī bahi nipanno, sayaṃ antogandhakuṭiyaṃ nipanno, aṅguliyā pīḷiyamānāya sayampi pīḷito bhavissatī’’ti.
Māra, standing in his realm of Vasavattī, saw the Venerable One lying in front of the Perfumed Chamber and thought, "The painful finger of the recluse Gotama is lying outside, while he himself is lying inside the Perfumed Chamber. If the finger is pressed, he himself will be tormented."
Māra, đang ở trong cõi trời Vasavatti, thấy Tôn giả ấy nằm ngủ ở phía trước Gandhakuti, đã nghĩ: “Ngón tay bị đau của Sa-môn Gotama đang nằm bên ngoài, còn chính ngài thì nằm trong Gandhakuti. Khi ngón tay bị đau bị chèn ép, chính ngài cũng sẽ bị chèn ép.”
So mahantaṃ hatthirājavaṇṇaṃ abhinimminitvā āgamma soṇḍāya therassa matthakaṃ parikkhipitvā mahantena saddena koñcanādaṃ ravi.
So, creating the form of a great king elephant, he came, encircled the Elder's head with his trunk, and trumpeted loudly like a crane.
Hắn đã biến hóa thành một con voi chúa vĩ đại, đến quấn vòi quanh đầu của vị Trưởng lão và gầm lên một tiếng kêu lớn như tiếng chim kranh.
Satthā gandhakuṭiyaṃ nisinnova tassa mārabhāvaṃ ñatvā, ‘‘māra, tādisānaṃ satasahassenāpi mama puttassa bhayaṃ uppādetuṃ na sakkā.
The Teacher, sitting in the Perfumed Chamber, knew that it was Māra, and said, "Māra, even a hundred thousand such as you cannot cause fear to my son.
Đức Bổn Sư, đang ngồi trong Gandhakuti, biết đó là Māra, liền nói: “Māra, dù có hàng trăm ngàn con voi như vậy cũng không thể làm cho con trai của Ta sợ hãi.
Putto hi me asantāsī vītataṇho mahāvīriyo mahāpañño’’ti vatvā imā gāthā abhāsi –
For my son is fearless, free from craving, of great energy, and of great wisdom," and then spoke these verses:
Con trai của Ta không hề sợ hãi, đã đoạn trừ ái dục, có đại tinh tấn, có đại trí tuệ,” rồi Ngài thuyết lên những vần kệ này:
Tattha niṭṭhaṅgatoti imasmiṃ sāsane pabbajitānaṃ arahattaṃ niṭṭhaṃ nāma, taṃ gato pattoti attho.
Therein, niṭṭhaṅgato means: Arahantship is called the completion for those who have gone forth in this Dispensation; he has reached, attained, that. This is the meaning.
Ở đây, niṭṭhaṅgato có nghĩa là: A-la-hán quả là sự cứu cánh đối với những người xuất gia trong giáo pháp này, đã đạt đến, đã chứng đắc quả vị đó.
Asantāsīti abbhantare rāgasantāsādīnaṃ abhāvena asantasanako.
Asantāsī means: one who is fearless due to the absence of inner fears such as the fear of passion.
Asantāsī có nghĩa là không sợ hãi do không có sự sợ hãi của tham ái và các phiền não tương tự bên trong.
Acchindi bhavasallānīti sabbānipi bhavagāmīni sallāni acchindi.
Acchindi bhavasallāni means: he has cut off all darts that lead to existence.
Acchindi bhavasallāni có nghĩa là đã nhổ bỏ tất cả các mũi tên dẫn đến sự tái sinh.
Samussayoti ayaṃ etassa antimo deho.
Samussayo means: this is his final body.
Samussayo có nghĩa là đây là thân cuối cùng của vị ấy.
Anādānoti khandhādīsu niggahaṇo.
Anādāno means: not grasping at aggregates (khandhas), etc.
Anādāno có nghĩa là không chấp thủ vào các uẩn, v.v.
Niruttipadakovidoti niruttiyañca sesapadesu cāti catūsupi paṭisambhidāsu chekoti attho.
Niruttipadakovido means skilled in the four paṭisambhidās, namely, in analysis (nirutti) and in the remaining terms.
Niruttipadakovido có nghĩa là thiện xảo trong cả bốn phân tích: ni-ruti và các từ ngữ còn lại.
Akkharānaṃ sannipātaṃ, jaññā pubbāparāni cāti akkharānaṃ sannipātasaṅkhātaṃ akkharapiṇḍañca jānāti, pubbakkharena aparakkharaṃ, aparakkharena pubbakkharañca jānāti.
Akkharānaṃ sannipātaṃ, jaññā pubbāparāni cā means he knows the combination of letters, which is called a cluster of letters, and he knows the preceding letter by the succeeding letter, and the succeeding letter by the preceding letter.
Akkharānaṃ sannipātaṃ, jaññā pubbāparāni ca có nghĩa là biết sự kết hợp của các chữ cái, tức là khối chữ cái, và biết chữ cái sau từ chữ cái trước, và chữ cái trước từ chữ cái sau.
Pubbakkharena aparakkharaṃ jānāti nāma – ādimhi paññāyamāne majjhapariyosānesu apaññāyamānesupi ‘‘imesaṃ akkharānaṃ idaṃ majjhaṃ, idaṃ pariyosāna’’nti jānāti.
To know the succeeding letter by the preceding letter means that when the beginning is apparent, even if the middle and end are not apparent, he knows: “This is the middle of these letters, this is the end.”
Biết chữ cái sau từ chữ cái trước có nghĩa là: khi chữ cái đầu tiên được nhận biết, dù các chữ cái ở giữa và cuối không được nhận biết, vị ấy vẫn biết: “Đây là chữ cái ở giữa, đây là chữ cái cuối cùng của những chữ cái này.”
Aparakkharena pubbakkharaṃ jānāti nāma – ante paññāyamāne ādimajjhesu apaññāyamānesu ‘‘imesaṃ akkharānaṃ idaṃ majjhaṃ, ayaṃ ādī’’ti jānāti.
To know the preceding letter by the succeeding letter means that when the end is apparent, even if the beginning and middle are not apparent, he knows: “This is the middle of these letters, this is the beginning.”
Biết chữ cái trước từ chữ cái sau có nghĩa là: khi chữ cái cuối cùng được nhận biết, dù các chữ cái ở đầu và giữa không được nhận biết, vị ấy vẫn biết: “Đây là chữ cái ở giữa, đây là chữ cái đầu tiên của những chữ cái này.”
Majjhe paññāyamānepi ‘‘imesaṃ akkharānaṃ ayaṃ ādi, ayaṃ anto’’ti jānāti.
Even when the middle is apparent, he knows: “This is the beginning of these letters, this is the end.”
Ngay cả khi chữ cái ở giữa được nhận biết, vị ấy vẫn biết: “Đây là chữ cái đầu tiên, đây là chữ cái cuối cùng của những chữ cái này.”
Evaṃ mahāpañño.
Thus, he is greatly wise.
Vì vậy, vị ấy là bậc Đại trí.
Sa ve antimasārīroti esa koṭiyaṃ ṭhitasarīro, mahantānaṃ atthadhammaniruttipaṭibhānānaṃ sīlakkhandhādīnañca pariggāhikāya paññāya samannāgatattā mahāpañño, ‘‘vimuttacittattā khvāhaṃ, sāriputta, mahāpurisoti vadāmī’’ti (saṃ. ni. 5.377) vacanato vimuttacittatāya ca mahāpurisoti vuccatīti attho.
Sa ve antimasārīro means that this person has his last body, being endowed with great wisdom capable of grasping the great paṭisambhidās of meaning, Dhamma, language, and intuition, as well as the aggregates of morality and so forth. He is called a great person (mahāpurisa) due to his liberated mind, as it is said: “Because my mind is liberated, Sāriputta, I call myself a great person.”
Sa ve antimasārīro (Người ấy là thân cuối cùng) có nghĩa là: Rahula này là người có thân đã an trụ ở cuối (đời), được gọi là bậc Đại Trí (mahāpañña) vì đầy đủ trí tuệ có khả năng thâu tóm các Tứ Vô Ngại Giải (Attha, Dhamma, Nirutti, Paṭibhāna) cao cả và các Uẩn Giới (Sīlakkhandha) v.v., và được gọi là bậc Đại Nhân (mahāpurisa) vì có tâm đã giải thoát, theo lời dạy: "Này Sāriputta, ta nói rằng ta là bậc Đại nhân vì có tâm đã giải thoát."
Ekasmiñhi samaye satthā pattasabbaññutaññāṇo bodhimaṇḍe sattasattāhaṃ vītināmetvā attano pattacīvaramādāya dhammacakkapavattanatthaṃ bārāṇasiṃ sandhāya aṭṭhārasayojanamaggaṃ paṭipanno antarāmagge upakaṃ ājīvakaṃ addasa.
Indeed, at one time, the Teacher, having attained omniscience, spent seven times seven days at the Bodhi Maṇḍa. Taking his bowl and robes, he set out on the eighteen-yojana road towards Bārāṇasī to set the Wheel of Dhamma in motion. On the way, he saw Upaka the Ājīvaka.
Một thời, Đức Thế Tôn, sau khi đã chứng đắc Biến Tri Tuệ (sabbaññutaññāṇa) và trải qua bảy tuần lễ tại Bồ-đề đạo tràng, Ngài mang theo y bát của mình, trên đường đi mười tám do-tuần hướng về Bārāṇasī để chuyển Pháp luân, Ngài đã gặp Upaka Ājīvaka trên đường.
Sopi satthāraṃ disvā ‘‘vippasannāni kho te, āvuso, indriyāni, parisuddho chavivaṇṇo pariyodāto, kaṃsi tvaṃ, āvuso, uddissa pabbajito, ko vā te satthā, kassa vā tvaṃ dhammaṃ rocesī’’ti pucchi.
Seeing the Teacher, Upaka asked: “Friend, your faculties are very clear, your complexion is pure and radiant. For whose sake, friend, have you gone forth? Who is your Teacher, or whose Dhamma do you approve of?”
Upaka đó thấy Đức Thế Tôn liền hỏi: "Này hiền giả, các căn của Ngài thật trong sáng, màu da Ngài thật thanh tịnh, rạng rỡ. Này hiền giả, Ngài xuất gia vì ai? Ai là thầy của Ngài? Ngài ưa thích giáo pháp của ai?"
Athassa satthā ‘‘mayhaṃ upajjhāyo vā ācariyo vā natthī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
Then the Teacher, saying, “I have no preceptor or teacher,” uttered this verse:
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với Upaka rằng: "Ta không có thầy tế độ hay thầy giáo thọ nào cả," rồi Ngài nói bài kệ này:
Tattha sabbābhibhūti sabbesaṃ tebhūmakadhammānaṃ abhibhavanato sabbābhibhū.
Here, sabbābhibhū means the all-overcomer because he has overcome all three-realm dhammas.
Trong đó, sabbābhibhū (kẻ chiến thắng tất cả) có nghĩa là chiến thắng tất cả các pháp tam giới.
Sabbavidūti viditasabbacatubhūmakadhammo.
Sabbavidū means one who has known all four-realm dhammas.
Sabbavidū (bậc Toàn tri) có nghĩa là người đã biết tất cả các pháp tứ giới.
Sabbesu dhammesūti sabbesupi tebhūmakadhammesu taṇhādiṭṭhīhi anūpalitto.
Sabbesu dhammesu means unstained by craving and wrong views in all three-realm dhammas.
Sabbesu dhammesu anūpalitto (không bị nhiễm ô bởi bất cứ pháp nào) có nghĩa là không bị tham ái và tà kiến làm nhiễm ô trong tất cả các pháp tam giới.
Sabbañjahoti sabbe tebhūmakadhamme jahitvā ṭhito.
Sabbañjaho means one who stands having abandoned all three-realm dhammas.
Sabbañjaho (từ bỏ tất cả) có nghĩa là người đã từ bỏ tất cả các pháp tam giới.
Taṇhakkhaye vimuttoti taṇhakkhayante uppādite taṇhakkhayasaṅkhāte arahatte asekhāya vimuttiyā vimutto.
Taṇhakkhaye vimutto means liberated with the asekha liberation in Arahantship, which is called the destruction of craving, having brought about the destruction of craving.
Taṇhakkhaye vimutto (giải thoát khỏi sự đoạn tận của tham ái) có nghĩa là đã giải thoát bằng sự giải thoát vô học (asekhā vimutti) trong A-la-hán quả, tức sự đoạn tận tham ái, khi sự đoạn tận tham ái đã được tạo ra.
Sayaṃ abhiññāyāti abhiññeyyādibhede dhamme sayameva jānitvā.
Sayaṃ abhiññāya means having known by himself the dhammas, such as those to be fully understood and so forth.
Với Sayaṃ abhiññāyā (tự mình thắng tri) nghĩa là tự mình đã biết các pháp thuộc loại có thể thắng tri (abhiññeyya) và các loại khác.
Kamuddiseyyanti ‘‘ayaṃ me upajjhāyo vā ācariyo vā’’ti kaṃ nāma uddiseyyanti.
Kamuddiseyya means whom should I point to, saying, “This is my preceptor or teacher”?
Với Kamuddiseyya (ta sẽ chỉ dẫn ai?) nghĩa là ‘Người này là thầy tế độ của ta hay là thầy y chỉ của ta’ thì ta sẽ chỉ dẫn ai?
Ekasmiñhi samaye tāvatiṃsadevaloke devatā sannipatitvā cattāro pañhe samuṭṭhāpesuṃ ‘‘kataraṃ dānaṃ nu kho dānesu, kataro raso rasesu, katarā rati ratīsu jeṭṭhakā, taṇhakkhayova kasmā jeṭṭhakoti vuccatī’’ti?
Indeed, at one time, the devas in the Tāvatiṃsa deva-realm assembled and raised four questions: “Which gift among gifts, which taste among tastes, which delight among delights is supreme? And why is the destruction of craving called supreme?”
Một thời nọ, các vị chư thiên ở cõi trời Tāvatiṃsa đã hội họp và đặt ra bốn câu hỏi: “Trong các loại bố thí, bố thí nào là tối thắng? Trong các loại hương vị, hương vị nào là tối thắng? Trong các loại hỷ lạc, hỷ lạc nào là tối thắng? Tại sao sự diệt trừ tham ái (taṇhakkhaya) lại được gọi là tối thắng?”
Te pañhe ekā devatāpi vinicchituṃ nāsakkhi.
Not a single deva was able to resolve these questions.
Không một vị chư thiên nào có thể giải đáp những câu hỏi đó.
Eko pana devo ekaṃ devaṃ, sopi aparanti evaṃ aññamaññaṃ pucchantā dasasu cakkavāḷasahassesu dvādasa saṃvaccharāni vicariṃsu.
One deva asked another deva, and that one also asked another, and so on, questioning each other, they wandered for twelve years in ten thousand world-systems.
Một vị chư thiên hỏi một vị khác, vị đó lại hỏi một vị khác, cứ thế họ hỏi lẫn nhau và đi khắp mười ngàn cõi giới trong mười hai năm.
Ettakenāpi kālena pañhānaṃ atthaṃ adisvā dasasahassacakkavāḷadevatā sannipatitvā catunnaṃ mahārājānaṃ santikaṃ gantvā ‘‘kiṃ, tātā, mahādevatāsannipāto’’ti vutte ‘‘cattāro pañhe samuṭṭhāpetvā vinicchituṃ asakkontā tumhākaṃ santikaṃ āgatamhā’’ti.
Even after such a long time, not seeing the meaning of the questions, the devas of ten thousand world-systems assembled and went to the four Great Kings. When asked, "Why, dear ones, is there such a great assembly of devas?", they replied, "We have come to your presence because we are unable to resolve the four questions that arose."
Trong khoảng thời gian đó, họ không tìm thấy ý nghĩa của các câu hỏi, nên các vị chư thiên từ mười ngàn cõi giới đã tụ họp lại và đến gặp Tứ Đại Thiên Vương. Khi được hỏi: “Này các con, có sự hội họp lớn của chư thiên nào vậy?”, họ đáp: “Chúng con đã đặt ra bốn câu hỏi nhưng không thể giải đáp được, nên chúng con đến gặp các ngài.”
‘‘Kiṃ pañhaṃ nāmetaṃ, tātā’’ti.
"What are these questions, dear ones?"
“Này các con, những câu hỏi đó là gì?”
‘‘Dānarasaratīsu katamā dānarasaratī nu kho seṭṭhā, taṇhakkhayova kasmā seṭṭho’’ti ime pañhe vinicchituṃ asakkontā āgatamhāti.
They said, "We have come because we are unable to resolve these questions: 'Among gifts, flavors, and delights, which gift, flavor, or delight is indeed supreme? And why is the destruction of craving supreme?'"
Họ đáp: “Trong các loại bố thí, hương vị và hỷ lạc, loại nào là tối thượng? Và tại sao sự diệt trừ tham ái lại là tối thượng? Chúng con không thể giải đáp những câu hỏi này nên chúng con đến đây.”
Tātā, mayampi imesaṃ atthe na jānāma, amhākaṃ pana rājā janasahassena cintite atthe cintetvā taṅkhaṇeneva jānāti, so amhehi paññāya ca puññena ca visiṭṭho, etha, tassa santikaṃ gacchāmāti tameva devagaṇaṃ ādāya sakkassa devarañño santikaṃ gantvā tenāpi ‘‘kiṃ, tātā, mahanto devasannipāto’’ti vutte tamatthaṃ ārocesuṃ.
"Dear ones, we too do not know the meaning of these questions. However, our king, Sakka, knows the meaning of things thought by a thousand people instantly. He is superior to us in both wisdom and merit. Come, let us go to his presence." So, taking that assembly of devas, they went to Sakka, the king of devas. When he too asked, "Why, dear ones, has such a great assembly of devas come?", they reported the matter to him.
“Này các con, chúng ta cũng không biết ý nghĩa của những điều này. Nhưng vua của chúng ta có thể biết ngay lập tức những điều mà hàng ngàn người suy nghĩ. Ngài ấy vượt trội hơn chúng ta về trí tuệ và công đức. Hãy đến, chúng ta cùng đi đến chỗ ngài ấy!” Thế là, dẫn theo đoàn chư thiên đó, họ đến gặp Sakka, vua của chư thiên. Khi Sakka hỏi: “Này các con, có sự hội họp lớn của chư thiên nào vậy?”, họ đã trình bày sự việc.
‘‘Tātā, imesaṃ pañhānaṃ atthaṃ aññopi jānituṃ na sakkoti, buddhavisayā hete.
"Dear ones, no one else can know the meaning of these questions; these pertain to the Buddha's domain.
“Này các con, không ai khác có thể biết ý nghĩa của những câu hỏi này, vì chúng thuộc về cảnh giới của chư Phật.
Satthā panetarahi kahaṃ viharatī’’ti pucchitvā ‘‘jetavane’’ti sutvā ‘‘etha, tassa santikaṃ gamissāmā’’ti devagaṇena saddhiṃ rattibhāge sakalaṃ jetavanaṃ obhāsetvā satthāraṃ upasaṅkamitvā vanditvā ekamantaṃ ṭhito ‘‘kiṃ, mahārāja, mahatā devasaṅghena āgatosī’’ti vutte, ‘‘bhante, devagaṇena ime nāma pañhā samuṭṭhāpitā, añño imesaṃ atthaṃ jānituṃ samattho nāma natthi, imesaṃ no atthaṃ pakāsethā’’ti āha.
But where does the Teacher reside now?" Having asked and heard, "In Jetavana," he said, "Come, we will go to his presence." So, together with the assembly of devas, he illuminated the entire Jetavana during the night, approached the Teacher, paid homage, and stood to one side. When asked, "Why, Great King, have you come with a large assembly of devas?", he said, "Venerable Sir, these questions have arisen among the assembly of devas. No one else is capable of knowing their meaning. Please reveal their meaning to us."
Nhưng hiện giờ Đức Bổn Sư đang trú ở đâu?” Sau khi hỏi và nghe đáp là “Ở Jetavana”, Sakka nói: “Hãy đến, chúng ta sẽ đi đến chỗ Ngài ấy!” Rồi cùng với đoàn chư thiên, vào ban đêm, Sakka đã chiếu sáng toàn bộ Jetavana, đến gần Đức Bổn Sư, đảnh lễ và đứng sang một bên. Khi Đức Bổn Sư hỏi: “Này Đại vương, ngài đến với một đoàn chư thiên đông đảo như vậy có việc gì?”, Sakka bạch: “Bạch Thế Tôn, đoàn chư thiên đã đặt ra những câu hỏi này, không ai khác có thể biết ý nghĩa của chúng. Xin Thế Tôn hãy giải thích ý nghĩa của chúng cho chúng con.”
Tattha sabbadānaṃ dhammadānanti sacepi hi cakkavāḷagabbhe yāva brahmalokā nirantaraṃ katvā sannisinnānaṃ buddhapaccekabuddhakhīṇāsavānaṃ kadaligabbhasadisāni cīvarāni dadeyya, tasmiṃ samāgame catuppadikāya gāthāya katānumodanāva seṭṭhā.
There, "The gift of Dhamma excels all gifts"—even if one were to offer robes as soft as banana shoots to Buddhas, Paccekabuddhas, and Arahants, who are seated continuously throughout the entire world-system up to the Brahma-world, the anumodanā (expression of appreciation) made with a four-lined verse at that assembly is supreme.
Trong đó, sabbadānaṃ dhammadānaṃ (bố thí pháp thắng mọi bố thí) nghĩa là: Dù có cúng dường y phục mềm mại như ruột cây chuối cho chư Phật, chư Độc Giác Phật và chư A-la-hán đã an tọa liên tục trong toàn bộ cõi giới từ trung tâm vũ trụ cho đến cõi Phạm thiên, thì lời tùy hỷ (anumodanā) được nói bằng một bài kệ bốn câu trong buổi hội họp đó vẫn là tối thượng.
Tañhi dānaṃ tassā gāthāya soḷasiṃ kalaṃ nāgghati.
Indeed, that gift is not worth a sixteenth part of that verse.
Quả thật, sự bố thí đó không đáng giá bằng một phần mười sáu công đức của việc thuyết giảng bài kệ đó.
Evaṃ dhammassa desanāpi vācanampi savanampi mahantaṃ.
Thus, the teaching, reciting, and listening to the Dhamma are all of great merit.
Như vậy, việc thuyết giảng, tụng đọc và lắng nghe Chánh pháp đều mang lại lợi ích lớn lao.
Yena ca puggalena bahūnaṃ taṃ dhammassavanaṃ kāritaṃ, tasseva ānisaṃso mahā.
And the person who has caused many to listen to that Dhamma has great benefit.
Và người nào đã khiến nhiều người lắng nghe Chánh pháp đó, thì người đó có lợi ích lớn lao.
Tathārūpāya eva parisāya paṇītapiṇḍapātassa patte pūretvā dinnadānatopi sappitelādīnaṃ patte pūretvā dinnabhesajjadānatopi mahāvihārasadisānaṃ vihārānañca lohapāsādasadisānañca pāsādānaṃ anekāni satasahassāni kāretvā dinnasenāsanadānatopi anāthapiṇḍikādīhi vihāre ārabbha katapariccāgatopi antamaso catuppadikāya gāthāya anumodanāvasenāpi pavattitaṃ dhammadānameva varaṃ seṭṭhaṃ.
Even more excellent and supreme is the gift of Dhamma, whether given by way of anumodanā with a four-lined verse, even compared to a gift of exquisite alms-food filling bowls for such an assembly, or a gift of medicine filling bowls with ghee and other oils, or a gift of dwellings by building hundreds of thousands of monasteries like the Mahāvihāra and palaces like the Lohapāsāda, or even the sacrifices made by Anāthapiṇḍika and others for monasteries.
Ngay cả việc bố thí pháp, dù chỉ là lời tùy hỷ bằng một bài kệ bốn câu, vẫn là tối thượng và cao quý hơn cả việc cúng dường thực phẩm thượng vị đầy bát trong một hội chúng như vậy, hơn cả việc cúng dường thuốc men như bơ sữa, dầu mè đầy bát, hơn cả việc xây dựng hàng trăm ngàn ngôi tịnh xá và lâu đài như Mahāvihāra và Loha Pāsāda, và hơn cả sự bố thí chỗ ở đã được thực hiện bởi những người như Trưởng giả Anāthapiṇḍika khi xây dựng các tịnh xá.
Kiṃ kāraṇā?
What is the reason?
Vì lý do gì?
Evarūpāni hi puññāni karontā dhammaṃ sutvāva karonti, no asutvā.
Indeed, those who perform such meritorious deeds do so only after hearing the Dhamma, not without hearing it.
Quả thật, những người làm các công đức như vậy đều làm sau khi nghe pháp, chứ không phải không nghe pháp.
Sace hi ime sattā dhammaṃ na suṇeyyuṃ, uḷuṅkamattaṃ yāgumpi kaṭacchumattaṃ bhattampi na dadeyyuṃ.
If these beings did not hear the Dhamma, they would not give even a spoonful of gruel or a single ladleful of rice.
Nếu những chúng sinh này không nghe pháp, họ sẽ không cúng dường dù chỉ một muỗng cháo hay một thìa cơm.
Iminā kāraṇena sabbadānehi dhammadānameva seṭṭhaṃ.
For this reason, the gift of Dhamma is supreme among all gifts.
Vì lý do này, bố thí pháp là tối thượng trong tất cả các loại bố thí.
Apica ṭhapetvā buddhe ca paccekabuddhe ca sakalakappaṃ deve vassante udakabindūni gaṇetuṃ samatthāya paññāya samannāgatā sāriputtādayopi attano dhammatāya sotāpattiphalādīni adhigantuṃ nāsakkhiṃsu, assajittherādīhi kathitadhammaṃ sutvā sotāpattiphalaṃ sacchikariṃsu, satthu dhammadesanāya sāvakapāramīñāṇaṃ sacchikariṃsu.
Moreover, excluding the Buddhas and Paccekabuddhas, even Venerable Sāriputta and others, endowed with wisdom capable of counting raindrops falling continuously for an entire eon, were not able to attain the fruit of stream-entry and so on by their own nature. Having heard the Dhamma taught by Venerable Assaji and others, they realized the fruit of stream-entry. By the Master's Dhamma discourse, they realized the knowledge of a disciple's perfection.
Hơn nữa, ngoại trừ chư Phật và chư Độc Giác Phật, ngay cả các vị như Sāriputta, những người có trí tuệ có thể đếm được số giọt mưa rơi suốt một kiếp (kappa) nếu chư thiên làm mưa không ngừng, cũng không thể chứng đắc quả Dự lưu (sotāpattiphala) và các quả khác bằng trí tuệ của chính mình. Họ đã chứng đắc quả Dự lưu sau khi nghe pháp do Trưởng lão Assaji và các vị khác thuyết giảng, và đã chứng đắc trí tuệ Ba-la-mật của Thanh văn (sāvakapāramīñāṇa) nhờ sự thuyết pháp của Đức Bổn Sư.
Imināpi kāraṇena, mahārāja, dhammadānameva seṭṭhaṃ.
For this reason too, great king, the gift of Dhamma is supreme.
Vì lý do này nữa, Đại vương, bố thí pháp là tối thượng.
Tena vuttaṃ – ‘‘sabbadānaṃ dhammadānaṃ jinātī’’ti.
Therefore it was said: “The gift of Dhamma excels all gifts.”
Do đó, đã nói: “Bố thí pháp thắng mọi bố thí.”
Sabbe pana gandharasādayopi rasā ukkaṃsato devatānaṃ sudhābhojanarasopi saṃsāravaṭṭe pātetvā dukkhānubhavanasseva paccayo.
All other tastes, such as scents and flavors, even the ambrosial food of the devas, ultimately serve as a cause for falling into the cycle of saṃsāra and experiencing suffering.
Tất cả các loại hương vị khác, kể cả hương vị thức ăn cam lồ của chư thiên ở mức độ cao nhất, cũng chỉ là nhân duyên dẫn đến sự rơi vào vòng luân hồi (saṃsāravaṭṭa) và chịu đựng khổ đau.
Yo panesa sattatiṃsabodhipakkhiyadhammasaṅkhāto ca navalokuttaradhammasaṅkhāto ca dhammaraso, ayameva sabbarasānaṃ seṭṭho.
But this taste of Dhamma, which is called the thirty-seven Bodhipakkhiya Dhammas and the nine Lokuttara Dhammas, this alone is the best of all tastes.
Nhưng hương vị pháp (dhammarasa), bao gồm ba mươi bảy pháp trợ đạo (bodhipakkhiyadhamma) và chín pháp siêu thế (lokuttaradhamma), chính là tối thượng trong tất cả các loại hương vị.
Tena vuttaṃ – ‘‘sabbarasaṃ dhammaraso jinātī’’ti.
Therefore it was said: “The taste of Dhamma excels all tastes.”
Do đó, đã nói: “Hương vị pháp thắng mọi hương vị.”
Yāpesā puttaratidhīturatidhanaratiitthiratinaccagītavāditādiratipabhedā ca anekappabhedā ratī, sāpi saṃsāravaṭṭe pātetvā dukkhānubhavanasseva paccayo.
And that manifold delight, such as delight in sons, delight in daughters, delight in wealth, delight in women, delight in dancing, singing, and instrumental music, also serves as a cause for falling into the cycle of saṃsāra and experiencing suffering.
Còn các loại hỷ lạc khác nhau như hỷ lạc con trai, hỷ lạc con gái, hỷ lạc tài sản, hỷ lạc phụ nữ, hỷ lạc nhảy múa, ca hát, âm nhạc, v.v., cũng chỉ là nhân duyên dẫn đến sự rơi vào vòng luân hồi và chịu đựng khổ đau.
Yā panesā dhammaṃ kathentassa vā suṇantassa vā vācentassa vā anto uppajjamānā pīti udaggabhāvaṃ janeti, assūni pavatteti, lomahaṃsaṃ janeti, sāyaṃ saṃsāravaṭṭassa antaṃ katvā arahattapariyosānā hoti.
But that joy which arises within one who teaches, listens to, or recites the Dhamma, causes exhilaration, brings forth tears, and produces goosebumps—that joy puts an end to the cycle of saṃsāra and culminates in Arahantship.
Nhưng hỷ lạc (pīti) phát sinh bên trong người đang thuyết pháp, lắng nghe pháp, hay tụng đọc pháp, khiến cho thân thể phấn chấn, nước mắt chảy ra, lông tóc dựng đứng, thì hỷ lạc đó chấm dứt vòng luân hồi và đạt đến quả A-la-hán.
Tasmā sabbaratīnaṃ evarūpā dhammaratiyeva seṭṭhā.
Therefore, among all delights, such a delight in Dhamma is supreme.
Vì vậy, trong tất cả các loại hỷ lạc, hỷ lạc pháp như vậy là tối thượng.
Tena vuttaṃ – ‘‘sabbaratiṃ dhammarati jinātī’’ti taṇhakkhayo pana taṇhāya khayante uppannaṃ arahattaṃ sakalassapi vaṭṭadukkhassa abhibhavanato sabbaseṭṭhameva.
Therefore it was said: “Delight in Dhamma excels all delights.” The destruction of craving, however, which is Arahantship arising upon the destruction of craving, is indeed the most supreme, as it overcomes all the suffering of the cycle of existence.
Do đó, đã nói: “Hỷ lạc pháp thắng mọi hỷ lạc.” Còn sự diệt trừ tham ái (taṇhakkhaya), tức là quả A-la-hán phát sinh khi tham ái được diệt trừ, là tối thượng hơn tất cả vì nó chinh phục mọi khổ đau của vòng luân hồi.
Tena vuttaṃ – ‘‘taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jinātī’’ti.
Therefore it was said: “The destruction of craving excels all suffering.”
Do đó, đã nói: “Diệt tham ái thắng mọi khổ đau.”
Evaṃ satthari imissā gāthāya atthaṃ kathenteyeva caturāsītiyā pāṇasahassānaṃ dhammābhisamayo ahosi.
While the Master was thus explaining the meaning of this verse, the realization of the Dhamma occurred to eighty-four thousand beings.
Khi Đức Bổn Sư đang thuyết giảng ý nghĩa của bài kệ này, tám vạn bốn ngàn chúng sinh đã chứng ngộ pháp.
Sakkopi satthu dhammakathaṃ sutvā satthāraṃ vanditvā evamāha – ‘‘bhante, evaṃjeṭṭhake nāma dhammadāne kimatthaṃ amhākaṃ pattiṃ na dāpetha, ito paṭṭhāya no bhikkhusaṅghassa kathetvā pattiṃ dāpetha, bhante’’ti.
Sakko, having heard the Master's Dhamma talk, saluted the Master and said, "Venerable Sir, why do you not give us a share in such a supreme gift of Dhamma? From now on, Venerable Sir, please speak to the community of bhikkhus and let them give us a share."
Sakka cũng nghe pháp thoại của Đức Bổn Sư, đảnh lễ Ngài và bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, tại sao Ngài không cho chúng con chia sẻ công đức trong bố thí pháp tối thượng như vậy? Từ nay trở đi, xin Thế Tôn hãy thuyết giảng cho Tăng đoàn và cho chúng con chia sẻ công đức, bạch Thế Tôn!”
Satthā tassa vacanaṃ sutvā bhikkhusaṅghaṃ sannipātetvā, ‘‘bhikkhave, ajjādiṃ katvā mahādhammassavanaṃ vā pākatikadhammassavanaṃ vā upanisinnakathaṃ vā antamaso anumodanampi kathetvā sabbasattānaṃ pattiṃ dadeyyāthā’’ti āha.
The Master, having heard his words, assembled the community of bhikkhus and said, "Bhikkhus, from today onwards, having delivered a great Dhamma discourse, or an ordinary Dhamma discourse, or a talk given to one seated nearby, or even an anumodanā, you should give a share to all beings."
Đức Bổn Sư nghe lời thỉnh cầu của Sakka, liền triệu tập Tăng đoàn và nói: “Này các Tỳ-kheo, từ hôm nay trở đi, khi thuyết giảng một bài pháp lớn hay một bài pháp thông thường, hay một bài pháp cho người đang ngồi gần, hoặc ít nhất là lời tùy hỷ, các con hãy chia sẻ công đức cho tất cả chúng sinh.”
Tassa kira kālakiriyaṃ sutvā rājā pasenadi kosalo ‘‘aputtakaṃ sāpateyyaṃ kassa pāpuṇātī’’ti pucchitvā ‘‘rañño’’ti sutvā sattahi divasehi tassa gehato dhanaṃ rājakulaṃ abhiharāpetvā satthu santikaṃ upasaṅkamitvā ‘‘handa kuto nu tvaṃ, mahārāja, āgacchasi divādivassā’’ti vutte ‘‘idha, bhante, sāvatthiyaṃ seṭṭhi, gahapati, kālakato, tamahaṃ aputtakaṃ sāpateyyaṃ rājantepuraṃ abhiharitvā āgacchāmī’’ti āha.
It is said that King Pasenadi of Kosala, having heard of his death, inquired, "To whom do the possessions of a childless person go?" and upon hearing "To the king," he had the wealth from that millionaire's house brought to the royal palace within seven days. He then approached the Master, and when asked, "Where do you come from, great king, in the middle of the day?" he replied, "Here in Sāvatthī, Venerable Sir, a millionaire householder has passed away. I have come after having brought his childless estate to the royal inner palace."
Nghe tin vị trưởng giả ấy qua đời, vua Pasenadi xứ Kosala đã hỏi: “Tài sản của người không con sẽ thuộc về ai?” Sau khi nghe trả lời: “Thuộc về nhà vua,” nhà vua đã cho chuyển tài sản từ nhà của vị ấy về hoàng cung trong bảy ngày. Rồi nhà vua đến gặp Đức Thế Tôn, khi được hỏi: “Đại vương, hôm nay bệ hạ từ đâu đến vào giữa ban ngày thế này?”, nhà vua đáp: “Bạch Thế Tôn, tại Sāvatthī này có một trưởng giả, gia chủ đã qua đời, con đến đây sau khi đã chuyển tài sản của người không con ấy về nội cung.”
Sabbaṃ sutte (saṃ. ni. 1.130) āgatanayeneva veditabbaṃ.
Everything should be understood in the manner presented in the Sutta.
Tất cả nên được hiểu theo cách đã được trình bày trong kinh (Saṃ. Ni. 1.130).
So kira suvaṇṇapātiyā nānaggarasabhojane upanīte ‘‘evarūpaṃ nāma manussā bhuñjanti, kiṃ tumhe mayā saddhiṃ imasmiṃ gehe keḷiṃ karothā’’ti bhojane upaṭṭhite leḍḍudaṇḍādīhi paharitvā palāpetvā ‘‘idaṃ manussānaṃ bhojana’’nti kaṇājakaṃ bhuñjati biḷaṅgadutiyaṃ.
It is said that when various excellent and delicious foods were presented to him in a golden bowl, he would say, "Do people really eat such things? Are you making fun of me in this house?" and would strike the food with clods of earth, sticks, and so on, driving them away. He would then say, "This is human food," and eat rice gruel made of broken grains, accompanied by sour gruel.
Vị ấy, khi được dâng các món ăn thượng vị khác nhau trong bát vàng, đã nói: “Loại thức ăn này mà con người ăn ư? Các người có đùa giỡn với ta trong ngôi nhà này không?” Rồi khi thức ăn được dọn ra, vị ấy dùng gạch, gậy, v.v., đánh đuổi những người hầu đi, rồi nói: “Đây là thức ăn của con người,” và ăn cơm tấm với nước dừa.
Vatthayānachattesupi manāpesu upaṭṭhāpitesu te manusse leḍḍudaṇḍādīhi paharanto palāpetvā sāṇāni dhāreti, jajjararathakena yāti paṇṇachattakena dhāriyamānenāti evaṃ raññā ārocite satthā tassa pubbakammaṃ kathesi.
When fine clothes, vehicles, and parasols were presented, he would strike the people with clods of earth, sticks, and so on, driving them away, and would wear coarse hemp garments, ride in a dilapidated cart, and be shaded by a leaf parasol. When the king reported this, the Master recounted his past kamma.
Ngay cả khi y phục, xe cộ và lọng che đẹp đẽ được dâng lên, vị ấy cũng dùng gạch, gậy, v.v., đánh đuổi những người hầu đi, rồi mặc y phục bằng sợi gai dầu, đi xe cũ nát, và dùng lọng che bằng lá. Khi nhà vua kể lại như vậy, Đức Thế Tôn đã kể về nghiệp quá khứ của vị ấy.
Bhūtapubbaṃ so, mahārāja, seṭṭhi, gahapati, tagarasikhiṃ nāma paccekabuddhaṃ piṇḍapātena paṭipādesi.
Once upon a time, O great king, that rich householder offered almsfood to a Paccekabuddha named Tagarasikhi.
Này Đại vương, thuở xưa, vị trưởng giả, gia chủ ấy đã cúng dường vật thực cho một vị Paccekabuddha tên là Tagarasikhī.
‘‘Detha samaṇassa piṇḍa’’nti vatvā so uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Saying, ‘Give alms to the ascetic,’ he rose from his seat and departed.
Sau khi nói: “Hãy cúng dường vật thực cho vị Sa-môn,” vị ấy đứng dậy rời khỏi chỗ.
Tasmiṃ kira assaddhe bāle evaṃ vatvā pakkante tassa bhariyā saddhā pasannā ‘‘cirassaṃ vata me imassa mukhato ‘dehī’ti vacanaṃ sutaṃ, ajja mama manorathaṃ pūrentī piṇḍapātaṃ dassāmī’’ti paccekabuddhassa pattaṃ gahetvā paṇītabhojanassa pūretvā adāsi.
When that faithless, foolish man had departed after saying this, his wife, full of faith and devotion, thought, “It has been a long time since I heard the word ‘give’ from his mouth. Today, fulfilling my wish, I shall give almsfood.” She took the Paccekabuddha’s bowl, filled it with delicious food, and gave it to him.
Khi vị ấy, một kẻ ngu si không có đức tin, đã nói như vậy và rời đi, vợ của vị ấy, một người có đức tin và lòng tịnh tín, đã nghĩ: “Thật hiếm hoi thay khi ta nghe lời ‘hãy cúng dường’ từ miệng ông ấy. Hôm nay, ta sẽ hoàn thành ước nguyện của mình và dâng vật thực,” rồi bà lấy bát của vị Paccekabuddha, đổ đầy thức ăn ngon vào và dâng cúng.
Sopi nivattamāno taṃ disvā ‘‘kiṃ, samaṇa, kiñci te laddha’’nti pattaṃ gahetvā paṇītapiṇḍapātaṃ disvā vippaṭisārī hutvā evaṃ cintesi – ‘‘varametaṃ piṇḍapātaṃ dāsā vā kammakarā vā bhuñjeyyuṃ.
Returning, he saw him and asked, “Ascetic, have you received anything?” Taking the bowl, he saw the excellent almsfood and felt remorse, thinking, “It would be better if slaves or laborers ate this almsfood.
Khi vị ấy trở về và thấy vị Paccekabuddha, vị ấy hỏi: “Này Sa-môn, ngài có nhận được gì không?” Rồi vị ấy lấy bát và khi thấy vật thực ngon lành, vị ấy hối hận và nghĩ:
Te hi imaṃ bhuñjitvā mayhaṃ kammaṃ karissanti, ayaṃ pana gantvā bhuñjitvā niddāyissati, naṭṭho me so piṇḍapāto’’ti.
For they would eat this and do my work, but this one will go, eat, and sleep. That almsfood of mine is wasted.”
“Tốt hơn là vật thực này nên được các nô lệ hoặc người làm công ăn. Họ ăn nó sẽ làm việc cho ta, còn vị này đi ăn rồi sẽ ngủ, vật thực của ta đã bị phí hoài.”
So bhātu ca pana ekaputtakaṃ sāpateyyassa kāraṇā jīvitā voropesi.
He also deprived his brother’s only son of life for the sake of property.
Vị ấy cũng đã giết chết đứa con trai duy nhất của anh trai mình vì tài sản.
So kirassa aṅguliṃ gahetvā vicaranto ‘‘idaṃ mayhaṃ pitusantakaṃ yānakaṃ, ayaṃ tassa goṇo’’tiādīni āha.
It is said that the boy, holding his uncle’s finger, used to say, “This carriage belongs to my father, this ox is his,” and so on.
Khi đứa bé ấy nắm ngón tay của vị ấy và đi dạo, nó nói: “Đây là chiếc xe của cha tôi, đây là con bò của ông ấy,” v.v.
Atha naṃ so seṭṭhi ‘‘idāni tāvesa evaṃ vadeti, imassa pana vuḍḍhippattakāle imasmiṃ gehe bhoge ko rakkhissatī’’ti taṃ araññaṃ netvā ekasmiṃ gacchamūle gīvāya gahetvā mūlakandaṃ viya gīvaṃ phāletvā māretvā tattheva chaḍḍesi.
Then that rich man thought, “Now he speaks like this. When he grows up, who will protect the wealth in this house?” So he took the boy to the forest, and at the foot of a bush, he grabbed him by the neck, twisted his neck like a root-tuber, killed him, and abandoned him there.
Sau đó, vị trưởng giả đó nghĩ: “Bây giờ nó nói như vậy, nhưng khi nó trưởng thành, ai sẽ bảo vệ tài sản trong ngôi nhà này đây?” Rồi ông ta dẫn đứa bé vào rừng, tại một gốc bụi cây, ông ta nắm lấy cổ, vặn cổ như vặn củ rễ, giết chết rồi vứt bỏ ngay tại đó.
Idamassa pubbakammaṃ.
This was his past kamma.
Đây là ác nghiệp quá khứ của ông ta.
Tena vuttaṃ –
Therefore, it was said:
Vì vậy, đã được nói rằng –
‘‘Yaṃ kho so, mahārāja, seṭṭhi, gahapati, tagarasikhiṃ paccekabuddhaṃ piṇḍapātena paṭipādesi, tassa kammassa vipākena sattakkhattuṃ sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajji, tasseva kammassa vipākāvasesena imissāyeva sāvatthiyā sattakkhattuṃ seṭṭhittaṃ kāresi.
“O great king, because of the kamma by which that rich householder offered almsfood to the Paccekabuddha Tagarasikhi, he was reborn seven times in a good destination, the heavenly world, and by the remaining result of that same kamma, he became a rich man seven times in this very Sāvatthī.
“Này Đại vương, quả thật, vị trưởng giả, gia chủ đó đã cúng dường vật thực cho Đức Paccekabuddha Tagarasikhī, nhờ quả báo của nghiệp đó, ông ta đã bảy lần tái sinh vào cõi thiện, cõi trời; và nhờ phần còn lại của quả báo nghiệp đó, ông ta đã bảy lần trở thành trưởng giả ngay tại Sāvatthī này.
Yaṃ kho so, mahārāja, seṭṭhi, gahapati, datvā pacchā vippaṭisārī ahosi ‘varametaṃ piṇḍapātaṃ dāsā vā kammakarā vā bhuñjeyyu’nti, tassa kammassa vipākena nāssuḷārāya bhattabhogāya cittaṃ namati, nāssuḷārāya vatthabhogāya, nāssuḷārāya yānabhogāya, nāssuḷārānaṃ pañcannaṃ kāmaguṇānaṃ bhogāya cittaṃ namati.
O great king, because of the kamma by which that rich householder, after giving, later felt remorse, thinking, ‘It would be better if slaves or laborers ate this almsfood,’ his mind did not incline to enjoying excellent food, nor to enjoying excellent clothes, nor to enjoying excellent conveyances, nor to enjoying the five excellent strands of sense pleasures.
Này Đại vương, quả thật, vị trưởng giả, gia chủ đó, sau khi cúng dường, đã hối tiếc rằng: ‘Thà rằng các nô lệ hay người làm công ăn phần vật thực đó thì tốt hơn’, nhờ quả báo của nghiệp đó, tâm ông ta không hướng đến việc hưởng thụ vật thực cao cấp, không hướng đến việc hưởng thụ y phục cao cấp, không hướng đến việc hưởng thụ phương tiện đi lại cao cấp, không hướng đến việc hưởng thụ năm loại dục lạc cao cấp.
Yaṃ kho so, mahārāja, seṭṭhi, gahapati, bhātu ca pana ekaputtaṃ sāpateyyassa kāraṇā jīvitā voropesi, tassa kammassa vipākena bahūni vassasatāni bahūni vassasahassāni bahūni vassasatasahassāni niraye paccittha, tasseva kammassa vipākāvasesena idaṃ sattamaṃ aputtakaṃ sāpateyyaṃ rājakosaṃ paveseti.
O great king, because of the kamma by which that rich householder deprived his brother’s only son of life for the sake of property, he was tormented in hell for many hundreds of thousands of years, and by the remaining result of that same kamma, this seventh childless estate entered the royal treasury.
Này Đại vương, quả thật, vị trưởng giả, gia chủ đó đã tước đoạt mạng sống của đứa con trai duy nhất của anh mình vì tài sản, nhờ quả báo của nghiệp đó, ông ta đã chịu khổ trong địa ngục hàng trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn năm; và nhờ phần còn lại của quả báo nghiệp đó, tài sản không có người thừa kế này đã bảy lần được đưa vào kho bạc của nhà vua.
Tassa kho pana, mahārāja, seṭṭhissa gahapatissa purāṇañca puññaṃ parikkhīṇaṃ, navañca puññaṃ anupacitaṃ.
Moreover, O great king, that rich householder’s old merit was exhausted, and new merit was not accumulated.
Này Đại vương, quả thật, phước cũ của vị trưởng giả, gia chủ đó đã cạn kiệt, và phước mới thì không được tích lũy.
Ajja pana, mahārāja, seṭṭhi, gahapati, mahāroruve niraye paccatī’’ti (saṃ. ni. 1.131).
Today, O great king, that rich householder is being tormented in the Mahāroruva Hell.”
Còn hôm nay, này Đại vương, vị trưởng giả, gia chủ đó đang chịu khổ trong địa ngục Mahāroruva.”
Rājā satthu vacanaṃ sutvā ‘‘aho, bhante, bhāriyaṃ kammaṃ, ettake nāma bhoge vijjamāne neva attanā paribhuñji, na tumhādise buddhe dhuravihāre viharante puññakammaṃ akāsī’’ti āha.
The king, having heard the Buddha’s words, said, “Alas, Venerable Sir, how grave is this kamma! With such wealth available, he neither enjoyed it himself nor performed meritorious deeds for Buddhas like you who resided nearby.”
Nghe lời Đức Thế Tôn, nhà vua nói: “Bạch Thế Tôn, nghiệp thật là nặng nề! Với tài sản nhiều như vậy mà ông ta không tự mình hưởng thụ, cũng không làm phước thiện khi có các Đức Phật như Ngài đang trú ngụ gần đó.”
Satthā ‘‘evametaṃ, mahārāja, dummedhapuggalā nāma bhoge labhitvā nibbānaṃ na gavesanti, bhoge nissāya uppannataṇhā panete dīgharattaṃ hanatī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
The Teacher said, “It is so, O great king. Foolish individuals, having obtained wealth, do not seek Nibbāna. But the craving that arises dependent on wealth destroys them for a long time,” and having said this, he uttered this verse:
Đức Thế Tôn nói: “Này Đại vương, đúng là như vậy. Những người ngu si, sau khi có được tài sản, không tìm kiếm Niết Bàn; và lòng tham ái phát sinh từ tài sản đó sẽ hủy hoại họ trong một thời gian dài,” rồi Ngài nói bài kệ này –