Sāvatthiyañhi devasikaṃ anāthapiṇḍikassa gehe dve bhikkhūsahassāni bhuñjanti, tathā visākhāya mahāupāsikāya.
Indeed, in Sāvatthī, two thousand bhikkhus ate daily at Anāthapiṇḍika's house, and likewise at the house of the great laywoman Visākhā.
Tại Sāvatthī, mỗi ngày có hai ngàn Tỳ-khưu thọ thực tại nhà của Anāthapiṇḍika, và cũng tương tự tại nhà của đại Ưu-bà-di Visākhā.
Sāvatthiyaṃ yo yo dānaṃ dātukāmo hoti, so so tesaṃ ubhinnaṃ okāsaṃ labhitvāva karoti.
In Sāvatthī, whoever wished to give alms would do so only after obtaining permission from those two.
Bất cứ ai ở Sāvatthī muốn bố thí đều phải có được sự cho phép của hai vị này mới thực hiện.
Kiṃ kāraṇā?
For what reason?
Vì lý do gì?
‘‘Tumhākaṃ dānaggaṃ anāthapiṇḍiko vā visākhā vā āgatā’’ti pucchitvā, ‘‘nāgatā’’ti vutte satasahassaṃ vissajjetvā katadānampi ‘‘kiṃ dānaṃ nāmeta’’nti garahanti.
Because if they asked, "Have Anāthapiṇḍika or Visākhā come to your alms-hall?" and were told, "They have not come," they would criticize even an offering made by spending a hundred thousand, saying, "What kind of alms is that?"
Nếu hỏi: “Anāthapiṇḍika hay Visākhā đã đến nơi cúng dường của quý vị chưa?”, và khi được trả lời: “Chưa đến”, thì dù đã bố thí một trăm ngàn đồng, người ta vẫn chê bai: “Cái bố thí gì thế này?”
Ubhopi hi te bhikkhusaṅghassa ruciñca anucchavikakiccāni ca ativiya jānanti, tesu vicārentesu bhikkhū cittarūpaṃ bhuñjanti.
For both of them knew very well the wishes of the Saṅgha of bhikkhus and what was suitable for them; when they managed affairs, the bhikkhus ate as they pleased.
Cả hai vị đó đều rất am hiểu về sở thích và các việc cần làm phù hợp cho Tăng đoàn, và khi họ sắp xếp, các Tỳ-khưu thọ thực một cách thoải mái.
Tasmā sabbe dānaṃ dātukāmā te gahetvāva gacchanti.
Therefore, all who wished to give alms would take them along.
Vì vậy, tất cả những ai muốn bố thí đều phải mời họ đi cùng.
Iti te attano attano ghare bhikkhū parivisituṃ na labhanti.
Thus, they could not serve the bhikkhus in their own homes.
Do đó, họ không thể tự mình phục vụ các Tỳ-khưu tại nhà riêng.
Tato visākhā, ‘‘ko nu kho mama ṭhāne ṭhatvā bhikkhusaṅghaṃ parivisissatī’’ti upadhārentī puttassa dhītaraṃ disvā taṃ attano ṭhāne ṭhapesi.
Then Visākhā, reflecting, "Who will serve the Saṅgha of bhikkhus in my place?" saw her son's daughter and appointed her in her place.
Thế là, Visākhā suy nghĩ: “Ai sẽ thay mình phục vụ Tăng đoàn đây?”, rồi thấy con gái của con trai mình, bà đã đặt cô bé vào vị trí của mình.
Sā tassā nivesane bhikkhusaṅghaṃ parivisati.
She served the Saṅgha of bhikkhus in her residence.
Cô bé đó đã phục vụ Tăng đoàn tại nhà bà.
Anāthapiṇḍikopi mahāsubhaddaṃ nāma jeṭṭhadhītaraṃ ṭhapesi.
Anāthapiṇḍika also appointed his eldest daughter, named Mahāsubhaddā.
Anāthapiṇḍika cũng đã đặt người con gái lớn của mình tên là Mahāsubhaddā vào vị trí đó.
Sā bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karontī dhammaṃ suṇantī sotāpannā hutvā patikulaṃ agamāsi.
She, while performing duties for the bhikkhus and listening to the Dhamma, became a stream-entrant (sotāpannā) and went to her husband's family.
Cô ấy đã làm công việc đó, lắng nghe Pháp, chứng đắc Tu-đà-hoàn quả rồi về nhà chồng.
Tato cūḷasubhaddaṃ ṭhapesi.
After that, he appointed Cūḷasubhaddā.
Sau đó, ông đặt Cūḷasubhaddā vào vị trí đó.
Sāpi tatheva karontī sotāpannā hutvā patikulaṃ gatā.
She too, doing likewise, became a stream-entrant (sotāpannā) and went to her husband's family.
Cô ấy cũng làm như vậy, chứng đắc Tu-đà-hoàn quả rồi về nhà chồng.
Atha sumanadeviṃ nāma kaniṭṭhadhītaraṃ ṭhapesi.
Then he appointed his youngest daughter, named Sumanādevī.
Sau đó, ông đã đặt tên con gái út là Sumanadevī.
Sā pana dhammaṃ sutvā sakadāgāmiphalaṃ patvā kumārikāva hutvā tathārūpena aphāsukena āturā āhārupacchedaṃ katvā pitaraṃ daṭṭhukāmā hutvā pakkosāpesi.
Having listened to the Dhamma, Sumanādevī attained the fruit of once-returning (sakadāgāmiphala), and being a maiden, she became afflicted by an illness typical of maidens, stopped taking food, and wishing to see her father, sent for him.
Nàng nghe Pháp, đạt được quả Sakadāgāmī, và dù vẫn còn là một thiếu nữ, nàng bị bệnh nặng do một căn bệnh không dễ chịu, ngừng ăn uống, và muốn gặp cha nên đã cho người gọi ông.
So ekasmiṃ dānagge tassā sāsanaṃ sutvāva āgantvā, ‘‘kiṃ, amma sumane’’ti āha.
He, hearing her message while at a great alms-giving hall, came and said, "What is it, dear Sumanā?"
Ông (Anāthapiṇḍika) đang ở một đại sảnh cúng dường, vừa nghe tin của nàng liền đến và hỏi: "Gì vậy, con gái Sumanā?"
Sāpi naṃ āha – ‘‘kiṃ, tāta kaniṭṭhabhātikā’’ti?
She, in turn, said to him, "What is it, dear younger brother?"
Nàng cũng nói với ông: "Gì vậy, cha, em trai?"
‘‘Vilapasi ammā’’ti?
"Are you rambling, dear?"
"Con đang mê sảng đó, con gái?"
‘‘Na vilapāmi, kaniṭṭhabhātikā’’ti.
"No, I am not rambling, younger brother."
"Không mê sảng đâu, em trai."
‘‘Bhāyasi, ammā’’ti?
"Are you afraid, dear?"
"Con sợ hãi đó, con gái?"
‘‘Na bhāyāmi, kaniṭṭhabhātikā’’ti.
"No, I am not afraid, younger brother."
"Không sợ hãi đâu, em trai."
Ettakaṃ vatvāyeva pana sā kālamakāsi.
Having said only this much, she passed away.
Vừa nói xong bấy nhiêu, nàng qua đời.
So sotāpannopi samāno seṭṭhidhītari uppannasokaṃ adhivāsetuṃ asakkonto dhītu sarīrakiccaṃ kāretvā rodanto satthu santikaṃ gantvā, ‘‘kiṃ, gahapati, dukkhī dummano assumukho rodamāno āgatosī’’ti vutte, ‘‘dhītā me, bhante, sumanadevī kālakatā’’ti āha.
Although he was a stream-entrant (sotāpanna), being unable to endure the sorrow that arose for his chief daughter, he performed his daughter's funeral rites and, weeping, went to the Teacher. When asked, "Why have you come, householder, sorrowful, dejected, with tear-stained face, weeping?" he replied, "My daughter, Sumanādevī, Bhante, has passed away."
Dù là một vị Sotāpanna, ông không thể chịu đựng được nỗi buồn đau khi con gái trưởng qua đời, nên sau khi lo liệu tang lễ cho con gái, ông khóc lóc đến chỗ Đức Phật và khi được hỏi: "Này gia chủ, sao ông lại đau khổ, buồn bã, mặt đẫm lệ và khóc lóc đến đây?", ông thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, con gái con, Sumanadevī, đã qua đời."
‘‘Atha kasmā socasi, nanu sabbesaṃ ekaṃsikaṃ maraṇa’’nti?
"Then why do you grieve? Is not death certain for all beings?"
"Vậy sao ông lại buồn, chẳng phải cái chết là điều chắc chắn cho tất cả chúng sinh sao?"
‘‘Jānāmetaṃ, bhante, evarūpā nāma me hiriottappasampannā dhītā, sā maraṇakāle satiṃ paccupaṭṭhāpetuṃ asakkontī vilapamānā matā, tena me anappakaṃ domanassaṃ uppajjatī’’ti.
"I know that, Bhante. But such a daughter of mine, endowed with modesty and moral dread (hiri-ottappa), was unable to establish mindfulness at the time of death and died while rambling. Therefore, a great sadness arises in me."
"Bạch Đức Thế Tôn, con biết điều đó. Nhưng con gái con là người có lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi như vậy, mà khi chết lại không thể an trú chánh niệm, đã mê sảng mà chết, vì thế nỗi buồn không nhỏ đã sinh khởi trong con."
‘‘Kiṃ pana tāya kathitaṃ mahāseṭṭhī’’ti?
"But what did she say, great householder?"
"Này đại gia chủ, con gái ông đã nói gì?"
‘‘Ahaṃ taṃ, bhante, ‘amma, sumane’ti āmantesiṃ.
"I, Bhante, addressed her as 'Dear Sumanā.'
"Bạch Đức Thế Tôn, con đã gọi nàng là 'Con gái Sumanā'."
Atha maṃ āha – ‘kiṃ, tāta, kaniṭṭhabhātikā’ti?
Then she said to me, 'What is it, dear younger brother?'
"Rồi nàng nói với con: 'Gì vậy, cha, em trai?'"
‘Vilapasi, ammā’ti?
'Are you rambling, dear?'
"'Con đang mê sảng đó, con gái?'"
‘Na vilapāmi, kaniṭṭhabhātikā’ti.
'I am not rambling, younger brother.'
"'Không mê sảng đâu, em trai'."
‘Bhāyasi, ammā’ti?
'Are you afraid, dear?'
"'Con sợ hãi đó, con gái?'"
‘Na bhāyāmi kaniṭṭhabhātikā’ti.
'I am not afraid, younger brother.'
"'Không sợ hãi đâu, em trai'."
Ettakaṃ vatvā kālamakāsī’’ti.
Having said only this much, she passed away."
"Vừa nói xong bấy nhiêu, nàng qua đời."
Atha naṃ bhagavā āha – ‘‘na te mahāseṭṭhi dhītā vilapatī’’ti.
Then the Blessed One said to him, "Your daughter, great householder, was not rambling."
Khi đó, Đức Thế Tôn nói với ông: "Này đại gia chủ, con gái ông không hề mê sảng."
‘‘Atha kasmā bhante evamāhā’’ti?
"Then why, Bhante, did she speak thus?"
"Bạch Đức Thế Tôn, vậy sao nàng lại nói như thế?"
‘‘Kaniṭṭhattāyeva.
"It was because she was junior.
"Chỉ vì nàng nhỏ tuổi hơn thôi.
Dhītā hi te, gahapati, maggaphalehi tayā mahallikā.
Indeed, your daughter, householder, was senior to you in terms of paths and fruits.
Này gia chủ, con gái ông lớn tuổi hơn ông về các đạo và quả.
Tvañhi sotāpanno, dhītā pana te sakadāgāminī.
For you are a stream-entrant (sotāpanna), but your daughter was a once-returner (sakadāgāmī).
Vì ông là một vị Sotāpanna, còn con gái ông là một vị Sakadāgāmī.
Sā maggaphalehi tayā mahallikattā taṃ evamāhā’’ti.
Because she was senior to you in terms of paths and fruits, she spoke to you thus."
Vì nàng lớn tuổi hơn ông về các đạo và quả, nên nàng đã nói với ông như vậy."
‘‘Evaṃ, bhante’’ti?
"Is that so, Bhante?"
"Bạch Đức Thế Tôn, có phải như vậy không?"
‘‘Evaṃ, gahapatī’’ti.
"It is so, householder."
"Đúng vậy, này gia chủ."
‘‘Idāni kuhiṃ nibbattā, bhante’’ti?
"Where has she been reborn now, Bhante?"
"Bạch Đức Thế Tôn, bây giờ nàng đã tái sinh ở đâu?"
‘‘Tusitabhavane, gahapatī’’ti.
"In the Tusita heaven, householder."
"Ở cõi trời Tusita, này gia chủ."
‘‘Bhante, mama dhītā idha ñātakānaṃ antare nandamānā vicaritvā ito gantvāpi nandanaṭṭhāneyeva nibbattā’’ti.
"Bhante, my daughter delighted among her relatives here, and having departed from here, she has been reborn in a place of delight (nandanaṭṭhāna) itself."
"Bạch Đức Thế Tôn, con gái con ở đây đã vui vẻ giữa bà con quyến thuộc, và sau khi rời bỏ cõi này, nàng cũng đã tái sinh ở một nơi đầy niềm vui."
Atha naṃ satthā ‘‘āma, gahapati, appamattā nāma gahaṭṭhā vā pabbajitā vā idha loke ca paraloke ca nandantiyevā’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
Then the Teacher said to him, "Yes, householder, the heedful, whether lay or monastic, indeed delight in this world and in the next world," and spoke this verse:
Khi đó, Đức Đạo Sư nói: "Đúng vậy, này gia chủ, những người không phóng dật, dù là cư sĩ hay xuất gia, đều vui vẻ ở cả đời này và đời sau", rồi Ngài thuyết bài kệ này:
Sāvatthivāsino hi dve kulaputtā sahāyakā vihāraṃ gantvā satthu dhammadesanaṃ sutvā kāme pahāya sāsane uraṃ datvā pabbajitvā pañca vassāni ācariyupajjhāyānaṃ santike vasitvā satthāraṃ upasaṅkamitvā sāsane dhuraṃ pucchitvā vipassanādhurañca ganthadhurañca vitthārato sutvā eko tāva ‘‘ahaṃ, bhante, mahallakakāle pabbajito na sakkhissāmi ganthadhuraṃ pūretuṃ, vipassanādhuraṃ pana pūressāmī’’ti yāva arahattā vipassanādhuraṃ kathāpetvā ghaṭento vāyamanto saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇi.
Indeed, two friends, sons of good families residing in Sāvatthī, went to the monastery, heard the Dhamma discourse of the Teacher, renounced sensual pleasures, devoted themselves to the Dispensation, and dwelt with their teachers and preceptors for five years. They then approached the Teacher and inquired about the duties in the Dispensation. After hearing in detail about both the duty of insight (vipassanādhura) and the duty of study (ganthadhura), one of them said, "Bhante, I entered the monastic life in old age, so I will not be able to fulfill the duty of study; but I will fulfill the duty of insight." Having thus been taught the duty of insight up to arahantship, he exerted himself diligently and attained arahantship along with the four analytical knowledges (paṭisambhidā).
Hai thiện nam tử bạn bè sống ở Sāvatthī đã đến tịnh xá, nghe Đức Đạo Sư thuyết pháp, từ bỏ dục lạc, dấn thân vào giáo pháp, xuất gia, và sống năm năm dưới sự hướng dẫn của các vị thầy và thầy tế độ. Sau đó, họ đến gặp Đức Đạo Sư, hỏi về gánh nặng trong giáo pháp, và nghe Ngài giải thích chi tiết về gánh nặng thiền quán (vipassanādhura) và gánh nặng học tập (ganthadhura). Một vị tỳ-khưu thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, con đã xuất gia khi tuổi đã cao, con sẽ không thể hoàn thành gánh nặng học tập, nhưng con sẽ hoàn thành gánh nặng thiền quán." Sau khi được Đức Phật chỉ dạy về gánh nặng thiền quán cho đến quả A-la-hán, vị ấy đã nỗ lực và tinh tấn, đạt được quả A-la-hán cùng với Tứ Vô Ngại Giải (paṭisambhidā).
Itaro pana ‘‘ahaṃ ganthadhuraṃ pūressāmī’’ti anukkamena tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ uggaṇhitvā gatagataṭṭhāne dhammaṃ katheti, sarabhaññaṃ bhaṇati, pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ dhammaṃ vācento vicarati.
The other one said, "I will fulfill the duty of study," and in due course, he memorized the Tipiṭaka, the Buddha's word, taught the Dhamma wherever he went, recited with chanting, and traveled about teaching the Dhamma to five hundred bhikkhus.
Vị tỳ-khưu kia thì thưa: "Con sẽ hoàn thành gánh nặng học tập." Dần dần, vị ấy đã học thuộc lòng toàn bộ Tam Tạng Phật Ngôn, thuyết pháp ở khắp mọi nơi, ngâm vịnh các bài kinh, và đi khắp nơi giảng dạy Pháp cho năm trăm vị tỳ-khưu.
Aṭṭhārasannaṃ mahāgaṇānaṃ ācariyo ahosi.
He became the teacher of eighteen great groups.
Vị ấy trở thành thầy của mười tám đại chúng.
Bhikkhū satthu santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā itarassa therassa vasanaṭṭhānaṃ gantvā tassa ovāde ṭhatvā arahattaṃ patvā theraṃ vanditvā, ‘‘satthāraṃ daṭṭhukāmamhā’’ti vadanti.
The bhikkhus, having received a meditation subject (kammaṭṭhāna) from the Teacher, went to the dwelling place of the other elder (the meditation practitioner), stayed in his guidance, attained arahantship, and saluting the elder, said, "We wish to see the Teacher."
Các vị tỳ-khưu sau khi nhận đề mục thiền quán từ Đức Đạo Sư, đến chỗ vị Trưởng lão kia (vị tỳ-khưu thiền quán), an trú trong lời khuyên của vị ấy, đạt được quả A-la-hán, rồi đảnh lễ vị Trưởng lão và thưa: "Chúng con muốn gặp Đức Đạo Sư."
Thero ‘‘gacchatha, āvuso, mama vacanena satthāraṃ vanditvā asīti mahāthere vandatha, sahāyakattherampi me ‘amhākaṃ ācariyo tumhe vandatī’ti vadathā’’ti peseti.
The elder sent them, saying, "Go, friends, and by my word, salute the Teacher and salute the eighty great elders. Also tell my friend elder, 'Our teacher salutes you.'"
Vị Trưởng lão ấy (vị tỳ-khưu thiền quán) bảo: "Này chư Hiền, hãy đi, và nhân danh ta mà đảnh lễ Đức Đạo Sư và tám mươi vị Đại Trưởng lão. Cũng hãy nói với vị Trưởng lão bạn của ta (vị tỳ-khưu học tập) rằng 'Thầy của chúng con đảnh lễ Ngài'."
Te bhikkhū vihāraṃ gantvā satthārañceva asīti mahāthere ca vanditvā ganthikattherassa santikaṃ gantvā, ‘‘bhante, amhākaṃ ācariyo tumhe vandatī’’ti vadanti.
Those bhikkhus went to the monastery, saluted the Teacher and the eighty great elders, and then went to the dwelling place of the elder of study (ganthikatthera) and said, "Bhante, our teacher salutes you."
Các vị tỳ-khưu ấy đến tịnh xá, đảnh lễ Đức Đạo Sư và tám mươi vị Đại Trưởng lão, rồi đến chỗ vị Trưởng lão học tập và thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, thầy của chúng con đảnh lễ Ngài."
Itarena ca ‘‘ko nāma so’’ti vutte, ‘‘tumhākaṃ sahāyakabhikkhu, bhante’’ti vadanti.
When the other elder (of study) asked, "Who is he?" they replied, "He is your friend-bhikkhu, Bhante."
Khi vị kia (vị Trưởng lão học tập) hỏi: "Ai vậy?", các vị ấy thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, đó là vị tỳ-khưu bạn của Ngài."
Evaṃ there punappunaṃ sāsanaṃ pahiṇante so bhikkhu thokaṃ kālaṃ sahitvā aparabhāge sahituṃ asakkonto ‘‘amhākaṃ ācariyo tumhe vandatī’’ti vutte, ‘‘ko eso’’ti vatvā ‘‘tumhākaṃ sahāyakabhikkhū’’ti vutte, ‘‘kiṃ pana tumhehi tassa santike uggahitaṃ, kiṃ dīghanikāyādīsu aññataro nikāyo, kiṃ tīsu piṭakesu ekaṃ piṭaka’’nti vatvā ‘‘catuppadikampi gāthaṃ na jānāti, paṃsukūlaṃ gahetvā pabbajitakāleyeva araññaṃ paviṭṭho, bahū vata antevāsike labhi, tassa āgatakāle mayā pañhaṃ pucchituṃ vaṭṭatī’’ti cintesi.
When the elder (of insight) repeatedly sent such messages, the bhikkhu (of study) endured for a short time, but afterwards, being unable to endure, when they said, "Our teacher salutes you," he said, "Who is this?" And when they replied, "He is your bhikkhu friend," he said, "What did you learn from him? Was it any of the Nikāyas such as the Dīghanikāya? Was it one of the three Piṭakas?" And then he thought, "He doesn't even know a four-lined verse. He entered the forest right after his ordination, having taken rag-robes. Indeed, he has gained many pupils. When he comes, I ought to question him."
Khi vị Trưởng lão ấy (vị tỳ-khưu thiền quán) liên tục gửi lời nhắn như vậy, vị tỳ-khưu kia (vị tỳ-khưu học tập) đã chịu đựng một thời gian ngắn, nhưng sau đó không thể chịu đựng được nữa. Khi được thưa: "Thầy của chúng con đảnh lễ Ngài", vị ấy hỏi: "Ai vậy?", và khi được thưa: "Vị tỳ-khưu bạn của Ngài", vị ấy nói: "Các ông đã học được gì từ vị ấy? Có phải một trong các Nikāya như Dīgha Nikāya, hay một trong ba tạng Piṭaka không?" Rồi vị ấy nói: "Vị ấy không biết cả một bài kệ bốn câu. Vị ấy đã vào rừng ngay khi xuất gia với y phấn tảo. Than ôi, vị ấy đã có rất nhiều đệ tử. Khi vị ấy đến, ta phải hỏi một số câu hỏi."
Atha aparabhāge thero satthāraṃ daṭṭhuṃ āgato.
Then, later, the elder (of insight) came to see the Teacher.
Sau đó, một thời gian sau, vị Trưởng lão (vị tỳ-khưu thiền quán) đến để yết kiến Đức Đạo Sư.
Sahāyakassa therassa santike pattacīvaraṃ ṭhapetvā gantvā satthārañceva asīti mahāthere ca vanditvā sahāyakassa vasanaṭṭhānaṃ paccāgami.
He left his bowl and robe with his friend elder (of study), went and saluted the Teacher and the eighty great elders, and then returned to his friend's dwelling place.
Vị ấy để bát và y của mình ở chỗ vị Trưởng lão bạn, rồi đi đảnh lễ Đức Đạo Sư và tám mươi vị Đại Trưởng lão, sau đó trở về chỗ ở của vị bạn.
Athassa so vattaṃ kāretvā samappamāṇaṃ āsanaṃ gahetvā, ‘‘pañhaṃ pucchissāmī’’ti nisīdi.
Then that bhikkhu performed the service for him, took a seat of equal size, and sat down, thinking, "I will ask a question."
Khi đó, vị kia (vị tỳ-khưu học tập) đã làm bổn phận cho vị ấy, rồi lấy một chỗ ngồi tương xứng và ngồi xuống, nghĩ: "Ta sẽ hỏi một câu hỏi."
Tasmiṃ khaṇe satthā ‘‘esa evarūpaṃ mama puttaṃ viheṭhetvā niraye nibbatteyyā’’ti tasmiṃ anukampāya vihāracārikaṃ caranto viya tesaṃ nisinnaṭṭhānaṃ gantvā paññattavarabuddhāsane nisīdi.
At that moment, the Teacher, seeing that "this monk, having harassed my son, would be reborn in hell," out of compassion for him, as if touring the monastery, went to the place where they were sitting and sat on the excellent Buddha-seat that had been prepared.
Ngay lúc đó, Đức Đạo Sư, vì lòng từ bi đối với vị tỳ-khưu kia (vị tỳ-khưu học tập) vì nghĩ rằng: "Vị tỳ-khưu này sẽ tái sinh vào địa ngục sau khi quấy rầy con trai của ta như vậy", đã đến chỗ họ đang ngồi như thể đang đi tuần tra các tịnh xá, và ngồi xuống trên chỗ ngồi cao quý của Đức Phật đã được sắp đặt.
Tattha tattha nisīdantā hi bhikkhū buddhāsanaṃ paññāpetvāva nisīdanti.
Indeed, monks sitting here and there would sit only after preparing a Buddha-seat.
Thật vậy, các vị tỳ-khưu ngồi ở bất cứ đâu đều phải sắp đặt chỗ ngồi của Đức Phật trước khi ngồi.
Tena satthā pakatipaññatteyeva āsane nisīdi.
Therefore, the Teacher sat on the seat that was already prepared.
Vì vậy, Đức Đạo Sư đã ngồi trên chỗ ngồi đã được sắp đặt sẵn.
Nisajja kho pana ganthikabhikkhuṃ paṭhamajjhāne pañhaṃ pucchitvā tasmiṃ akathite dutiyajjhānaṃ ādiṃ katvā aṭṭhasupi samāpattīsu rūpārūpesu ca pañhaṃ pucchi.
Having sat down, he asked the Ganthika bhikkhu a question about the first jhāna, and when it was not answered, he then asked questions about the eight attainments, beginning with the second jhāna, and about the rūpa and arūpa jhānas.
Sau khi ngồi xuống, Đức Phật đã hỏi vị tỳ-khưu học tập một câu hỏi về Sơ Thiền (paṭhamajjhāna), và khi vị ấy không trả lời được, Ngài đã hỏi các câu hỏi về Tứ Thiền (dutiya-jhāna) cho đến tất cả tám Định (samāpatti) và các pháp hữu sắc và vô sắc.
Ganthikatthero ekampi kathetuṃ nāsakkhi.
Ganthikatthero was unable to answer even one.
Vị Trưởng lão học tập không thể trả lời được một câu nào.
Itaro taṃ sabbaṃ kathesi.
The other answered all of them.
Vị kia (vị tỳ-khưu thiền quán) đã trả lời tất cả.
Atha naṃ sotāpattimagge pañhaṃ pucchi.
Then he asked him a question about the path of Stream-entry (Sotāpattimagga).
Khi đó, Đức Phật đã hỏi vị ấy một câu hỏi về đạo Sotāpatti.
Ganthikatthero kathetuṃ nāsakkhi.
Ganthikatthero was unable to answer.
Vị Trưởng lão học tập không thể trả lời được.
Tato khīṇāsavattheraṃ pucchi.
Then he asked the Arahant Thera.
Sau đó, Ngài hỏi vị Trưởng lão đã diệt tận các lậu hoặc (khīṇāsavatthera).
Thero kathesi.
The Thera answered.
Vị Trưởng lão đã trả lời.
Satthā ‘‘sādhu sādhu, bhikkhū’’ti abhinanditvā sesamaggesupi paṭipāṭiyā pañhaṃ pucchi.
The Teacher, exclaiming, ‘‘Excellent, excellent, bhikkhus!’’ then asked questions in sequence about the remaining paths.
Đức Đạo Sư đã hoan hỷ nói: "Lành thay, lành thay, này các tỳ-khưu!" và tiếp tục hỏi các câu hỏi về các đạo còn lại theo thứ tự.
Ganthiko ekampi kathetuṃ nāsakkhi, khīṇāsavo pucchitaṃ pucchitaṃ kathesi.
Ganthiko was unable to answer even one, but the Arahant answered every question asked.
Vị Tỳ-khưu học giả không thể trả lời dù chỉ một câu hỏi, còn vị Tỳ-khưu lậu tận (khīṇāsavo) thì trả lời tất cả những gì được hỏi.
Satthā catūsupi ṭhānesu tassa sādhukāraṃ adāsi.
The Teacher gave his approval in all four instances.
Bậc Đạo Sư đã tán thán (sādhukāra) Ngài trong cả bốn trường hợp.
Taṃ sutvā bhummadeve ādiṃ katvā yāva brahmalokā sabbā devatā ceva nāgasupaṇṇā ca sādhukāraṃ adaṃsu.
Hearing that, all the deities, from the earth-dwelling devas up to the Brahma-world, as well as nāgas and supaṇṇas, gave their approval.
Nghe vậy, tất cả chư thiên, từ chư thiên trú trên đất cho đến các cõi Phạm thiên, cùng với các loài Nāga và Supaṇṇa, đều đồng thanh tán thán.
Taṃ sādhukāraṃ sutvā tassa antevāsikā ceva saddhivihārino ca satthāraṃ ujjhāyiṃsu – ‘‘kiṃ nāmetaṃ satthārā kataṃ, kiñci ajānantassa mahallakattherassa catūsu ṭhānesu sādhukāraṃ adāsi, amhākaṃ panācariyassa sabbapariyattidharassa pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ pāmokkhassa pasaṃsāmattampi na karī’’ti.
Hearing that acclamation, the Ganthika Thera’s pupils and fellow celibates complained to the Teacher: ‘‘What is this that the Teacher has done? He gave his approval in four instances to an old thera who knows nothing, but did not even offer a word of praise to our teacher, who is learned in all the Pāli texts and is the leader of five hundred bhikkhus!’’
Nghe tiếng tán thán ấy, các đệ tử và đồng phạm hạnh của vị Tỳ-khưu học giả đã phàn nàn với Bậc Đạo Sư: “Bậc Đạo Sư đã làm gì vậy? Ngài đã tán thán vị Trưởng lão già cả chẳng biết gì trong cả bốn trường hợp, còn đối với vị Giáo thọ sư của chúng con, bậc trì giữ toàn bộ Tam tạng, vị đứng đầu của năm trăm Tỳ-khưu, Ngài lại không hề khen ngợi dù chỉ một lời!”
Atha ne satthā ‘‘kiṃ nāmetaṃ, bhikkhave, kathethā’’ti pucchitvā tasmiṃ atthe ārocite, ‘‘bhikkhave, tumhākaṃ ācariyo mama sāsane bhatiyā gāvo rakkhaṇasadiso, mayhaṃ pana putto yathāruciyā pañca gorase paribhuñjanakasāmisadiso’’ti vatvā imā gāthā abhāsi –
Then the Teacher asked them, ‘‘Bhikkhus, what is this that you are saying?’’ And when the matter was reported to him, he said, ‘‘Bhikkhus, your teacher is like a cowherd who guards my cows for hire, but my son is like the owner who enjoys the five products of the cow as he wishes,’’ and spoke these verses:
Khi ấy, Bậc Đạo Sư hỏi họ: “Này các Tỳ-khưu, các con đang nói gì vậy?” Sau khi được trình bày sự việc, Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, vị Giáo thọ sư của các con giống như người chăn bò thuê trong giáo pháp của Ta, còn con trai của Ta thì giống như chủ bò được tùy ý thưởng thức năm loại sữa.” Rồi Ngài đọc những câu kệ này:
Tattha saṃhitanti tepiṭakassa buddhavacanassetaṃ nāmaṃ.
Therein, Saṃhita is a name for the Tipiṭaka, the Buddha's word.
Ở đây, saṃhitaṃ là tên gọi của Phật ngôn Tam tạng.
Taṃ ācariye upasaṅkamitvā uggaṇhitvā bahumpi paresaṃ bhāsamāno vācento taṃ dhammaṃ sutvā yaṃ kārakena puggalena kattabbaṃ, takkaro na hoti.
Even if one has learned much of it by approaching a teacher and then recites or teaches it to others, if one does not act according to that Dhamma, which should be practiced by one who practices, one does not do so.
Dù đã đến gần các vị thầy để học và nói (bhāsamāno) hoặc giảng (vācento) nhiều về Phật ngôn Tam tạng đó cho người khác, nhưng nếu người ấy không thực hành những gì cần làm sau khi nghe pháp đó, không thực hành chánh tư duy (yonisomanasikāra) về vô thường, v.v., dù chỉ bằng một cái vỗ cánh của con gà, thì người ấy không phải là người thực hành.
Kukkuṭassa pakkhapaharaṇamattampi aniccādivasena yonisomanasikāraṃ nappavatteti.
One does not even generate proper attention (yonisomanasikāra) in terms of impermanence (anicca) and so on, even for the duration of a chicken's wing flap.
Dù chỉ bằng một cái vỗ cánh của con gà, người ấy cũng không thực hành chánh tư duy (yonisomanasikāra) về vô thường, v.v.
Eso yathā nāma divasaṃ bhatiyā gāvo rakkhanto gopo pātova niravasesaṃ sampaṭicchitvā sāyaṃ gahetvā sāmikānaṃ niyyādetvā divasabhatimattaṃ gaṇhāti, yathāruciyā pana pañca gorase paribhuñjituṃ na labhati, evameva kevalaṃ antevāsikānaṃ santikā vattapaṭivattakaraṇamattassa bhāgī hoti, sāmaññassa pana bhāgī na hoti.
This person is like a cowherd who, guarding cows for hire all day, receives all of them in the morning, and in the evening, takes them and delivers them to their owners, receiving only his daily wage, but does not get to enjoy the five products of the cow as he wishes. Just so, he only shares in receiving service and attendance from his pupils, but does not share in the ascetic life (sāmañña).
Người này giống như người chăn bò thuê, suốt ngày chăn bò, sáng sớm nhận đủ bò, chiều tối giao lại cho chủ, chỉ nhận tiền công một ngày, không được tùy ý thưởng thức năm loại sữa. Cũng vậy, vị ấy chỉ được hưởng phần chăm sóc và phục vụ từ các đệ tử, nhưng không được hưởng quả vị Sa-môn (sāmañña).
Yathā pana gopālakena niyyāditānaṃ gunnaṃ gorasaṃ sāmikāva paribhuñjanti, tathā tena kathitaṃ dhammaṃ sutvā kārakapuggalā yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjitvā keci paṭhamajjhānādīni pāpuṇanti, keci vipassanaṃ vaḍḍhetvā maggaphalāni pāpuṇanti, goṇasāmikā gorasasseva sāmaññassa bhāgino honti.
However, just as the owners of the cows delivered by the cowherd enjoy the cow's products, so too, those who practice, having heard the Dhamma taught by him, practice as instructed, and some attain the first jhāna and so on, while others cultivate vipassanā and attain the paths and fruits. Like the owners of the cows who partake of the cow's products, they become sharers in the ascetic life.
Tuy nhiên, giống như chủ bò được thưởng thức sữa từ những con bò mà người chăn đã giao lại, các cá nhân thực hành, sau khi nghe pháp được vị ấy thuyết giảng, thực hành theo lời dạy, một số đạt được Sơ thiền, v.v., một số khác phát triển tuệ quán (vipassanā) và đạt được các đạo quả (maggaphala). Giống như chủ bò hưởng sữa, họ được hưởng quả vị Sa-môn (sāmañña) của đạo quả.
Tattha appampī ceti thokaṃ ekavaggadvivaggamattampi.
Therein, appampi ce means just a little, such as one or two sections.
Ở đây, appampī ce có nghĩa là dù ít, chỉ một hoặc hai phẩm.
Dhammassa hoti anudhammacārīti atthamaññāya dhammamaññāya navalokuttaradhammassa anurūpaṃ dhammaṃ pubbabhāgapaṭipadāsaṅkhātaṃ catupārisuddhisīladhutaṅgaasubhakammaṭṭhānādibhedaṃ caranto anudhammacārī hoti.
"Dhammassa hoti anudhammacārī" means, understanding the meaning or the benefit, and understanding the Pāli or the cause, one who practices the Dhamma suitable for the nine supramundane Dhammas, that is, the practice of the preliminary stage, which consists of the fourfold purity of sīla, dhutaṅgas, asubha-kammaṭṭhāna, and so on, becomes one who practices in conformity with the Dhamma (anudhammacārī).
Dhammassa hoti anudhammacārī nghĩa là người ấy thực hành pháp phù hợp với Cửu thượng thế pháp (navalokuttaradhamma), hiểu nghĩa và hiểu lời pháp, thực hành con đường sơ khởi (pubbabhāgapaṭipadā) bao gồm Tứ thanh tịnh giới (catupārisuddhisīla), các pháp đầu đà (dhutaṅga), các đề mục bất tịnh (asubhakammaṭṭhāna), v.v., thì trở thành người sống thuận pháp.
So ‘‘ajja ajjevā’’ti paṭivedhaṃ ākaṅkhanto vicarati.
That person, practicing the preliminary stage, yearns for penetration, thinking, "May I penetrate it today, even today," and wanders about.
Vị ấy sống với mong muốn thâm nhập (paṭivedha) chân lý “ngay hôm nay, ngay hôm nay!”
So imāya sammāpaṭipattiyā rāgañca dosañca pahāya mohaṃ sammā hetunā nayena parijānitabbe dhamme parijānanto tadaṅgavikkhambhanasamucchedapaṭippassaddhinissaraṇavimuttīnaṃ vasena suvimuttacitto, anupādiyāno idha vā huraṃ vāti idhalokaparalokapariyāpannā vā ajjhattikabāhirā vā khandhāyatanadhātuyo catūhi upādānehi anupādiyanto mahākhīṇāsavo maggasaṅkhātassa sāmaññassa vasena āgatassa phalasāmaññassa ceva pañcaasekkhadhammakkhandhassa ca bhāgavā hotīti ratanakūṭena viya agārassa arahattena desanāya kūṭaṃ gaṇhīti.
That person, by this right practice, abandoning lust, hatred, and delusion, and discerning the truths that should be discerned rightly by reason and method, becomes one whose mind is well-liberated by means of liberation through suppression, liberation through eradication, liberation through tranquilization, and liberation through escape. "Anupādiyāno idha vā huraṃ vā" means, not clinging to the aggregates, sense bases, and elements pertaining to this world or the next, or to internal or external aggregates, sense bases, and elements, by means of the four clingings, that great Arahant becomes a partaker of the fruit of recluseship, which comes by way of the path of recluseship, and of the five qualities of the Asekha. Thus, just as a house is crowned with a jeweled pinnacle, so the teaching is crowned with Arahantship.
Nhờ sự thực hành đúng đắn này, vị ấy đoạn trừ tham, sân và si, chánh trí (sammappajāno) hiểu rõ các pháp cần được hiểu bằng lý do và phương pháp đúng đắn, tâm được giải thoát hoàn toàn (suvimuttacitto) nhờ các loại giải thoát (vimutti) như tadaṅgavimutti, vikkhambhanavimutti, samucchedavimutti, paṭippassaddhivimutti và nissaraṇavimutti. Anupādiyāno idha vā huraṃ vā nghĩa là vị A-la-hán vĩ đại không chấp thủ các uẩn (khandhā), xứ (āyatana), giới (dhātu) thuộc về đời này hay đời sau, hoặc thuộc nội phần hay ngoại phần, bằng bốn loại chấp thủ (upādāna). Vị ấy được hưởng quả vị Sa-môn (phalasāmañña) đến từ quả vị Sa-môn (sāmañña) gọi là đạo (magga), và năm uẩn pháp vô học (pañcaasekkhadhammakkhandha), như việc đặt chóp đỉnh bằng ngọc quý lên ngôi nhà, Ngài đã đặt chóp đỉnh của giáo pháp bằng quả vị A-la-hán.
Tatrāyaṃ anupubbikathā – atīte allakapparaṭṭhe allakapparājā nāma, veṭhadīpakaraṭṭhe veṭhadīpakarājā nāmāti ime dve daharakālato paṭṭhāya sahāyakā hutvā ekācariyakule sippaṃ uggaṇhitvā attano attano pitūnaṃ accayena chattaṃ ussāpetvā āyāmena dasadasayojanike raṭṭhe rājāno ahesuṃ.
The sequential story here is as follows: In the past, there were two kings who were friends from their youth, King Allakappa in the country of Allakappa, and King Veṭhadīpaka in the country of Veṭhadīpaka. They learned crafts in the same teacher's family and, upon the passing of their respective fathers, raised the royal parasol, becoming kings over realms ten yojanas in length.
Đây là câu chuyện tuần tự về sự việc đó: Trong quá khứ, tại vương quốc Allakappa có một vị vua tên là Allakappa, và tại vương quốc Veṭhadīpaka có một vị vua tên là Veṭhadīpaka. Hai vị vua này là bạn thân từ thuở nhỏ, cùng học nghề tại nhà một vị thầy. Sau khi cha của họ qua đời, họ lên ngôi vua, mỗi người cai trị một vương quốc rộng mười yojana.
Te kālena kālaṃ samāgantvā ekato tiṭṭhantā nisīdantā nipajjantā mahājanaṃ jāyamānañca jīyamānañca mīyamānañca disvā ‘‘paralokaṃ gacchantaṃ anugacchanto nāma natthi, antamaso attano sarīrampi nānugacchati, sabbaṃ pahāya gantabbaṃ, kiṃ no gharāvāsena, pabbajissāmā’’ti mantetvā rajjāni puttadārānaṃ niyyādetvā isipabbajjaṃ pabbajitvā himavantappadese vasantā mantayiṃsu – ‘‘mayaṃ rajjaṃ pahāya pabbajitā, na jīvituṃ asakkontā.
From time to time, they would meet and, standing, sitting, or lying together, they saw the multitude being born, aging, and dying, and thought: "No one follows another to the other world; not even one's own body follows. Everything must be abandoned and departed from. What is the use of household life for us? We shall go forth." Having thus consulted, they entrusted their kingdoms to their sons and wives, and went forth into the ascetic life. While dwelling in the Himalayan region, they consulted: "We have abandoned our kingdoms and gone forth, not because we were unable to live.
Thỉnh thoảng, họ gặp gỡ, cùng đứng, ngồi, nằm, và khi nhìn thấy chúng sinh sinh ra, già đi và chết đi, họ suy nghĩ: “Không ai đi theo người ra đi về thế giới bên kia, ngay cả thân thể của mình cũng không theo được. Tất cả đều phải bỏ lại mà đi. Chúng ta ở nhà thì có ích gì? Chúng ta hãy xuất gia!” Sau khi bàn bạc, họ giao lại vương quốc cho con cái và vợ, rồi xuất gia làm đạo sĩ (isi). Khi đang sống ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn, họ lại bàn bạc:
Te mayaṃ ekaṭṭhāne vasantā apabbajitasadisāyeva homa, tasmā visuṃ vasissāma.
While living together in one place, we are just like laypeople; therefore, we shall live separately.
“Chúng ta đã bỏ vương quốc để xuất gia, không phải vì không thể sống được.
Tvaṃ etasmiṃ pabbate vasa, ahaṃ imasmiṃ pabbate vasissāmi.
You reside on that mountain, and I will reside on this mountain.
Nếu chúng ta sống chung một chỗ, chúng ta cũng sẽ giống như những người chưa xuất gia. Vậy nên, chúng ta hãy sống riêng rẽ.
Anvaḍḍhamāsaṃ pana uposathadivase ekato bhavissāmā’’ti.
But on the Uposatha day, every half-month, we shall come together.”
Ngươi hãy sống trên ngọn núi này, còn ta sẽ sống trên ngọn núi kia.
Atha kho nesaṃ etadahosi – ‘‘evampi no gaṇasaṅgaṇikāva bhavissati, tvaṃ pana tava pabbate aggiṃ jāleyyāsi, ahaṃ mama pabbate aggiṃ jālessāmi, tāya saññāya atthibhāvaṃ jānissāmā’’ti.
Then it occurred to them: “Even this will be merely association with a group. You should light a fire on your mountain, and I will light a fire on my mountain. By that sign, we will know of each other's existence.”
Tuy nhiên, cứ mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, chúng ta sẽ gặp nhau.”
Te tathā kariṃsu.
They did so.
Rồi họ nghĩ: “Nếu vậy, chúng ta vẫn sẽ có sự tụ tập. Vậy thì, ngươi hãy đốt lửa trên núi của ngươi, ta sẽ đốt lửa trên núi của ta, chúng ta sẽ biết sự hiện diện của nhau bằng dấu hiệu đó.” Họ đã làm như vậy.
Atha aparabhāge veṭhadīpakatāpaso kālaṃ katvā mahesakkho devarājā hutvā nibbatto.
Later, the ascetic of Veṭhadīpa passed away and was reborn as a powerful king of devas.
Sau đó, đạo sĩ Veṭhadīpaka qua đời và tái sinh thành một vị thiên vương (devarājā) có oai lực lớn.
Tato aḍḍhamāse sampatte aggiṃ adisvāva itaro ‘‘sahāyako me kālakato’’ti aññāsi.
When half a month had passed, the other ascetic, seeing no fire, knew, “My friend has passed away.”
Nửa tháng sau, khi không thấy lửa cháy, vị đạo sĩ kia (Allakappa) biết rằng “Bạn ta đã qua đời.”
Itaropi nibbattakkhaṇeyeva attano devasiriṃ oloketvā kammaṃ upadhārento nikkhamanato paṭṭhāya attano tapacariyaṃ disvā ‘‘gantvā mama sahāyakaṃ passissāmī’’ti taṃ attabhāvaṃ vijahitvā maggikapuriso viya tassa santikaṃ gantvā vanditvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
The other, upon being reborn, looked upon his divine glory and, reflecting on his actions, saw his ascetic practice since leaving home. He thought, “I will go and see my friend,” and abandoning that divine form, he went to the ascetic like a traveler, paid homage, and stood to one side.
Vị thiên vương kia, ngay khi tái sinh, nhìn thấy sự huy hoàng của mình và quán xét nghiệp thiện đã tạo. Từ khi xuất gia, Ngài thấy được sự thực hành khổ hạnh của mình. Ngài nghĩ: “Ta sẽ đi thăm bạn ta.” Rồi Ngài bỏ thân thiên nhân ấy, giống như một người lữ hành, đến chỗ bạn mình, đảnh lễ và đứng sang một bên.
Atha naṃ so āha – ‘‘kuto āgatosī’’ti?
Then the ascetic said to him, “Where have you come from?”
Khi ấy, vị đạo sĩ kia hỏi Ngài: “Ngươi từ đâu đến?”
‘‘Maggikapuriso ahaṃ, bhante, dūratova āgatomhi.
“I am a traveler, venerable sir, come from afar.
“Bạch Ngài, con là một người lữ hành, con đến từ rất xa.”
Kiṃ pana, bhante, ayyo imasmiṃ ṭhāne ekakova vasati, aññopi koci atthī’’ti?
But, venerable sir, do you live alone in this place? Is there anyone else?”
“Bạch Ngài, Ngài sống một mình ở đây sao? Có ai khác nữa không?”
‘‘Atthi me eko sahāyako’’ti.
“I have a friend,” he replied.
“Ta có một người bạn.”
‘‘Kuhiṃ so’’ti?
“Where is he?”
“Ngài ấy ở đâu?”
‘‘Etasmiṃ pabbate vasati, uposathadivase pana aggiṃ na jāleti, mato nūna bhavissatī’’ti.
“He lives on that mountain, but he does not light a fire on the Uposatha day; he must have died.”
“Ngài ấy sống trên ngọn núi kia, nhưng vào ngày Uposatha, Ngài ấy không đốt lửa. Chắc Ngài ấy đã qua đời rồi.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti?
“Is that so, venerable sir?”
“Bạch Ngài, đúng vậy sao?”
‘‘Evamāvuso’’ti.
“Yes, friend.”
“Này hiền giả, đúng vậy.”
‘‘Ahaṃ so, bhante’’ti.
“Venerable sir, I am that friend,” he said.
“Bạch Ngài, con chính là người bạn ấy.”
‘‘Kuhiṃ nibbattosī’’ti?
“Where were you reborn?”
“Ngươi đã tái sinh ở đâu?”
‘‘Devaloke mahesakkho devarājā hutvā nibbattosmi, bhante, ‘ayyaṃ passissāmī’ti puna āgatomhi.
“Venerable sir, I was reborn as a powerful king of devas in the deva world. I came back again to see the venerable one.
“Bạch Ngài, con đã tái sinh làm một vị thiên vương (devarājā) có oai lực lớn trong cõi trời. Con đã trở lại để thăm Ngài.”
Api nu kho ayyānaṃ imasmiṃ ṭhāne vasantānaṃ koci upaddavo atthī’’ti?
Is there any trouble for you, venerable one, living in this place?”
Thưa Tôn giả, có chăng các ngài đang sống ở nơi đây gặp phải bất kỳ tai họa nào không?
‘‘Āma, āvuso, hatthī nissāya kilamāmī’’ti.
“Yes, friend, I am troubled by elephants.”
“Vâng, này Hiền giả, tôi mệt mỏi vì lũ voi.”
‘‘Kiṃ vo, bhante, hatthī karontī’’ti?
“Venerable sir, what do the elephants do to you?”
“Thưa Tôn giả, lũ voi làm gì các ngài?”
‘‘Sammajjanaṭṭhāne laṇḍaṃ pātenti, pādehi bhūmiyaṃ paharitvā paṃsuṃ uddharanti, svāhaṃ laṇḍaṃ chaḍḍento paṃsuṃ samaṃ karonto kilamāmī’’ti.
“They drop dung in the sweeping area, and they kick the ground with their feet, raising dust. So I get tired sweeping away the dung and leveling the dust.”
“Chúng phóng uế ở nơi quét dọn, dùng chân giẫm đạp đất làm bụi bay lên, và tôi mệt mỏi vì phải dọn dẹp phân và san phẳng đất.”
‘‘Kiṃ pana tesaṃ anāgamanaṃ icchathā’’ti?
“Do you wish for them not to come?”
“Vậy các ngài có muốn chúng không đến nữa không?”
‘‘Āmāvuso’’ti.
“Yes, friend,” he replied.
“Vâng, này Hiền giả.”
‘‘Tena hi tesaṃ anāgamanaṃ karissāmī’’ti tāpasassa hatthikantavīṇañceva hatthikantamantañca adāsi.
“In that case, I will make them not come,” and he gave the ascetic a lute that charmed elephants and a mantra that charmed elephants.
“Vậy thì tôi sẽ làm cho chúng không đến nữa,” nói rồi, vị thần ấy trao cho vị ẩn sĩ cây đàn vīṇā mê hoặc voi và thần chú mê hoặc voi.
Dadanto ca pana vīṇāya tisso tantiyo dassetvā tayo mante uggaṇhāpetvā ‘‘imaṃ tantiṃ paharitvā imasmiṃ mante vutte nivattitvā oloketumpi asakkontā hatthī palāyanti, imaṃ tantiṃ paharitvā imasmiṃ mante vutte nivattitvā pacchato olokentā olokentā palāyanti, imaṃ tantiṃ paharitvā imasmiṃ mante vutte hatthiyūthapati piṭṭhiṃ upanāmento āgacchatī’’ti ācikkhitvā, ‘‘yaṃ vo ruccati, taṃ kareyyāthā’’ti vatvā tāpasaṃ vanditvā pakkāmi.
As he gave them, he showed him the three strings of the lute and taught him the three mantras, explaining, “If you strike this string and recite this mantra, the elephants will flee without being able to turn back even to look. If you strike this string and recite this mantra, they will flee, continually looking back. If you strike this string and recite this mantra, the elephant herd leader will come, bending its back.” After explaining this, he said, “Do whichever you prefer,” then paid homage to the ascetic and departed.
Khi trao, vị thần ấy chỉ ba dây đàn vīṇā và dạy ba thần chú, nói: “Nếu đánh dây này và niệm thần chú này, lũ voi sẽ bỏ chạy mà không thể quay đầu nhìn lại; nếu đánh dây này và niệm thần chú này, chúng sẽ bỏ chạy vừa đi vừa ngoái đầu nhìn lại; nếu đánh dây này và niệm thần chú này, con voi đầu đàn sẽ đến cúi lưng xuống.” Vị thần ấy nói: “Các ngài thích gì thì hãy làm điều đó,” rồi đảnh lễ vị ẩn sĩ và rời đi.
Tāpaso palāyanamantaṃ vatvā palāyanatantiṃ paharitvā hatthī palāpetvā vasi.
The ascetic recited the mantra of fleeing and struck the string of fleeing, causing the elephants to flee, and he lived in peace.
Vị ẩn sĩ niệm thần chú xua đuổi voi và đánh dây đàn xua đuổi voi, khiến lũ voi bỏ chạy và sống yên ổn.
Tasmiṃ samaye kosambiyaṃ pūrantappo nāma rājā hoti.
At that time, in Kosambī, there was a king named Pūrantappa.
Vào thời điểm đó, tại Kosambī có một vị vua tên là Pūrantappa.
So ekadivasaṃ gabbhiniyā deviyā saddhiṃ bālasūriyatapaṃ tappamāno abbhokāsatale nisīdi.
One day, he sat with his pregnant queen in an open space, basking in the morning sun.
Một ngày nọ, nhà vua cùng với hoàng hậu đang mang thai ngồi ngoài trời để tắm nắng sớm.
Devī rañño pārupanaṃ satasahassagghanikaṃ rattakambalaṃ pārupitvā nisinnā raññā saddhiṃ samullapamānā rañño aṅgulito satasahassagghanikaṃ rājamuddikaṃ nīharitvā attano aṅguliyaṃ pilandhi.
The queen, covered in a red woolen blanket worth a hundred thousand, sat conversing with the king and removed the royal ring, also worth a hundred thousand, from the king’s finger and placed it on her own finger.
Hoàng hậu, đang mặc chiếc chăn đỏ trị giá một trăm ngàn đồng của nhà vua, ngồi trò chuyện với nhà vua, rồi tháo chiếc nhẫn hoàng gia trị giá một trăm ngàn đồng từ ngón tay của nhà vua và đeo vào ngón tay của mình.
Tasmiṃ samaye hatthiliṅgasakuṇo ākāsena gacchanto dūrato rattakambalapārupanaṃ deviṃ disvā ‘‘maṃsapesī’’ti saññāya pakkhe vissajjetvā otari.
At that moment, an elephant-bird flying through the sky saw the queen covered in the red blanket from afar and, mistaking her for a piece of meat, spread its wings and descended.
Vào lúc đó, một con chim voi (hatthiliṅgasakuṇa) đang bay trên trời, từ xa nhìn thấy hoàng hậu mặc chăn đỏ, tưởng là một miếng thịt nên xò cánh hạ xuống.
Rājā tassa otaraṇasaddena bhīto uṭṭhāya antonivesanaṃ pāvisi.
The king, frightened by its descending sound, rose and entered the inner palace.
Nhà vua, sợ hãi vì tiếng chim hạ xuống, đứng dậy và đi vào nội cung.
Devī garugabbhatāya ceva bhīrukajātikatāya ca vegena gantuṃ nāsakkhi.
The queen, due to her heavy pregnancy and timid nature, could not move quickly.
Hoàng hậu, vì đang mang thai nặng và bản tính nhút nhát, không thể đi nhanh được.
Atha naṃ so sakuṇo ajjhappatto nakhapañjare nisīdāpetvā ākāsaṃ pakkhandi.
Then the bird swooped down, seized her in its talons, and soared into the sky.
Sau đó, con chim ấy đến gần, dùng móng vuốt kẹp lấy bà và bay lên trời.
Te kira sakuṇā pañcannaṃ hatthīnaṃ balaṃ dhārenti.
It is said that these birds possess the strength of five elephants.
Người ta nói rằng những con chim ấy có sức mạnh của năm con voi.
Tasmā ākāsena netvā yathārucitaṭṭhāne nisīditvā maṃsaṃ khādanti.
Therefore, they carry their prey through the sky, land in a desired spot, and eat the meat.
Vì vậy, chúng mang con mồi lên trời, rồi đậu ở nơi chúng thích và ăn thịt.
Sāpi tena nīyamānā maraṇabhayabhītā cintesi – ‘‘sacāhaṃ viravissāmi, manussasaddo nāma tiracchānagatānaṃ ubbejanīyo, taṃ sutvā maṃ chaḍḍessati.
As she was being carried by it, terrified by the fear of death, she thought: “If I scream, a human voice is alarming to animals, and hearing it, the bird will drop me.
Hoàng hậu, đang bị con chim mang đi, sợ hãi cái chết và nghĩ: “Nếu ta la lên, tiếng người sẽ làm cho loài vật hoảng sợ, nghe thấy tiếng ta, nó sẽ thả ta xuống.
Evaṃ sante saha gabbhena jīvitakkhayaṃ pāpuṇissāmi, yasmiṃ pana ṭhāne nisīditvā maṃ khādituṃ ārabhissati, tatra naṃ saddaṃ katvā palāpessāmī’’ti.
In that case, I will lose my life along with my unborn child. But when it lands somewhere to eat me, I will make a sound there and scare it away.”
Trong trường hợp đó, ta sẽ mất mạng cùng với đứa con trong bụng. Vậy thì, ở nơi nào nó định đậu xuống để ăn thịt ta, ta sẽ la lên để xua đuổi nó.”
Sā attano paṇḍitatāya adhivāsesi.
Being wise, she endured.
Bà, với sự thông minh của mình, đã nhẫn nại chịu đựng.
Tadā ca himavantapadese thokaṃ vaḍḍhitvā maṇḍapākārena ṭhito eko mahānigrodho hoti.
At that time, in the Himālaya region, there was a great banyan tree that had grown a little and stood in the shape of a pavilion.
Vào lúc đó, ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, có một cây đa lớn đã lớn lên một chút và có hình dáng như một cái lều.
So sakuṇo migarūpādīni tattha netvā khādati, tasmā tampi tattheva netvā viṭapabbhantare ṭhapetvā āgatamaggaṃ olokesi.
The bird used to bring deer and other animals there to eat, so it carried her there too, placed her in the fork of the branches, and looked back at the path it had come.
Con chim ấy thường mang các loài thú săn đến đó để ăn, vì vậy nó cũng mang hoàng hậu đến đó, đặt bà vào giữa các cành cây và nhìn lại con đường đã đến.
Āgatamaggolokanaṃ kira tesaṃ dhammatā.
It is their custom, apparently, to look back at the path they have come.
Người ta nói rằng việc nhìn lại con đường đã đến là thói quen của chúng.
Tasmiṃ khaṇe devī, ‘‘idāni imaṃ palāpetuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā ubho hatthe ukkhipitvā pāṇisaddañceva mukhasaddañca katvā taṃ palāpesi.
At that moment, the queen, thinking, “Now is the time to scare this bird away,” raised both her hands, made clapping and vocal sounds, and scared it away.
Vào khoảnh khắc đó, hoàng hậu nghĩ: “Bây giờ là lúc phải xua đuổi con chim này,” rồi giơ hai tay lên, vỗ tay và la lớn, xua đuổi nó đi.
Athassā sūriyatthaṅgamanakāle gabbhe kammajavātā caliṃsu.
Then, at sunset, the karmic winds stirred in her womb.
Sau đó, vào lúc mặt trời lặn, những cơn gió do nghiệp trong bụng bà bắt đầu chuyển động.
Sabbadisāsu gajjanto mahāmegho uṭṭhahi.
A great cloud rose, thundering in all directions.
Một đám mây lớn nổi lên, gầm thét khắp mọi hướng.
Sukhedhitāya rājamahesiyā ‘‘mā bhāyi, ayye’’ti vacanamattampi alabhamānāya dukkhaparetāya sabbarattiṃ niddā nāma nāhosi.
The royal queen, who had been brought up in comfort, could not even get a single comforting word like “Do not be afraid, madam,” and was overcome by suffering; she had no sleep throughout the entire night.
Hoàng hậu, vốn được nuôi dưỡng trong sung sướng, không nhận được dù chỉ một lời an ủi “Đừng sợ, này quý nương,” nên chìm trong đau khổ, suốt đêm không thể ngủ được.
Vibhātāya pana rattiyā valāhakavigamo ca aruṇuggamanañca tassā gabbhavuṭṭhānañca ekakkhaṇeyeva ahosi.
But at daybreak, the dispersal of the clouds, the rising of the dawn, and her childbirth happened simultaneously.
Tuy nhiên, khi đêm tàn, sự tan biến của mây, sự mọc lên của bình minh, và sự ra đời của đứa con trong bụng bà đều xảy ra cùng một lúc.
Sā meghautuñca pabbatautuñca aruṇautuñca gahetvā jātattā puttassa utenoti nāmaṃ akāsi.
Because her son was born taking into account the season of clouds, the season of mountains, and the season of dawn, she named him Utena.
Vì đứa con được sinh ra vào mùa mưa, mùa núi và mùa bình minh, bà đặt tên cho con là Utena.
Allakappatāpasassapi kho tato avidūre vasanaṭṭhānaṃ hoti.
The ascetic of Allakappa also had his dwelling not far from there.
Nơi ở của ẩn sĩ Allakappa cũng không xa đó.
So pakatiyāva vassadivase sītabhayena phalāphalatthāya vanaṃ na pavisati, taṃ rukkhamūlaṃ gantvā sakuṇehi khāditamaṃsānaṃ aṭṭhiṃ āharitvā koṭṭetvā rasaṃ katvā pivati.
By nature, on rainy days, due to fear of cold, he would not enter the forest for fruits. He would go to the foot of that tree, bring bones from animals eaten by birds, crush them, make a juice, and drink it.
Vị ấy vốn dĩ không vào rừng để tìm trái cây vào những ngày mưa vì sợ lạnh, mà đi đến gốc cây đó, lấy xương của những con vật bị chim ăn, nghiền nát, làm thành nước và uống.
Tasmā taṃ divasaṃ ‘‘aṭṭhiṃ āharissāmī’’ti tattha gantvā rukkhamūle aṭṭhiṃ pariyesento upari dārakasaddaṃ sutvā ullokento deviṃ disvā ‘‘kāsi tva’’nti vatvā ‘‘mānusitthimhī’’ti.
Therefore, on that day, intending to bring bones, he went there, searched for bones at the foot of the tree, and hearing the sound of a child above, he looked up, saw the queen, and asked, “Who are you?” She replied, “I am a human woman.”
Vì vậy, vào ngày đó, vị ấy nghĩ: “Ta sẽ đi lấy xương,” rồi đến đó, đang tìm xương dưới gốc cây thì nghe thấy tiếng trẻ con ở trên, ngước lên nhìn thấy hoàng hậu và hỏi: “Ngươi là ai?” Bà đáp: “Tôi là người phụ nữ.”
‘‘Kathaṃ āgatāsī’’ti?
“How did you get here?” he asked.
“Ngươi đến đây bằng cách nào?”
‘‘Hatthiliṅgasakuṇenānītāmhī’’ti vutte ‘‘otarāhī’’ti āha.
When she replied, “I was brought by an elephant-bird,” he said, “Come down.”
Khi bà nói: “Tôi bị chim voi mang đến,” vị ấy bảo: “Hãy xuống đi.”
‘‘Jātisambhedato bhāyāmi, ayyā’’ti.
“I am afraid of mixing castes, venerable sir,” she said.
“Thưa Tôn giả, tôi sợ sự pha tạp chủng tộc.”
‘‘Kāsi tva’’nti?
“What is your caste?” he asked.
“Ngươi thuộc chủng tộc nào?”
‘‘Khattiyāmhī’’ti.
“I am a Khattiya,” she replied.
“Tôi là dòng Sát-đế-lỵ.”
‘‘Ahampi khattiyoyevā’’ti.
“I am also a Khattiya,” he said.
“Ta cũng là dòng Sát-đế-lỵ.”
‘‘Tena hi khattiyamāyaṃ kathehī’’ti.
“Then tell me the Khattiya-māyā (royal deceit),” she said.
“Vậy thì hãy nói về mánh lới của dòng Sát-đế-lỵ.”
So khattiyamāyaṃ kathesi.
So he told her the Khattiya-māyā.
Vị ấy đã nói về mánh lới của dòng Sát-đế-lỵ.
‘‘Tena hi āruyha puttaṃ me otārehī’’ti.
“Then climb up and bring my son down for me,” she said.
“Vậy thì hãy trèo lên và đưa con của tôi xuống.”
So ekena passena abhiruhanamaggaṃ katvā abhiruhitvā dārakaṃ gaṇhi.
He made a climbing path on one side, climbed up, and took the child.
Vị ấy tạo một lối đi lên ở một bên, rồi trèo lên và bế đứa bé.
‘‘Mā maṃ hatthena chupī’’ti ca vutte taṃ achupitvāva dārakaṃ otāresi.
When she said, “Do not touch me with your hand,” he brought the child down without touching her.
Khi bà nói: “Đừng chạm vào tôi bằng tay,” vị ấy đã không chạm vào bà mà đưa đứa bé xuống.
Devīpi otari.
The queen also descended.
Hoàng hậu cũng xuống.
Atha naṃ assamapadaṃ netvā sīlabhedaṃ akatvāva anukampāya paṭijaggi, nimmakkhikamadhuṃ āharitvā sayaṃjātasāliṃ āharitvā yāguṃ pacitvā adāsi.
Then, taking her to the hermitage, he cared for her out of compassion without violating his sīla. He brought pure honey and self-grown rice, cooked porridge, and gave it to her.
Sau đó, vị ấy đưa bà đến am thất, chăm sóc bà bằng lòng từ bi mà không phá vỡ giới hạnh, mang mật ong không có ruồi, mang lúa gạo tự mọc, nấu cháo và dâng cho bà.
Evaṃ tasmiṃ paṭijaggante sā aparabhāge cintesi – ‘‘ahaṃ neva āgatamaggaṃ jānāmi, na gamanamaggaṃ jānāmi, imināpi me saddhiṃ vissāsamattampi natthi.
As he cared for her in this way, she later thought: "I do not know the way I came, nor do I know the way to go back, and I have no familiarity whatsoever with this ascetic.
Khi vị ấy đang chăm sóc bà như vậy, sau đó bà nghĩ: “Ta không biết đường đến, cũng không biết đường về, và ta cũng không có chút tin tưởng nào vào vị này.
Sace panāyaṃ amhe pahāya katthaci gamissati, ubhopi idheva maraṇaṃ pāpuṇissāma, yaṃkiñci katvā imassa sīlaṃ bhinditvā yathā maṃ na muñcati, tathā taṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti.
If he should abandon us and go somewhere, both of us will die right here. It is proper to do whatever it takes to break his sīla so that he will not abandon me."
Nếu vị này bỏ chúng ta mà đi đâu đó, cả hai chúng ta sẽ chết ở đây. Ta phải làm gì đó để phá vỡ giới hạnh của vị này, để vị ấy không bỏ rơi ta.”
Atha naṃ dunnivatthaduppārutadassanena palobhetvā sīlavināsaṃ pāpesi.
Then, by showing herself improperly dressed and improperly covered, she enticed him and caused him to lose his sīla.
Sau đó, bà quyến rũ vị ấy bằng cách ăn mặc hở hang và làm cho giới hạnh của vị ấy bị phá vỡ.
Tato paṭṭhāya dvepi samaggavāsaṃ vasiṃsu.
From then on, both of them lived together harmoniously.
Từ đó trở đi, cả hai cùng sống hòa hợp.
Athekadivasaṃ tāpaso nakkhattayogaṃ ullokento pūrantappassa nakkhattamilāyanaṃ disvā ‘‘bhadde kosambiyaṃ pūrantapparājā mato’’ti āha.
Then one day, the ascetic, observing the conjunction of the constellations, saw the waning of King Pūrantappa's constellation and said, "My dear, King Pūrantappa has died in Kosambī."
Một ngày nọ, vị ẩn sĩ nhìn các chòm sao, thấy chòm sao của vua Pūrantappa bị lu mờ, bèn nói: “Này hiền nữ, vua Pūrantappa ở Kosambī đã băng hà.”
‘‘Kasmā, ayya, evaṃ vadesi?
"Why, venerable sir, do you say so?
“Thưa Tôn giả, tại sao ngài nói như vậy?
Kiṃ te tena saddhiṃ āghāto atthī’’ti?
Do you have any enmity towards him?"
Ngài có thù oán gì với ông ấy không?”
‘‘Natthi, bhadde, nakkhattamilāyanamassa disvā evaṃ vadāmī’’ti, sā parodi.
"No, my dear, I say so because I saw the waning of his constellation," she wept.
“Không, này hiền nữ, ta nói như vậy vì thấy chòm sao của ông ấy bị lu mờ.” Bà liền khóc.
Atha naṃ ‘‘kasmā rodasī’’ti pucchitvā tāya tassa attano sāmikabhāve akkhāte āha – ‘‘mā, bhadde, rodi, jātassa nāma niyato maccū’’ti.
Then, having asked her why she was weeping, and after she had told him that he was her husband, he said, "Do not weep, my dear, death is certain for one who is born."
Sau đó, vị ấy hỏi: “Tại sao ngươi khóc?” Khi bà kể rằng ông ấy là chồng mình, vị ấy nói: “Này hiền nữ, đừng khóc, cái chết là điều chắc chắn đối với người đã sinh ra.”
‘‘Jānāmi, ayyā’’ti vutte ‘‘atha kasmā rodasī’’ti?
When she said, "I know, venerable sir," he asked, "Then why do you weep?"
Khi bà nói: “Tôi biết, thưa Tôn giả,” vị ấy hỏi: “Vậy tại sao ngươi lại khóc?”
‘‘Putto me kulasantakassa rajjassa anucchaviko, ‘sace tatra abhavissa, setacchattaṃ ussāpayissa.
"My son is worthy of the royal inheritance of the family. 'If he were there, he would raise the white parasol.
“Con trai tôi xứng đáng với vương quốc của dòng tộc. Nếu nó ở đó, nó đã có thể giương cao lọng trắng.
Idāni mahājāniko vata jāto’ti sokena rodāmi, ayyā’’ti.
Now, a great loss has indeed occurred!' I weep from sorrow, venerable sir."
Bây giờ nó đã trở thành một kẻ bất hạnh lớn lao. Tôi khóc vì nỗi buồn đó, thưa Tôn giả.”
‘‘Hotu, bhadde, mā cintayi, sacassa rajjaṃ patthesi, ahamassa rajjalabhanākāraṃ karissāmī’’ti.
"Let it be, good lady, do not worry. If you desire the kingdom for him, I will arrange for him to obtain the kingdom."
“Thôi được, này hiền nữ, đừng lo lắng. Nếu ngươi mong muốn vương quốc cho con trai mình, ta sẽ làm cho nó có được vương quốc.”
Athassa hatthikantavīṇañceva hatthikantamante ca adāsi.
Then he gave him the elephant-charming lute and the elephant-charming mantras.
Sau đó, vị ấy trao cho đứa bé cây đàn vīṇā mê hoặc voi và các thần chú mê hoặc voi.
Tadā anekāni hatthisahassāni āgantvā vaṭarukkhamūle nisīdanti.
At that time, thousands of elephants came and sat at the foot of the banyan tree.
Vào lúc đó, hàng ngàn con voi đến và ngồi dưới gốc cây đa.
Atha naṃ āha – ‘‘hatthīsu anāgatesuyeva rukkhaṃ abhiruhitvā tesu āgatesu imaṃ mantaṃ vatvā imaṃ tantiṃ pahara, sabbe nivattitvā oloketumpi asakkontā palāyissanti, atha otaritvā āgaccheyyāsī’’ti.
Then he said to him, "Climb the tree before the elephants arrive, and when they come, recite this mantra and strike this string. All of them will turn back and flee without even being able to look. Then you may descend and come."
Sau đó, vị ấy bảo đứa bé: “Khi lũ voi chưa đến, hãy trèo lên cây. Khi chúng đến, hãy niệm thần chú này và đánh dây đàn này, tất cả chúng sẽ bỏ chạy mà không thể quay đầu nhìn lại. Sau đó, con hãy xuống và đến đây.”
So tathā katvā āgantvā taṃ pavattiṃ ārocesi.
He did so and, having returned, reported the incident.
Đứa bé làm theo như vậy, rồi đến và kể lại sự việc.
Atha naṃ dutiyadivase āha – ‘‘ajja imaṃ mantaṃ vatvā imaṃ tantiṃ pahareyyāsi, sabbe nivattitvā olokentā palāyissantī’’ti.
Then on the second day, he said to him, "Today, recite this mantra and strike this string. All of them will turn back, look, and then flee."
Sau đó, vào ngày thứ hai, vị ấy bảo đứa bé: “Hôm nay, con hãy niệm thần chú này và đánh dây đàn này, tất cả chúng sẽ bỏ chạy vừa đi vừa ngoái đầu nhìn lại.”
Tadāpi tathā katvā āgantvā ārocesi.
He did so again and, having returned, reported it.
Vào lúc đó, đứa bé cũng làm theo như vậy, rồi đến và kể lại.
Atha naṃ tatiyadivase āha – ‘‘ajja imaṃ mantaṃ vatvā imaṃ tantiṃ pahareyyāsi, yūthapati piṭṭhiṃ upanāmento āgamissatī’’ti.
Then on the third day, he said to him, "Today, recite this mantra and strike this string. The leader of the herd will come, bending his back towards you."
Sau đó, vào ngày thứ ba, ông ta nói với hoàng tử: “Hôm nay, con hãy đọc thần chú này và đánh đàn này, vị thủ lĩnh voi sẽ đến, cúi lưng xuống cho con.”
Tadāpi tathā katvā ārocesi.
He did so again and reported it.
Lúc đó, hoàng tử cũng làm như vậy và báo cáo lại.
Athassa mātaraṃ āmantetvā, ‘‘bhadde, puttassa te sāsanaṃ vadehi, ettova gantvā rājā bhavissatī’’ti āha.
Then, calling his mother, he said, "Good lady, give your son a message. He will go from here and become king."
Sau đó, vị đạo sĩ gọi mẹ của hoàng tử và nói: “Này cô nương, hãy nói lời dặn dò của con trai cô, nó sẽ đi từ đây và trở thành vua.”
Sā puttaṃ āmantetvā, ‘‘tāta, tvaṃ kosambiyaṃ pūrantapparañño putto, maṃ sagabbhaṃ hatthiliṅgasakuṇo ānesī’’ti vatvā senāpatiādīnaṃ nāmāni ācikkhitvā ‘‘asaddahantānaṃ imaṃ pitu pārupanakambalañceva pilandhanamuddikañca dasseyyāsī’’ti vatvā uyyojesi.
She called her son and said, "My dear, you are the son of King Pūrantappa in Kosambī. A hatthiliṅga bird carried me away while I was pregnant." Having told him the names of the general and others, she sent him off, saying, "Show this father's cloak and signet ring to those who do not believe."
Bà ấy gọi con trai và nói: “Con trai, con là con của vua Pūrantappa ở Kosambi, chim voi đã mang mẹ đi khi mẹ đang mang thai.” Sau khi nói tên của các vị tướng lĩnh và những người khác, bà nói: “Hãy cho những người không tin xem chiếc áo choàng và chiếc nhẫn của cha con,” rồi tiễn hoàng tử đi.
Kumāro tāpasaṃ ‘‘idāni kiṃ karomī’’ti āha.
The prince asked the ascetic, "What shall I do now?"
Hoàng tử hỏi vị đạo sĩ: “Bây giờ con phải làm gì?”
‘‘Rukkhassa heṭṭhimasākhāya nisīditvā imaṃ mantaṃ vatvā imaṃ tantiṃ pahara, jeṭṭhakahatthī te piṭṭhiṃ upanāpetvā upasaṅkamissati, tassa piṭṭhiyaṃ nisinnova raṭṭhaṃ gantvā rajjaṃ gaṇhāhī’’ti.
"Sit on the lowest branch of the tree, recite this mantra, and strike this string. The chief elephant will approach you, lowering its back. Sitting on its back, go to the country and take the kingship."
Vị đạo sĩ nói: “Hãy ngồi trên cành cây thấp nhất, đọc thần chú này và đánh đàn này. Con voi chúa sẽ đến gần con, cúi lưng xuống. Hãy ngồi trên lưng nó, đi đến vương quốc và chiếm lấy ngai vàng.”
So mātāpitaro vanditvā tathā katvā āgatassa hatthino piṭṭhiyaṃ nisīditvā kaṇṇe mantayi – ‘‘ahaṃ kosambiyaṃ pūrantapparañño putto, pettikaṃ me rajjaṃ gaṇhitvā dehi sāmī’’ti.
He paid homage to his parents, did as instructed, and sitting on the back of the elephant that had arrived, he whispered into its ear, "I am the son of King Pūrantappa in Kosambī. Master, take my ancestral kingdom and give it to me."
Hoàng tử vái chào cha mẹ, rồi làm như vậy. Khi con voi đến, hoàng tử ngồi trên lưng nó và thì thầm vào tai nó: “Ta là con của vua Pūrantappa ở Kosambi, thưa chủ nhân, hãy lấy lại vương quốc của cha ta và trao cho ta.”
So taṃ sutvā ‘‘anekāni hatthisahassāni sannipatantū’’ti hatthiravaṃ ravi, anekāni hatthisahassāni sannipatiṃsu.
Hearing that, the elephant king trumpeted an elephant's roar, "Let thousands of elephants gather!" And thousands of elephants gathered.
Nghe vậy, con voi gầm lên tiếng voi: “Hàng ngàn con voi hãy tụ tập!” Hàng ngàn con voi liền tụ tập.
Puna ‘‘jiṇṇā hatthī paṭikkamantū’’ti hatthiravaṃ ravi, jiṇṇā hatthī paṭikkamiṃsu.
Again, he trumpeted an elephant's roar, "Let the old elephants retreat!" And the old elephants retreated.
Nó lại gầm lên tiếng voi: “Những con voi già hãy rút lui!” Những con voi già liền rút lui.
Puna ‘‘atitaruṇā hatthī nivattantū’’ti hatthiravaṃ ravi, tepi nivattiṃsu.
Again, he trumpeted an elephant's roar, "Let the very young elephants turn back!" And they too turned back.
Nó lại gầm lên tiếng voi: “Những con voi quá non hãy quay lại!” Chúng cũng quay lại.
So anekehi yūthahatthisahasseheva parivuto paccantagāmaṃ patvā ‘‘ahaṃ rañño putto, sampattiṃ patthayamānā mayā saddhiṃ āgacchantū’’ti āha.
Surrounded by many thousands of herd elephants, he reached a border village and said, "I am the king's son. Those who desire prosperity, come with me!"
Hoàng tử được hàng ngàn con voi chúa bao quanh, đến một ngôi làng biên giới và nói: “Ta là con của nhà vua. Những ai mong muốn sự thịnh vượng hãy đến với ta.”
‘‘Tato paṭṭhāya manussānaṃ saṅgahaṃ karonto gantvā nagaraṃ parivāretvā ‘yuddhaṃ vā me detu, rajjaṃ vā’’’ti sāsanaṃ pesesi.
From that point onwards, he gathered people, went and surrounded the city, and sent a message: "Either give me battle or the kingdom."
Từ đó trở đi, hoàng tử tập hợp dân chúng, đi vây hãm thành phố và gửi thông điệp: “Hoặc hãy giao chiến với ta, hoặc hãy giao vương quốc cho ta.”
Nāgarā āhaṃsu – ‘‘mayaṃ dvepi na dassāma.
The citizens said, "We will not give either of the two.
Dân thành nói: “Chúng tôi sẽ không giao cả hai.
Amhākañhi devī garugabbhā hatthiliṅgasakuṇena nītā, tassā atthibhāvaṃ vā natthibhāvaṃ vā mayaṃ na jānāma.
Our queen, who was heavily pregnant, was carried away by a hatthiliṅga bird, and we do not know whether she is alive or not.
Hoàng hậu của chúng tôi đang mang thai đã bị chim voi mang đi, chúng tôi không biết bà ấy còn sống hay đã chết.
Yāva tassā pavattiṃ na suṇāma.
Until we hear news of her,
Cho đến khi chúng tôi nghe được tin tức về bà ấy,
Tāva neva yuddhaṃ dassāma, na rajja’’nti.
we will neither give battle nor the kingdom."
chúng tôi sẽ không giao chiến, cũng không giao vương quốc.”
Tadā kira taṃ paveṇirajjaṃ ahosi.
It is said that at that time, it was an inherited kingdom.
Nghe nói, đó là một vương quốc truyền thống.
Tato kumāro ‘‘ahaṃ tassā putto’’ti vatvā senāpatiādīnaṃ nāmāni kathetvā tathāpi asaddahantānaṃ kambalañca muddikañca dassesi.
Then the prince said, "I am her son," and recounted the names of the general and others, and to those who still did not believe, he showed the cloak and the ring.
Sau đó, hoàng tử nói: “Ta là con trai của bà ấy,” và kể tên các vị tướng lĩnh cùng những người khác. Khi họ vẫn không tin, hoàng tử cho họ xem chiếc áo choàng và chiếc nhẫn.
Te kambalañca muddikañca sañjānitvā nikkaṅkhā hutvā dvāraṃ vivaritvā taṃ rajje abhisiñciṃsu.
Recognizing the cloak and the ring, they became free from doubt, opened the gate, and consecrated him in the kingship.
Họ nhận ra chiếc áo choàng và chiếc nhẫn, không còn nghi ngờ gì nữa, liền mở cổng thành và làm lễ tấn phong hoàng tử lên ngôi vua.
Ayaṃ tāva utenassa uppatti.
This is the origin of Utena.
Đó là sự ra đời của Utena.
Allakapparaṭṭhe pana dubbhikkhe jīvituṃ asakkonto eko kotuhaliko nāma manusso kāpiṃ nāma taruṇaputtañca kāḷiṃ nāma bhariyañca ādāya ‘‘kosambiṃ gantvā jīvissāmī’’ti pātheyyaṃ gahetvā nikkhami.
In the country of Allakappa, however, a man named Kotuhalika, unable to survive during a famine, took his young son named Kāpi and his wife named Kāḷī, and set out with provisions, thinking, "I will go to Kosambī and make a living."
Ở xứ Allakappa, có một người đàn ông tên Kotuhalika, không thể sống sót qua nạn đói. Ông ta mang theo con trai nhỏ tên Kāpi và vợ tên Kāḷī, lấy lương thực dự trữ và lên đường, nghĩ: “Ta sẽ đến Kosambi và sống ở đó.”
‘‘Ahivātarogena mahājane marante disvā nikkhamī’’tipi vadantiyeva.
Some also say that he left after seeing many people dying from a disease like snake venom or a contagious plague.
Người ta cũng kể rằng ông ta đã nhìn thấy nhiều người chết vì bệnh dịch hạch (ahivātaroga) nên đã ra đi.
Te gacchantā pātheyye parikkhīṇe khudābhibhūtā dārakaṃ vahituṃ nāsakkhiṃsu.
As they went, their provisions ran out, and overcome by hunger, they were unable to carry the child.
Khi họ đi, lương thực dự trữ cạn kiệt, họ bị đói hành hạ và không thể cõng đứa bé.
Atha sāmiko pajāpatiṃ āha – ‘‘bhadde, mayaṃ jīvantā puna puttaṃ labhissāma, chaḍḍetvā naṃ gacchāmā’’ti.
Then the husband said to his wife, "Dear, if we live, we will get another son. Let's abandon him and go."
Lúc đó, người chồng nói với vợ: “Này cô nương, nếu chúng ta sống sót, chúng ta sẽ có con nữa. Hãy bỏ nó lại và đi thôi.”
Mātu hadayaṃ nāma mudukaṃ hoti.
A mother's heart is indeed tender.
Trái tim của người mẹ thì mềm yếu.
Tasmā sā āha – ‘‘nāhaṃ jīvantameva puttaṃ chaḍḍetuṃ sakkhissāmī’’ti.
Therefore, she said, "I cannot abandon my son while he is still alive."
Vì vậy, bà ấy nói: “Tôi không thể bỏ con tôi khi nó còn sống.”
‘‘Atha kiṃ karomā’’ti?
"Then what shall we do?"
“Vậy chúng ta phải làm gì?”
‘‘Vārena naṃ vahāmā’’ti.
"Let's carry him in turns."
“Chúng ta hãy thay phiên nhau cõng nó.”
Mātā attano vāre pupphadāmaṃ viya naṃ ukkhipitvā ure nipajjāpetvā aṅkena vahitvā pituno deti.
During her turn, the mother lifted him like a garland of flowers, laid him on her chest, carried him in her lap, and gave him to the father.
Đến lượt mình, người mẹ bế đứa bé lên như một vòng hoa, đặt nó nằm trên ngực, cõng bằng hông rồi đưa cho người cha.
Tassa taṃ gahetvā gamanakāle chātakatopi balavatarā vedanā uppajji.
When the father took him and walked, a feeling more intense than hunger arose in him.
Khi người cha cõng đứa bé đi, một cảm giác đau đớn mạnh hơn cả cơn đói đã nổi lên.
So punappunaṃ āha – ‘‘bhadde, mayaṃ jīvantā puttaṃ labhissāma, chaḍḍema na’’nti.
He repeatedly said, "Dear, if we live, we will get a son. Let's abandon him."
Ông ta lặp đi lặp lại: “Này cô nương, nếu chúng ta sống sót, chúng ta sẽ có con nữa. Hãy bỏ nó lại đi.”
Sāpi punappunaṃ paṭikkhipitvā paṭivacanaṃ nādāsi.
She, too, repeatedly refused and gave no reply.
Bà ấy cũng lặp đi lặp lại từ chối và không trả lời.
Dārako vārena parivattiyamāno kilanto pitu hatthe niddāyi.
The child, being passed around in turns, grew tired and fell asleep in the father's arms.
Đứa bé mệt mỏi vì bị thay phiên cõng, đã ngủ thiếp đi trong tay người cha.
So tassa niddāyanabhāvaṃ ñatvā mātaraṃ purato katvā ekassa gacchassa heṭṭhā paṇṇasanthare taṃ nipajjāpetvā pāyāsi.
Knowing that he was asleep, the father put his wife in front, laid the child on a bed of leaves under a bush, and departed.
Biết đứa bé đã ngủ, ông ta đặt nó nằm trên một tấm lá trải dưới một bụi cây, để vợ đi trước rồi bỏ đi.
Mātā nivattitvā olokentī puttaṃ adisvā, ‘‘sāmi, kuhiṃ me putto’’ti pucchi.
The mother turned back and looked, and not seeing her son, she asked, "My lord, where is my son?"
Người mẹ quay lại nhìn, không thấy con đâu, liền hỏi: “Chàng ơi, con tôi đâu rồi?”
‘‘Ekassa me gacchassa heṭṭhā nipajjāpito’’ti.
"He was laid down under a bush."
“Tôi đã đặt nó nằm dưới một bụi cây.”
‘‘Sāmi, mā maṃ nāsayi, puttaṃ vinā jīvituṃ na sakkhissāmi, ānehi me putta’’nti uraṃ paharitvā paridevi.
"My lord, do not destroy me; I cannot live without my son. Bring me my son!" she cried, beating her chest and lamenting.
“Chàng ơi, đừng hủy hoại tôi, tôi không thể sống thiếu con. Hãy mang con tôi về!” Bà ấy đấm ngực và than khóc.
Atha naṃ nivattitvā ānesi.
Then he turned back and brought him.
Sau đó, ông ta quay lại và mang đứa bé về.
Puttopi antarāmagge mato hoti.
But the son had died on the way.
Nhưng đứa bé đã chết trên đường.
Iti so ettake ṭhāne puttaṃ chaḍḍetvā tassa nissandena bhavantare satta vāre chaḍḍito.
Thus, because he abandoned his son at that place, as a result of that action, he was abandoned seven times in other existences.
Cứ thế, vì đã bỏ rơi con mình ở nơi đó, do hậu quả của hành động đó, ông ta đã bị bỏ rơi bảy lần trong các kiếp sống khác.
‘‘Pāpakammaṃ nāmetaṃ appaka’’nti na avamaññitabbaṃ.
"This evil deed is small," one should not despise it thus.
“Việc ác này không nên xem thường là nhỏ.”
Te gacchantā ekaṃ gopālakulaṃ pāpuṇiṃsu.
As they traveled, they reached the home of a cowherd family.
Khi họ đi, họ đến một gia đình chăn bò.
Taṃ divasañca gopālakassa dhenumaṅgalaṃ hoti.
On that day, it was the cowherd's milking ceremony.
Vào ngày đó, người chăn bò đang tổ chức lễ vắt sữa bò.
Gopālakassa gehe nibaddhaṃ eko paccekabuddho bhuñjati.
A Paccekabuddha regularly ate at the cowherd's house.
Một vị Độc Giác Phật (Paccekabuddha) thường xuyên thọ thực tại nhà người chăn bò.
So taṃ bhojetvā maṅgalamakāsi.
The cowherd fed him and performed the ceremony.
Người chăn bò đã cúng dường Ngài rồi mới tổ chức lễ.
Bahu pāyāso paṭiyatto hoti.
Much milk-rice had been prepared.
Có rất nhiều món pāyāsa (cháo sữa) đã được chuẩn bị.
Gopālako te āgate disvā, ‘‘kuto āgatatthā’’ti pucchitvā sabbaṃ pavattiṃ sutvā mudujātiko kulaputto tesu anukampaṃ katvā bahukena sappinā pāyāsaṃ dāpesi.
Seeing them arrive, the cowherd asked, "Where have you come from?" and after hearing their entire story, the gentle-natured young man felt compassion for them and had them served milk-rice with plenty of ghee.
Người chăn bò thấy họ đến, hỏi: “Các vị từ đâu đến?” Nghe hết câu chuyện, người con trai gia đình có lòng từ bi, đã cho họ rất nhiều pāyāsa với bơ ghee.
Bhariyā ‘‘sāmi, tayi jīvante ahampi jīvāmi nāma, dīgharattaṃ ūnodarosi, yāvadatthaṃ bhuñjāhī’’ti sappiñca dadhiñca tadabhimukhaññeva katvā attanā mandasappinā thokameva bhuñji.
His wife said, "My lord, if you live, I too live. You have been hungry for a long time, eat as much as you like," and she directed the ghee and curds towards him, while she herself ate only a little milk-rice with scant ghee.
Người vợ nói: “Chàng ơi, nếu chàng còn sống, thiếp cũng coi như còn sống. Chàng đã đói lâu rồi, hãy ăn thỏa thích đi.” Bà ấy đặt bơ ghee và sữa đông trước mặt chồng, còn mình chỉ ăn một ít pāyāsa với ít bơ ghee.
Itaro bahuṃ bhuñjitvā sattaṭṭhadivase chātatāya āhārataṇhaṃ chindituṃ nāsakkhi.
The husband, having eaten much, was unable to satisfy his craving for food due to seven or eight days of hunger.
Người chồng ăn rất nhiều, nhưng vì đã đói bảy, tám ngày nên không thể dứt bỏ lòng thèm ăn.
Gopālako tesaṃ pāyāsaṃ dāpetvā sayaṃ bhuñjituṃ ārabhi.
After having them served milk-rice, the cowherd began to eat himself.
Người chăn bò đã cho họ pāyāsa rồi bắt đầu ăn phần của mình.
Kotuhaliko taṃ olokento nisīditvā heṭṭhāpīṭhe nipannāya sunakhiyā gopālakena vaḍḍhetvā diyyamānaṃ pāyāsapiṇḍaṃ disvā ‘‘puññā vatāyaṃ sunakhī, nibaddhaṃ evarūpaṃ bhojanaṃ labhatī’’ti cintesi.
The husband, watching him curiously, sat and saw the cowherd serving a lump of milk-rice to a female dog lying under a low stool, and he thought, "This female dog is truly fortunate; she always gets such food."
Kotuhalika ngồi nhìn người chăn bò, thấy ông ta múc pāyāsa cho con chó cái đang nằm dưới ghế. Ông ta nghĩ: “Con chó cái này thật có phúc, nó luôn nhận được thức ăn như thế này.”
So rattibhāge taṃ pāyāsaṃ jīrāpetuṃ asakkonto kālaṃ katvā tassā sunakhiyā kucchimhi nibbatti.
Unable to digest that milk-rice during the night, he died and was reborn in the womb of that female dog.
Vào ban đêm, ông ta không tiêu hóa được món pāyāsa đó, nên đã chết và tái sinh vào bụng con chó cái đó.
Athassa bhariyā sarīrakiccaṃ katvā tasmiṃyeva gehe bhatiṃ katvā taṇḍulanāḷiṃ labhitvā pacitvā paccekabuddhassa patte patiṭṭhāpetvā, ‘‘dāsassa vo pāpuṇātū’’ti vatvā cintesi – ‘‘mayā idheva vasituṃ vaṭṭati, nibaddhaṃ, ayyo, idhāgacchati, deyyadhammo hotu vā, mā vā, devasikaṃ vandantī veyyāvaccaṃ karontī cittaṃ pasādentī bahuṃ puññaṃ pasavissāmī’’ti.
Then his wife performed the funeral rites, worked for wages in that very house, obtained a measure of rice, cooked it, placed it in the Paccekabuddha's bowl, and said, "May it reach your servant!" She thought, "It is proper for me to live here. The venerable one comes here regularly. Whether there is a gift to be given or not, by bowing daily, performing service, and purifying my mind, I will generate much merit."
Sau đó, người vợ của ông ta làm lễ tang cho chồng, rồi ở lại nhà đó làm thuê. Bà ấy nhận được một nắm gạo, nấu lên và đặt vào bát của vị Độc Giác Phật, rồi nói: “Xin hãy đến với người nô lệ của Ngài.” Bà ấy nghĩ: “Mình nên ở lại đây. Vị Tôn giả thường xuyên đến đây. Dù có vật cúng dường hay không, mình sẽ tích lũy nhiều công đức bằng cách lễ lạy mỗi ngày và làm công việc phục vụ, làm cho tâm mình thanh tịnh.”
Sā tattheva bhatiṃ karontī vasi.
She lived there, working for wages.
Bà ấy cứ thế ở lại đó làm thuê.
Sāpi sunakhī chaṭṭhe vā sattame vā māse ekameva kukkuraṃ vijāyi.
That female dog gave birth to only one puppy in the sixth or seventh month.
Con chó cái đó cũng sinh ra một con chó con duy nhất vào tháng thứ sáu hoặc thứ bảy.
Gopālako tassa ekadhenuyā khīraṃ dāpesi.
The cowherd had it fed the milk of one cow.
Người chăn bò đã cho con chó con đó uống sữa của một con bò cái.
So na cirasseva vaḍḍhi.
It grew quickly.
Nó nhanh chóng lớn lên.
Athassa paccekabuddho bhuñjanto nibaddhaṃ ekaṃ bhattapiṇḍaṃ deti.
Then, while eating, the Paccekabuddha regularly gave it a lump of food.
Sau đó, vị Độc Giác Phật, khi thọ thực, thường xuyên cho nó một viên cơm.
So bhattapiṇḍaṃ nissāya paccekabuddhe sinehamakāsi.
Because of that lump of food, it developed affection for the Paccekabuddha.
Vì viên cơm đó, con chó đã nảy sinh tình cảm với vị Độc Giác Phật.
Gopālakopi nibaddhaṃ dve vāre paccekabuddhassupaṭṭhānaṃ yāti.
The cowherd also went to attend upon the Paccekabuddha twice daily.
Người chăn bò cũng thường xuyên đến phục vụ vị Độc Giác Phật hai lần một ngày.
Gacchantopi antarāmagge vāḷamigaṭṭhāne daṇḍena gacche ca bhūmiñca paharitvā ‘‘susū’’ti tikkhattuṃ saddaṃ katvā vāḷamige palāpeti.
As he went, in places frequented by wild animals, he would strike the bushes and the ground with a stick, making a "susū" sound three times, and scare away the wild animals.
Khi đi, ông ta cũng dùng gậy đập vào bụi cây và mặt đất ở những nơi có thú dữ, rồi kêu “susū” ba lần để xua đuổi chúng.
Sunakhopi tena saddhiṃ gacchati.
The dog also went with him.
Con chó cũng đi cùng ông ta.
So ekadivasaṃ paccekabuddhaṃ āha – ‘‘bhante, yadā me okāso na bhavissati, tadā imaṃ sunakhaṃ pesessāmi, tena saññāṇena āgaccheyyāthā’’ti.
So one day, the cowherd said to the Paccekabuddha, “Venerable Sir, when I have no opportunity, I will send this dog, and by that sign, you should come.”
Một ngày nọ, người chăn bò nói với vị Độc Giác Phật: “Bạch Ngài, khi nào con không có thời gian, con sẽ sai con chó này đi. Xin Ngài hãy đến theo dấu hiệu đó.”
Tato paṭṭhāya anokāsadivase, ‘‘gaccha, tāta, ayyaṃ ānehī’’ti sunakhaṃ pesesi.
From that time onwards, on days when he had no opportunity, he would send the dog, saying, “Go, my son, bring the venerable one.”
Từ đó trở đi, vào những ngày không có thời gian, ông ta nói: “Con trai, con hãy đi và thỉnh Ngài đến,” rồi sai con chó đi.
So ekavacaneneva pakkhanditvā sāmikassa gacchapothanabhūmipothanaṭṭhāne tikkhattuṃ bhussitvā tena saddena vāḷamigānaṃ palātabhāvaṃ ñatvā pātova sarīrapaṭijagganaṃ katvā paṇṇasālaṃ pavisitvā nisinnassa paccekabuddhassa vasanaṭṭhānaṃ gantvā paṇṇasāladvāre tikkhattuṃ bhussitvā attano āgatabhāvaṃ jānāpetvā ekamante nipajjati, paccekabuddhe velaṃ sallakkhetvā nikkhante bhussanto purato gacchati.
The dog, at just a single word, would run and bark three times at the places where its master would beat the bushes or stamp the ground. Knowing from that sound that the wild animals had fled, it would attend to its bodily needs early in the morning, go to the Paccekabuddha’s dwelling place, bark three times at the door of the leaf-hut to announce its arrival, and then lie down to one side. When the Paccekabuddha, having noted the time, emerged, the dog would bark and walk ahead.
Nó chỉ với một lời đã chạy đến, sủa ba lần tại nơi chủ nó đập cây, đập đất, biết rằng do tiếng sủa đó mà các loài thú dữ đã bỏ chạy. Rồi ngay từ sáng sớm, làm xong việc vệ sinh thân thể, nó đi đến chỗ ở của vị Độc Giác Phật đang ngồi trong tịnh xá lá, sủa ba lần ở cửa tịnh xá lá để báo cho Ngài biết mình đã đến, rồi nằm xuống một bên. Khi vị Độc Giác Phật ghi nhận rõ thời gian và ra ngoài, nó vừa sủa vừa đi trước.
Antarantarā paccekabuddho taṃ vīmaṃsanto aññaṃ maggaṃ paṭipajjati.
From time to time, the Paccekabuddha, testing it, would take another path.
Thỉnh thoảng, vị Độc Giác Phật muốn thử nó, liền đi theo một con đường khác.
Athassa purato tiriyaṃ ṭhatvā bhussitvā itaramaggameva naṃ āropeti.
Then, standing crosswise in front of him, it would bark and lead him back to the usual path.
Khi đó, nó đứng chắn ngang trước mặt Ngài, sủa lên rồi đưa Ngài trở lại con đường cũ.
Athekadivasaṃ aññaṃ maggaṃ paṭipajjitvā tena purato tiriyaṃ ṭhatvā vāriyamānopi anivattitvā sunakhaṃ pādena paharitvā pāyāsi.
Then one day, he took another path, and even though the dog stood crosswise in front and blocked him, he did not turn back but kicked the dog with his foot and went on his way.
Rồi một ngày nọ, Ngài đi theo một con đường khác, dù bị con chó đứng chắn ngang trước mặt cản lại, Ngài vẫn không quay lại mà đá con chó bằng chân rồi đi tiếp.
Sunakho tassa anivattanabhāvaṃ ñatvā nivāsanakaṇṇe ḍaṃsitvā ākaḍḍhanto itaramaggameva naṃ āropesi.
The dog, knowing that he would not turn back, bit the edge of his lower robe and, pulling him, made him return to the usual path.
Con chó biết Ngài không quay lại, liền cắn vào vạt y dưới và kéo Ngài trở lại con đường cũ.
Evaṃ so tasmiṃ balavasinehaṃ uppādesi.
Thus, the dog developed a strong affection for him.
Như vậy, con chó đã phát sinh lòng yêu mến mãnh liệt đối với Ngài.
Tato aparabhāge paccekabuddhassa cīvaraṃ jīri.
Subsequently, the Paccekabuddha’s robe became worn out.
Sau đó, y của vị Độc Giác Phật đã cũ nát.
Athassa gopālako cīvaravatthāni adāsi.
Then the cowherd gave him pieces of cloth for a robe.
Người chăn bò đã dâng các tấm vải làm y cho Ngài.
Tamenaṃ paccekabuddho āha – ‘‘āvuso, cīvaraṃ nāma ekakena kātuṃ dukkaraṃ, phāsukaṭṭhānaṃ gantvā kāressāmī’’ti.
The Paccekabuddha said to him, “Friend, it is difficult to make a robe alone; I will go to a suitable place and have it made.”
Vị Độc Giác Phật nói với người ấy: “Này hiền hữu, việc làm y một mình thì khó, Ta sẽ đi đến nơi tiện lợi để làm y.”
‘‘Idheva, bhante, karothā’’ti.
“Please make it right here, Venerable Sir,” he said.
“Bạch Ngài, xin Ngài cứ làm y tại đây ạ.”
‘‘Na sakkā, āvuso’’ti.
“It is not possible, friend,” he replied.
“Không thể được, này hiền hữu.”
‘‘Tena hi, bhante, mā ciraṃ bahi vasitthā’’ti.
“In that case, Venerable Sir, please do not stay outside for long,” he said.
“Vậy thì, bạch Ngài, xin Ngài đừng ở bên ngoài lâu quá ạ.”
Sunakho tesaṃ kathaṃ suṇantova aṭṭhāsi, paccekabuddhopi ‘‘tiṭṭha, upāsakā’’ti gopālakaṃ nivattāpetvā vehāsaṃ abbhuggantvā gandhamādanābhimukho pāyāsi.
The dog stood listening to their conversation. The Paccekabuddha, saying, “Stay here, lay follower,” made the cowherd turn back, then rose into the air and departed towards Gandhamādana Mountain.
Con chó đứng nghe cuộc đối thoại của họ. Vị Độc Giác Phật cũng nói: “Thôi, thiện tín,” rồi bảo người chăn bò quay lại, Ngài bay lên không trung, hướng về núi Gandhamādana mà đi.
Sunakhassa taṃ ākāsena gacchantaṃ disvā bhukkaritvā ṭhitassa tasmiṃ cakkhupathaṃ vijahante hadayaṃ phalitvā mato.
Seeing him going through the sky, the dog barked, and as he passed out of sight, its heart burst, and it died.
Khi con chó thấy Ngài bay đi trên không, nó sủa lên rồi đứng đó, khi Ngài khuất khỏi tầm mắt, tim nó vỡ tung và nó chết.
Tiracchānā kira nāmete ujujātikā honti akuṭilā.
It is said that animals are by nature straightforward and not crooked.
Các loài súc sinh này quả thật có bản tính ngay thẳng, không quanh co.
Manussā pana aññaṃ hadayena cintenti, aññaṃ mukhena kathenti.
But humans think one thing in their hearts and say another with their mouths.
Còn con người thì nghĩ một đằng trong tâm, nói một nẻo bằng miệng.
Tenevāha – ‘‘gahanañhetaṃ, bhante, yadidaṃ manussā, uttānakañhetaṃ, bhante, yadidaṃ pasavo’’ti (ma. ni. 2.3).
That is why it is said, “This, Venerable Sir, is profound, namely humans; this, Venerable Sir, is superficial, namely animals.”
Chính vì thế mà có lời nói: “Bạch Ngài, con người thật phức tạp, bạch Ngài, súc sinh thật đơn giản” (Ma. Ni. 2.3).
Ayaṃ pana kāmaguṇe paribhuñjanto muṭṭhassati hutvā āhārakkhayena cavi, cavitvā ca pana kosambiyaṃ nagarasobhiniyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi.
This devaputta, however, while enjoying sense pleasures, became unmindful and passed away due to the exhaustion of food, and having passed away, he took conception in the womb of a courtesan in Kosambī.
Vị này, khi hưởng thụ các dục lạc, đã mất chánh niệm và từ cõi trời do hết thức ăn, sau khi từ cõi trời, đã tái sinh vào bụng của một kỹ nữ ở thành phố Kosambī.
Sāpi jātadivase ‘‘kiṃ eta’’nti dāsiṃ pucchitvā, ‘‘putto, ayye’’ti vutte – ‘‘handa, je, imaṃ dārakaṃ kattarasuppe āropetvā saṅkārakūṭe chaḍḍehī’’ti chaḍḍāpesi.
That courtesan too, on the day of his birth, asked her maid, "What is this?" When told, "Mistress, it is a son," she said, "Go now, my girl, put this child in a worn-out winnowing basket and cast him on the rubbish heap," and so had him cast away.
Vào ngày đứa bé chào đời, cô ta hỏi người hầu gái: “Cái gì đây?”, khi được trả lời: “Là một bé trai, thưa bà chủ”, cô ta nói: “Này con, hãy đặt đứa bé này vào một cái sàng cũ và vứt vào đống rác đi!” và đã sai vứt đi.
Nagarasobhiniyo hi dhītaraṃ paṭijagganti, na puttaṃ.
For courtesans care for a daughter, not a son.
Các kỹ nữ trong thành phố thường chăm sóc con gái, không chăm sóc con trai.
Dhītarā hi tāsaṃ paveṇī ghaṭīyati.
For by a daughter is their lineage continued.
Vì con gái là người nối dõi dòng truyền của họ.
Dārakaṃ kākāpi sunakhāpi parivāretvā nisīdiṃsu.
Crows and dogs surrounded the child and sat down.
Các con quạ và chó vây quanh đứa bé.
Paccekabuddhe sinehappabhavassa bhukkaraṇassa nissandena ekopi upagantuṃ na visahi.
But due to the residual effect of the barking that arose from affection for the Paccekabuddha, not a single one dared to approach.
Nhưng do quả báo của việc sủa lên vì lòng yêu mến đối với vị Độc Giác Phật, không một con quạ hay chó nào dám đến gần.
Tasmiṃ khaṇe eko manusso bahi nikkhanto taṃ kākasunakhasannipātaṃ disvā, ‘‘kiṃ nu kho eta’’nti gantvā dārakaṃ disvā puttasinehaṃ paṭilabhitvā ‘‘putto me laddho’’ti gehaṃ nesi.
At that moment, a man who had gone outside saw that gathering of crows and dogs, and thinking, "What could this be?" he went there, saw the child, felt paternal affection for him, and saying, "I have found a son!" he took him home.
Vào lúc đó, một người đàn ông đi ra ngoài, thấy đám quạ và chó tụ tập, nghĩ: “Cái gì vậy?”, liền đi đến, thấy đứa bé, phát sinh tình thương con, nghĩ: “Mình đã có con!”, rồi mang về nhà.
Tadā kosambakaseṭṭhi rājakulaṃ gacchanto rājanivesanato āgacchantaṃ purohitaṃ disvā, ‘‘kiṃ, ācariya, ajja te tithikaraṇanakkhattayogo olokito’’ti pucchi.
At that time, the Kosambī financier, while on his way to the royal palace, saw the royal chaplain coming from the royal residence and asked, "Teacher, have you examined the planetary conjunctions and auspicious constellations today?"
Khi đó, vị trưởng giả Kosambī đang đi đến hoàng cung, thấy vị đạo sĩ đang từ hoàng cung trở về, liền hỏi: “Thưa đạo sĩ, hôm nay ngài đã xem xét các yếu tố về ngày, giờ và sao chưa?”
‘‘Āma, mahāseṭṭhi, amhākaṃ kiṃ aññaṃ kiccanti?
"Yes, great financier, what other task is there for us?
“Vâng, thưa đại trưởng giả, chúng tôi còn việc gì khác đâu?
Janapadassa kiṃ bhavissatī’’ti?
What will happen to the people of the country?"
Điều gì sẽ xảy ra cho đất nước?”
‘‘Aññaṃ natthi, imasmiṃ pana nagare ajja jātadārako jeṭṭhakaseṭṭhi bhavissatī’’ti.
"Nothing else. But in this city, a child born today will become the chief financier."
“Không có gì khác, nhưng đứa bé nào sinh ra hôm nay trong thành phố này sẽ trở thành đại trưởng giả.”
Tadā seṭṭhino bhariyā garugabbhā hoti.
At that time, the financier's wife was heavily pregnant.
Khi đó, vợ của vị trưởng giả đang mang thai nặng.
Tasmā so sīghaṃ gehaṃ purisaṃ pesesi – ‘‘gaccha bhaṇe, jānāhi naṃ vijātā vā, no vā’’ti.
Therefore, he quickly sent a man home, saying, "Go, fellow, find out whether she has given birth or not."
Vì vậy, ông ta liền sai một người hầu nhanh chóng về nhà: “Này anh, hãy đi xem vợ ta đã sinh chưa hay chưa.”
‘‘Na vijāyatī’’ti sutvā rājānaṃ disvāva vegena gehaṃ gantvā kāḷiṃ nāma dāsiṃ pakkositvā sahassaṃ datvā, ‘‘gaccha je, imasmiṃ nagare upadhāretvā sahassaṃ datvā ajja jātadārakaṃ gaṇhitvā ehī’’ti.
Hearing, "She has not given birth," and after seeing the king, he hurried home, summoned a maid named Kāḷī, gave her a thousand*, and said, "Go, my girl, inquire throughout this city, give a thousand, and bring me a child born today."
Nghe nói “chưa sinh”, ông ta gặp vua xong liền nhanh chóng về nhà, gọi người hầu gái tên Kālī, đưa cho cô ta một ngàn đồng, nói: “Này con, hãy đi tìm kiếm trong thành phố này, đưa một ngàn đồng rồi mang đứa bé nào sinh ra hôm nay về đây.”
Sā upadhārentī taṃ gehaṃ gantvā dārakaṃ disvā, ‘‘ayaṃ dārako kadā jāto’’ti gahapatāniṃ pucchitvā ‘‘ajja jāto’’ti vutte, ‘‘imaṃ mayhaṃ dehī’’ti ekakahāpaṇaṃ ādiṃ katvā mūlaṃ vaḍḍhentī sahassaṃ datvā taṃ ānetvā seṭṭhino dassesi.
While inquiring, she went to that house, saw the child, asked the lady of the house, "When was this child born?" and when told, "Born today," she said, "Give this one to me." Starting with one kahāpaṇa and increasing the price, she gave a thousand and brought him to the financier.
Cô ta đi tìm kiếm, đến nhà đó, thấy đứa bé, hỏi người chủ nhà: “Đứa bé này sinh ra khi nào?”, khi được trả lời: “Sinh ra hôm nay”, cô ta nói: “Hãy đưa đứa bé này cho tôi”, rồi bắt đầu từ một đồng kahāpaṇa, tăng giá lên, đưa một ngàn đồng, mang đứa bé đó về và trình cho vị trưởng giả.
Seṭṭhi ‘‘sace me dhītā vijāyissati, tāya naṃ saddhiṃ nivesetvā seṭṭhiṭṭhānassa sāmikaṃ karissāmi.
The financier thought, "If my wife gives birth to a daughter, I will settle him with her and make him master of the financier's position.
Vị trưởng giả suy nghĩ: “Nếu vợ ta sinh con gái, ta sẽ gả nó cho đứa bé này và để nó làm chủ chức vị trưởng giả.
Sace me putto vijāyissati, māressāmi na’’nti cintetvā taṃ gehe kāresi.
If my wife gives birth to a son, I will kill him," and he kept the child in his house.
Nếu vợ ta sinh con trai, ta sẽ giết đứa bé này”, rồi giữ đứa bé đó trong nhà.
Athassa bhariyā katipāhaccayena puttaṃ vijāyi.
Then, a few days later, his wife gave birth to a son.
Rồi vài ngày sau, vợ của vị ấy sinh một bé trai.
Seṭṭhi ‘‘imasmiṃ asati mama puttova seṭṭhiṭṭhānaṃ labhissati, idāneva taṃ māretuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā kāḷiṃ āmantetvā, ‘‘gaccha, je, vajato gunnaṃ nikkhamanavelāya vajadvāramajjhe imaṃ tiriyaṃ nipajjāpehi, gāviyo naṃ madditvā māressanti, madditāmadditabhāvaṃ panassa ñatvā ehī’’ti āha.
The financier thought, "If this child were not here, my son alone would obtain the financier's position. It is appropriate to kill him right now." He called Kāḷī and said, "Go, my girl, at the time the cows leave the pen, lay this child across the middle of the pen's gate. The cows will trample him to death. Come back after knowing whether he has been trampled or not."
Vị trưởng giả nghĩ: “Nếu đứa bé này không còn, con trai của ta sẽ được chức vị trưởng giả. Ngay bây giờ, cần phải giết nó”, liền gọi Kālī, nói: “Này con, hãy đi, vào lúc bò ra khỏi chuồng, đặt đứa bé này nằm ngang giữa cửa chuồng. Các con bò sẽ giẫm đạp và giết nó. Con hãy biết được nó đã bị giẫm đạp hay chưa rồi quay về.”
Sā gantvā gopālakena vajadvāre vivaṭamatteyeva taṃ tathā nipajjāpesi.
She went and laid the child as instructed as soon as the cowherd opened the pen gate.
Cô ta đi đến, ngay khi người chăn bò vừa mở cửa chuồng, liền đặt đứa bé nằm như vậy.
Gogaṇajeṭṭhako usabho aññasmiṃ kāle sabbapacchā nikkhamantopi taṃ divasaṃ sabbapaṭhamaṃ nikkhamitvā dārakaṃ catunnaṃ pādānaṃ antare katvā aṭṭhāsi.
The chief bull, who at other times would leave last, that day left first, positioned the child between its four legs, and stood still.
Con bò đực đầu đàn, bình thường vẫn ra sau cùng, hôm đó lại ra đầu tiên, đặt đứa bé giữa bốn chân rồi đứng yên.
Anekasatagāviyo usabhassa dve passāni ghaṃsantiyo nikkhamiṃsu.
Hundreds of cows rubbed against the bull's sides as they left.
Hàng trăm con bò khác cọ xát hai bên hông con bò đực mà ra ngoài.
Gopālakopi ‘‘ayaṃ usabho pubbe sabbapacchā nikkhamati, ajja pana sabbapaṭhamaṃ nikkhamitvā vajadvāramajjhe niccalova ṭhito, kiṃ nu kho eta’’nti cintetvā gantvā tassa heṭṭhā nipannaṃ dārakaṃ disvā puttasinehaṃ paṭilabhitvā, ‘‘putto me laddho’’ti gehaṃ nesi.
The cowherd, thinking, "This bull usually leaves last, but today it left first and is standing motionless in the middle of the pen gate. What could this be?" went there, saw the child lying beneath it, felt paternal affection for him, and saying, "I have found a son!" he took him home.
Người chăn bò cũng nghĩ: “Con bò đực này trước đây luôn ra sau cùng, nhưng hôm nay lại ra đầu tiên và đứng yên bất động giữa cửa chuồng, không biết có chuyện gì?”, liền đi đến, thấy đứa bé nằm dưới con bò đực, phát sinh tình thương con, nghĩ: “Mình đã có con!”, rồi mang về nhà.
Kāḷī gantvā seṭṭhinā pucchitā tamatthaṃ ārocetvā, ‘‘gaccha, naṃ puna sahassaṃ datvā ānehī’’ti vuttā sahassaṃ datvā puna ānetvā adāsi.
Kāḷī went and, when asked by the financier, related the incident. Told, "Go, bring him again for a thousand," she gave a thousand and brought him back.
Kālī trở về, khi bị trưởng giả hỏi, cô ta kể lại sự việc đó. Bị nói: “Hãy đi, đưa thêm một ngàn đồng rồi mang nó về”, cô ta đưa một ngàn đồng, rồi lại mang đứa bé về và giao cho ông ta.
Atha naṃ āha – ‘‘amma, kāḷi imasmiṃ nagare pañca sakaṭasatāni paccūsakāle uṭṭhāya vāṇijjāya gacchanti, tvaṃ imaṃ netvā cakkamagge nipajjāpehi, goṇā vā naṃ maddissanti, cakkā vā chindissanti, pavattiṃ cassa ñatvāva āgaccheyyāsī’’ti.
Then he said to her, "Mother Kāḷī, in this city, five hundred carts set out at dawn for trade. Take this child and lay him on the cart track. The oxen will trample him, or the wheels will crush him. Come back only after knowing what has happened to him."
Rồi ông ta nói với Kāḷī – “Này Kāḷī, ở thành phố này có năm trăm cỗ xe khởi hành vào lúc bình minh để đi buôn bán. Con hãy đưa đứa bé này đến đặt nằm trên đường xe chạy. Hoặc là những con bò sẽ nghiền nát nó, hoặc là những bánh xe sẽ cán đứt nó. Con phải biết rõ tình trạng của nó rồi mới trở về.”
Sā taṃ netvā cakkamagge nipajjāpesi.
She took him and laid him on the cart track.
Cô ta đưa đứa bé đó đến đặt nằm trên đường xe chạy.
Tadā sākaṭikajeṭṭhako purato ahosi.
At that time, the chief carter was in front.
Lúc đó, người đứng đầu đoàn xe đang đi phía trước.
Athassa goṇā taṃ ṭhānaṃ patvā dhuraṃ chaḍḍesuṃ, punappunaṃ āropetvā pājiyamānāpi purato na gacchiṃsu.
Then his oxen, having reached that spot, dropped their yokes. Even when repeatedly loaded and urged, they would not move forward.
Rồi khi những con bò của ông ta đến chỗ đó, chúng bỏ ách ra. Dù bị chất ách lại và thúc giục nhiều lần, chúng vẫn không chịu đi tới.
Evaṃ tassa tehi saddhiṃ vāyamantasseva aruṇaṃ uṭṭhahi.
While he was thus struggling with them, dawn broke.
Trong khi ông ta đang cố gắng với những con bò đó như vậy, bình minh đã ló dạng.
So ‘‘kiṃ nāmetaṃ goṇā kariṃsū’’ti maggaṃ olokento dārakaṃ disvā, ‘‘bhāriyaṃ vata me kamma’’nti cintetvā, ‘‘putto me laddho’’ti tuṭṭhamānaso taṃ gehaṃ nesi.
He thought, "What have these oxen done?" and looking along the road, he saw the child, thought, "What a great deed!" and with a joyful heart, "I have found a son!" he took him home.
Ông ta tự hỏi: “Những con bò này đã làm gì vậy?” Khi nhìn dọc đường, thấy đứa bé, ông ta nghĩ: “Thật là một việc khó khăn cho ta,” rồi với tâm trạng vui mừng: “Ta đã có một đứa con trai!” Ông ta đưa đứa bé về nhà.
Kāḷī gantvā seṭṭhinā pucchitā taṃ pavattiṃ ācikkhitvā, ‘‘gaccha, naṃ puna sahassaṃ datvā ānehī’’ti vuttā tathā akāsi.
Kāḷī went and, when asked by the financier, explained the situation. Told, "Go, bring him again for a thousand," she did so.
Kāḷī trở về, khi được trưởng giả hỏi, cô ta kể lại sự việc. Trưởng giả nói: “Đi đi, hãy đưa một ngàn (đồng) nữa rồi mang nó về đây.” Cô ta đã làm như vậy.
Atha naṃ so āha – ‘‘idāni naṃ āmakasusānaṃ netvā gacchantare nipajjāpehi, tattha sunakhādīhi vā khādito, amanussehi vā pahaṭo marissati, mātāmatabhāvañcassa jānitvāva āgaccheyyāsī’’ti.
Then he said to her, "Now, take him to the charnel ground and lay him in a thicket. There he will be devoured by dogs and the like, or struck down by non-humans, and he will die. Come back only after knowing whether he is dead or alive."
Rồi ông ta bảo cô ta: “Bây giờ, hãy đưa nó đến nghĩa địa hoang, đặt nó nằm giữa bụi cây. Ở đó, nó sẽ bị chó hoặc các loài vật khác ăn thịt, hoặc bị phi nhân đánh chết. Con phải biết rõ nó sống hay chết rồi mới trở về.”
Sā taṃ netvā tattha nipajjāpetvā ekamante aṭṭhāsi.
She took him there, laid him down, and stood to one side.
Cô ta đưa đứa bé đến đó, đặt nằm rồi đứng sang một bên.
Taṃ sunakho vā kāko vā amanusso vā upasaṅkamituṃ nāsakkhi.
No dog, crow, or non-human could approach him.
Chó, quạ, hay phi nhân đều không thể đến gần đứa bé đó.
‘‘Nanu cassa neva mātā na pitā na bhātikādīsu koci rakkhitā nāma atthi, ko taṃ rakkhatī’’ti?
"Indeed, he has neither mother nor father, nor any of his siblings to protect him. Who protects him?"
“Chẳng phải nó không có mẹ, không có cha, cũng không có ai trong số anh em hay người thân bảo vệ sao? Ai đã bảo vệ nó vậy?”
Sunakhakāle paccekabuddhe sinehena pavattitabhukkaraṇamattameva taṃ rakkhati.
Only the barking that arose from affection for the Paccekabuddha in his past life as a dog protected him.
Chính tiếng sủa đầy tình cảm của con chó đối với vị Phật Độc Giác vào thời đó đã bảo vệ đứa bé.
Atheko ajapālako anekasahassā ajā gocaraṃ nento susānapassena gacchati.
Then a goatherd, leading many thousands of goats to pasture, passed by the charnel ground.
Rồi một người chăn dê đang dắt hàng ngàn con dê đi kiếm ăn ngang qua nghĩa địa.
Ekā ajā paṇṇāni khādamānā gacchantaraṃ paviṭṭhā dārakaṃ disvā jaṇṇukehi ṭhatvā dārakassa thanaṃ adāsi, ajapālakena ‘‘he he’’ti sadde katepi na nikkhami.
One goat, eating leaves, entered the thicket, saw the child, knelt down, and gave its teat to the child; even when the goatherd called out "Heh! Heh!" it did not come out.
Một con dê cái đang ăn lá cây, đi vào giữa bụi rậm, thấy đứa bé, liền quỳ gối cho đứa bé bú sữa. Dù người chăn dê kêu “hê hê,” nó vẫn không chịu ra.
So ‘‘yaṭṭhiyā naṃ paharitvā nīharissāmī’’ti gacchantaraṃ paviṭṭho jaṇṇukehi ṭhatvā dārakaṃ khīraṃ pāyantiṃ ajiṃ disvā dārake puttasinehaṃ paṭilabhitvā, ‘‘putto me laddho’’ti ādāya pakkāmi.
He thought, "I will strike it with a stick and drive it out," and entered the thicket. Seeing the goat kneeling and suckling the child, he felt paternal affection for the child, and thinking, "I have found a son!" he picked him up and departed.
Người chăn dê nghĩ: “Ta sẽ đánh nó bằng gậy rồi lôi nó ra.” Khi đi vào giữa bụi rậm, thấy con dê cái đang quỳ gối cho đứa bé bú sữa, ông ta liền nảy sinh tình thương con đối với đứa bé, nghĩ: “Ta đã có một đứa con trai!” Rồi ông ta bế đứa bé đi.
Kāḷī gantvā seṭṭhinā pucchitā taṃ pavattiṃ ācikkhitvā, ‘‘gaccha, taṃ puna sahassaṃ datvā ānehī’’ti vuttā tathā akāsi.
Kāḷī went and, when asked by the financier, related the incident. Told, "Go, bring him again for a thousand," she did so.
Kāḷī trở về, khi được trưởng giả hỏi, cô ta kể lại sự việc. Trưởng giả nói: “Đi đi, hãy đưa một ngàn (đồng) nữa rồi mang nó về đây.” Cô ta đã làm như vậy.
Atha naṃ āha – ‘‘amma kāḷi, imaṃ ādāya corapapātapabbataṃ abhiruhitvā papāte khipa, pabbatakucchiyaṃ paṭihaññamāno khaṇḍākhaṇḍiko hutvā bhūmiyaṃ patissati, matāmatabhāvañcassa ñatvāva āgaccheyyāsī’’ti.
Then he said to her, "Mother Kāḷī, take this child, climb the mountain where thieves are thrown, and cast him into the chasm. He will strike against the mountainside, break into pieces, and fall to the ground. Come back only after knowing whether he is dead or alive."
Rồi ông ta bảo cô ta: “Này Kāḷī, hãy mang đứa bé này lên núi Corapapāta (núi Ném Kẻ Trộm), rồi ném nó xuống vực thẳm. Nó sẽ va vào vách núi, tan thành từng mảnh rồi rơi xuống đất. Con phải biết rõ nó sống hay chết rồi mới trở về.”
Sā taṃ tattha netvā pabbatamatthake ṭhatvā khipi.
She took him there, stood on the mountaintop, and cast him down.
Cô ta đưa đứa bé đến đó, đứng trên đỉnh núi rồi ném xuống.
Taṃ kho pana pabbatakucchiṃ nissāya mahāveḷugumbo pabbatānusāreneva vaḍḍhi, tassa matthakaṃ ghanajāto jiñjukagumbo avatthari.
Now, clinging to that mountainside, a large bamboo clump had grown along the mountain's slope, and its top was thickly covered by a dense thicket of jiñjuka shrubs.
Nhưng dựa vào vách núi đó, một bụi tre lớn đã mọc dọc theo sườn núi, và ngọn của nó được bao phủ bởi một bụi cây jiñjuka rậm rạp.
Dārako patanto kojavake viya tasmiṃ pati.
The child fell into it as if into a small rug.
Đứa bé rơi xuống, đáp vào bụi cây đó như đáp vào một tấm thảm len.
Taṃ divasañca naḷakārajeṭṭhakassa veḷubali patto hoti.
And that day, it was time for the chief bamboo-worker to collect bamboo tribute.
Vào ngày đó, đến lượt người đứng đầu thợ làm ống tre phải nộp thuế tre.
So puttena saddhiṃ gantvā taṃ veḷugumbaṃ chindituṃ ārabhi.
He went with his son and began to cut that bamboo clump.
Ông ta cùng con trai đi đến đó, bắt đầu chặt bụi tre đó.
Tasmiṃ calante dārako saddamakāsi.
As it swayed, the child made a sound.
Khi bụi tre rung chuyển, đứa bé phát ra tiếng động.
So ‘‘dārakasaddo viyā’’ti ekena passena abhiruhitvā taṃ disvā, ‘‘putto me laddho’’ti tuṭṭhacitto ādāya gato.
He thought, "That sounds like a child!" and climbing up one side, he saw the child. With a joyful heart, "I have found a son!" he took him and went away.
Ông ta nghĩ: “Hình như có tiếng trẻ con!” Rồi leo lên một bên, thấy đứa bé, ông ta vui mừng nghĩ: “Ta đã có một đứa con trai!” Rồi ông ta bế đứa bé đi.
Kāḷī seṭṭhissa santikaṃ gantvā tena pucchitā taṃ pavattiṃ ācikkhitvā, ‘‘gaccha, naṃ puna sahassaṃ datvā ānehī’’ti vuttā tathā akāsi.
Kāḷī went to the merchant, and when asked by him, she recounted that event and, being told, "Go, bring him again by giving a thousand (coins)," she did so.
Kāḷī đến gặp trưởng giả, khi được ông ta hỏi, cô ta kể lại sự việc. Trưởng giả nói: “Đi đi, hãy đưa một ngàn (đồng) nữa rồi mang nó về đây.” Cô ta đã làm như vậy.
Seṭṭhino idañcidañca karontasseva dārako vaḍḍhito ‘‘ghosako’’tvevassa nāmaṃ ahosi.
While the merchant was doing this and that, the child grew up, and his name was Ghosaka.
Trong khi trưởng giả làm hết việc này đến việc khác, đứa bé đã lớn lên và có tên là Ghosaka.
So seṭṭhino akkhimhi kaṇṭako viya khāyi, ujukaṃ taṃ oloketumpi na visati.
He became like a thorn in the merchant's eye; he could not even look at him directly.
Nó như cái gai trong mắt trưởng giả; ông ta không thể nhìn thẳng vào nó.
Athassa māraṇūpāyaṃ cintento attano sahāyakassa kumbhakārassa santikaṃ gantvā, ‘‘kadā tvaṃ āvāpaṃ ālimpessasī’’ti pucchitvā – ‘‘sve’’ti vutte, ‘‘tena hi idaṃ sahassaṃ gahetvā mama ekaṃ kammaṃ karohī’’ti āha.
Then, devising a way to kill him, he went to his potter friend and asked, "When will you fire the kiln?" When told, "Tomorrow," he said, "Then take this thousand (coins) and do one task for me."
Rồi ông ta nghĩ cách giết nó, đi đến chỗ người bạn làm gốm của mình, hỏi: “Khi nào ông sẽ đốt lò?” Khi được trả lời: “Ngày mai,” ông ta nói: “Vậy thì hãy nhận một ngàn (đồng) này và làm cho tôi một việc.”
‘‘Kiṃ, sāmī’’ti?
"What, master?"
“Việc gì, thưa chủ nhân?”
‘‘Eko me avajātaputto atthi, taṃ tava santikaṃ pesessāmi, atha naṃ gahetvā gabbhaṃ pavesetvā tikhiṇāya vāsiyā khaṇḍākhaṇḍikaṃ chinditvā cāṭiyaṃ pakkhipitvā āvāpe paceyyāsi, idaṃ te sahassaṃ saccakārasadisaṃ.
"I have an ill-born son. I will send him to you. Then take him, lead him into the chamber, cut him into pieces with a sharp axe, put him in a pot, and bake him in the kiln. This thousand (coins) is like a pledge to you.
“Tôi có một đứa con trai hư hỏng. Tôi sẽ sai nó đến chỗ ông. Sau đó, ông hãy đưa nó vào trong phòng, dùng rìu sắc chặt nó thành từng mảnh, bỏ vào một cái vại rồi nung trong lò. Một ngàn (đồng) này là tiền đặt cọc cho ông.
Uttariṃ pana te kattabbayuttakaṃ pacchā karissāmī’’ti.
As for what more needs to be done, I will do it later."
Còn những việc cần làm thêm, tôi sẽ làm sau.”
Kumbhakāro ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
The potter accepted, saying, "Very well."
Người làm gốm chấp thuận: “Vâng, được.”
Seṭṭhi punadivase ghosakaṃ pakkositvā, ‘‘hiyyo mayā kumbhakāro ekaṃ kammaṃ āṇatto, ehi, tvaṃ tassa santikaṃ gantvā evaṃ vadehi – ‘hiyyo kira me pitarā āṇattaṃ kammaṃ nipphādehī’’’ti pahiṇi.
The next day, the merchant summoned Ghosaka and sent him, saying, "Yesterday I gave an order to the potter. Come, go to him and say, 'My father ordered a task yesterday, please complete it.'"
Ngày hôm sau, trưởng giả gọi Ghosaka đến, nói: “Hôm qua cha có sai người làm gốm một việc. Con hãy đến chỗ ông ta và nói: ‘Cha con dặn việc hôm qua hãy hoàn thành.’” Rồi ông ta sai Ghosaka đi.
So ‘‘sādhū’’ti agamāsi.
He said, "Very well," and went.
Ghosaka nói: “Vâng,” rồi đi.
Taṃ tattha gacchantaṃ itaro seṭṭhino putto dārakehi saddhiṃ guḷaṃ kīḷanto disvā taṃ pakkositvā, ‘‘kuhiṃ gacchasi bhātikā’’ti pucchitvā ‘‘pitu sāsanaṃ gahetvā kumbhakārassa santika’’nti vutte ‘‘ahaṃ tattha gamissāmi.
As he was going there, the merchant's other son, playing ball with other boys, saw him, called him over, and asked, "Where are you going, brother?" When told, "To the potter, with a message from father," he said, "I will go there.
Khi nó đang đi đến đó, con trai khác của trưởng giả đang chơi bi với các đứa trẻ khác, thấy nó liền gọi lại, hỏi: “Anh đi đâu vậy, anh trai?” Khi được trả lời: “Con mang lời cha đến chỗ người làm gốm,” nó nói: “Em sẽ đi đến đó.
Ime maṃ dārakā bahuṃ lakkhaṃ jiniṃsu, taṃ me paṭijinitvā dehī’’ti āha.
These boys have won many stakes from me. Please win them back for me."
Những đứa trẻ này đã thắng em rất nhiều tiền cược, anh hãy thắng lại cho em đi.”
‘‘Ahaṃ pitu bhāyāmī’’ti.
"I am afraid of father," (said Ghosaka).
“Em sợ cha.”
‘‘Mā bhāyi, bhātika, ahaṃ taṃ sāsanaṃ harissāmi.
"Don't be afraid, brother. I will deliver that message.
“Đừng sợ, anh trai, em sẽ mang lời nhắn đó đi.
Bahūhi jito, yāvāhaṃ āgacchāmi, tāva me lakkhaṃ paṭijinā’’ti.
I have lost much to many. While I am away, please win back my stakes."
Em đã thua nhiều rồi, trong khi em đi, anh hãy thắng lại tiền cược cho em.”
Ghosako kira guḷakīḷāya cheko, tena naṃ evaṃ nibandhi.
Ghosaka was skilled in playing ball, so he pressed him in this way.
Ghosaka là người giỏi chơi bi, nên nó đã ép buộc Ghosaka như vậy.
Sopi taṃ ‘‘tena hi gantvā kumbhakāraṃ vadehi – ‘pitarā kira me hiyyo ekaṃ kammaṃ āṇattaṃ, taṃ nipphādehī’’’ti vatvā uyyojesi.
So Ghosaka, telling him, "Then go and tell the potter, 'My father ordered a task yesterday, please complete it,'" sent him off.
Vậy là Ghosaka nói với nó: “Vậy thì hãy đi đến chỗ người làm gốm và nói: ‘Cha tôi hôm qua đã sai một việc, xin hãy hoàn thành việc đó,’” rồi sai nó đi.
So tassa santikaṃ gantvā tathā avaca.
He went to the potter and spoke as instructed.
Nó đến chỗ người làm gốm và nói như vậy.
Atha naṃ kumbhakāro seṭṭhinā vuttaniyāmeneva māretvā āvāpe khipi.
Then the potter killed him in the manner prescribed by the merchant and threw him into the kiln.
Rồi người làm gốm đã giết nó theo đúng lời trưởng giả dặn, rồi ném vào lò nung.
Ghosakopi divasabhāgaṃ kīḷitvā sāyanhasamaye gehaṃ gantvā ‘‘kiṃ, tāta, na gatosī’’ti vutte attano agatakāraṇañca kaniṭṭhassa gatakāraṇañca ārocesi.
Ghosaka, having played for the better part of the day, went home in the evening, and when asked, "Why didn't you go, my son?" he reported the reason for his not going and the reason for his younger brother's going.
Còn Ghosaka, sau khi chơi suốt cả ngày, đến chiều tối về nhà, khi được hỏi: “Con trai, sao con không đi?” Nó kể lại lý do mình không đi và lý do em trai mình đã đi.
Taṃ sutvā seṭṭhi ‘‘ahaṃ dhī’’ti mahāviravaṃ viravitvā sakalasarīre pakkuthitalohito viya hutvā, ‘‘ambho, kumbhakāra, mā maṃ nāsayi, mā maṃ nāsayī’’ti bāhā paggayha kandanto tassa santikaṃ agamāsi.
Hearing that, the merchant cried out with a great shout, "Alas, my son!" becoming as if his whole body was boiling with blood, and went to the potter, wailing, raising his arms, "Oh, potter, do not destroy me, do not destroy me!"
Nghe vậy, trưởng giả kêu lên một tiếng thật lớn: “Ôi ta!” như thể máu sôi sục khắp cơ thể, rồi vung tay lên khóc lóc: “Này người làm gốm, đừng hủy hoại ta, đừng hủy hoại ta!” rồi đi đến chỗ ông ta.
Kumbhakāro taṃ tathā āgacchantaṃ disvā, ‘‘sāmi, mā saddaṃ kari, kammaṃ te nipphanna’’nti āha.
Seeing the merchant coming in such a state, the potter said, "Master, do not make a sound, your task is done."
Người làm gốm thấy ông ta đến trong tình trạng như vậy, nói: “Thưa chủ nhân, đừng làm ồn, việc của ông đã xong rồi.”
So pabbatena viya mahantena sokena avatthaṭo hutvā anappakaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedesi.
Overwhelmed by a sorrow as vast as a mountain, he experienced immense grief.
Ông ta bị nỗi buồn lớn như núi đè nặng, cảm thấy vô cùng đau khổ.
Yathā taṃ appaduṭṭhassa padussamāno.
Just as one who wrongs the blameless.
Cũng như kẻ làm hại người vô tội.
Tenāha bhagavā –
Therefore, the Blessed One said:
Do đó, Đức Thế Tôn đã dạy:
Evaṃ santepi puna naṃ seṭṭhi ujukaṃ oloketuṃ na sakkoti.
Even so, the merchant still could not look at him directly.
Dù vậy, trưởng giả vẫn không thể nhìn thẳng vào Ghosaka.
‘‘Kinti naṃ māreyya’’nti cintento, ‘‘mama gāmasate āyuttakassa santikaṃ pesetvā māressāmī’’ti upāyaṃ disvā, ‘‘ayaṃ me avajātaputto, imaṃ māretvā vaccakūpe khipatu, evaṃ kate ahaṃ mātulassa kattabbayuttakaṃ pacchā jānissāmī’’ti tassa paṇṇaṃ likhitvā, ‘‘tāta ghosaka, amhākaṃ gāmasate āyuttako atthi, imaṃ paṇṇaṃ haritvā tassa dehī’’ti vatvā paṇṇaṃ tassa dussante bandhi.
Thinking, "How can I kill him?" he found a way: "I will send him to the administrator in my hundred villages and have him killed." So he wrote a letter to the administrator saying, "This is my ill-born son. Kill him and throw him into the latrine pit. If this is done, I will later know what is due to my maternal uncle." He then bound the letter to Ghosaka's sash, telling him, "My son Ghosaka, there is an administrator in our hundred villages. Take this letter and give it to him."
Ông ta nghĩ: “Làm sao để giết nó đây?” Rồi tìm ra cách: “Ta sẽ sai nó đến chỗ người quản lý một trăm ngôi làng của ta rồi giết nó.” Ông ta viết một lá thư cho người đó, nói: “Đây là đứa con trai hư hỏng của ta, hãy giết nó rồi ném vào hố phân. Làm như vậy, ta sẽ biết ơn chú sau này.” Rồi ông ta nói: “Này con trai Ghosaka, chúng ta có một người quản lý một trăm ngôi làng, con hãy mang lá thư này đến đưa cho ông ta.” Ông ta buộc lá thư vào vạt áo của Ghosaka.
So pana akkharasamayaṃ na jānāti.
But he did not know how to read or write.
Tuy nhiên, người ấy không biết chữ.
Daharakālato paṭṭhāya hi naṃ mārāpentova seṭṭhi māretuṃ nāsakkhi, kiṃ akkharasamayaṃ sikkhāpessati?
Indeed, since his childhood, the merchant had only sought to kill him; how could he teach him how to read and write?
Quả thật, từ khi còn nhỏ, trưởng giả đã sai người giết cậu ta nhưng không thành, vậy làm sao có thể dạy cậu ta biết chữ được?
Iti so attano mārāpanapaṇṇameva dussante bandhitvā nikkhamanto āha – ‘‘pātheyyaṃ me, tāta, natthī’’ti.
So, with the letter ordering his own death bound to his sash, he left, saying, "Father, I have no provisions for the journey."
Thế là, cậu ta buộc lá thư sai người giết mình vào vạt áo và khi ra đi, cậu nói: “Thưa cha, con không có lương thực dự trữ.”
‘‘Pātheyyena te kammaṃ natthi, antarāmagge ‘asukagāme nāma mamasahāyako seṭṭhi atthi, tassa ghare pātarāsaṃ katvā purato gacchāhī’’’ti.
"You have no need for provisions. Along the way, in a certain village, there is a merchant friend of mine. Have breakfast at his house and proceed."
“Con không cần lương thực dự trữ, giữa đường hãy đến nhà một người bạn trưởng giả của ta ở làng nọ, ăn sáng rồi đi tiếp.”
So ‘‘sādhū’’ti pitaraṃ vanditvā nikkhanto taṃ gāmaṃ patvā seṭṭhissa gharaṃ pucchitvā gantvā seṭṭhijāyaṃ passi.
He said, "Very well," bowed to his father, and departed. Reaching that village, he inquired about the merchant's house, went there, and saw the merchant's wife.
Cậu ta “Vâng” rồi đảnh lễ cha, ra đi, đến làng đó, hỏi nhà trưởng giả rồi đến gặp vợ của trưởng giả.
‘‘Tvaṃ kuto āgatosī’’ti ca vutte, ‘‘antonagarato’’ti āha.
When asked, "Where have you come from?" he said, "From the inner city."
Khi được hỏi: “Con từ đâu đến?”, cậu ta trả lời: “Từ trong thành phố.”
‘‘Kassa puttosī’’ti?
"Whose son are you?"
“Con là con của ai?”
‘‘Tumhākaṃ sahāyakaseṭṭhino, ammā’’ti.
"The son of your merchant friend, mother," he replied.
“Thưa mẹ, con là con của trưởng giả bạn của mẹ.”
‘‘Tvaṃsi ghosako nāmā’’ti?
"Are you Ghosaka?"
“Con có phải là Ghosaka không?”
‘‘Āma, ammā’’ti.
"Yes, mother," he replied.
“Vâng, thưa mẹ.”
Tassā saha dassaneneva tasmiṃ puttasineho uppajji.
Love for a son arose in her immediately upon seeing him.
Ngay khi vừa nhìn thấy cậu ta, tình thương con đã nảy sinh trong bà.
Seṭṭhino panekā dhītā atthi pannarasasoḷasavassuddesikā abhirūpā pāsādikā, taṃ rakkhituṃ ekameva pesanakārikaṃ dāsiṃ datvā sattabhūmikassa pāsādassa uparimatale sirigabbhe vasāpenti.
Now, the merchant had a daughter, fifteen or sixteen years old, beautiful and charming. To guard her, they had given her only one servant girl and kept her residing in the bridal chamber on the uppermost floor of a seven-story palace.
Trưởng giả có một cô con gái khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, xinh đẹp, khả ái, họ đã giao cho một nữ tỳ duy nhất để bảo vệ và cho cô ấy ở trong phòng ngủ chính trên tầng cao nhất của cung điện bảy tầng.
Seṭṭhidhītā tasmiṃ khaṇe taṃ dāsiṃ antarāpaṇaṃ pesesi.
At that moment, the merchant's daughter sent that servant girl to the market.
Vào lúc đó, con gái trưởng giả sai nữ tỳ đó đi chợ.
Atha naṃ seṭṭhijāyā disvā, ‘‘kuhiṃ gacchasī’’ti pucchitvā, ‘‘ayyadhītāya pesanenā’’ti vutte ‘‘ito tāva ehi, tiṭṭhatu pesanaṃ, puttassa me pīṭhakaṃ attharitvā pāde dhovitvā telaṃ makkhitvā sayanaṃ attharitvā dehi, pacchā pesanaṃ karissasī’’ti āha.
Then the merchant's wife saw her and asked, "Where are you going?" When told, "On an errand for the young mistress," she said, "Come here first. Let the errand wait. Spread a mat for my son, wash his feet, anoint him with oil, and prepare his bed. Afterwards, you can do the errand."
Vợ trưởng giả thấy cô ta liền hỏi: “Con đi đâu vậy?” Khi được trả lời: “Con đi theo lệnh của tiểu thư,” bà nói: “Hãy đến đây trước đã, việc sai vặt cứ để đó. Hãy trải ghế cho con trai ta, rửa chân, xoa dầu và trải giường cho nó, sau đó con hãy làm việc sai vặt.”
Sā tathā akāsi.
She did so.
Cô ta làm theo.
So divasabhāgaṃ niddāyitvā uṭṭhāya bhuñjitvā pakkāmi.
He slept for a part of the day, then rose, ate, and departed.
Cậu ta ngủ suốt buổi sáng, thức dậy, ăn uống rồi rời đi.
Punadivase pātova taṃ gāmaṃ gantvā āyuttakaṃ gāmakiccaṃ karontaṃyeva passi.
The next day, early in the morning, he went to that village and saw the steward performing village duties.
Sáng hôm sau, cậu ta đến làng đó và thấy người quản lý đang làm công việc của làng.
So taṃ disvā, ‘‘kiṃ, tātā’’ti pucchi.
Seeing him, he asked, “What is it, dear one?”
Người quản lý thấy cậu ta liền hỏi: “Có việc gì vậy, con?”
‘‘Pitarā me tumhākaṃ paṇṇaṃ pesita’’nti.
“My father sent a letter for you,” he replied.
“Cha tôi gửi thư cho chú.”
‘‘Kiṃ paṇṇaṃ, tāta, āharā’’ti paṇṇaṃ gahetvā vācetvā tuṭṭhamānaso ‘‘passatha, bho, mama sāmino mayi sinehaṃ katvā jeṭṭhaputtassa me maṅgalaṃ karotū’’ti mama santikaṃ pahiṇi.
“What letter, dear one? Bring it,” he said. Taking the letter and reading it, he was delighted and exclaimed, “See, sirs, my master, out of affection for me, has sent me word to arrange the wedding of my eldest son!”
“Thư gì vậy, con? Đưa đây.” Người quản lý cầm lá thư, đọc xong thì lòng rất vui mừng. “Này các bạn, hãy xem, chủ của tôi đã thương tôi mà sai người đến đây để làm lễ cưới cho con trai trưởng của tôi.”
‘‘Sīghaṃ dāruādīni āharathā’’ti gahapatike vatvā gāmamajjhe vuttapakāraṃ gehaṃ kārāpetvā gāmasatato paṇṇākāraṃ āharāpetvā janapadaseṭṭhino santikā dhītaraṃ ānetvā maṅgalaṃ katvā seṭṭhissa sāsanaṃ pahiṇi ‘‘idañcidañca mayā kata’’nti.
He told the householders, “Quickly bring wood and other materials,” and had a house of the aforementioned kind built in the middle of the village. He had tribute brought from a hundred villages, brought the chief merchant’s daughter, performed the wedding, and sent a message to the merchant, saying, “This and that has been done by me.”
Nói với các gia chủ: “Mau mang gỗ và các vật liệu khác đến!”, ông ta cho xây một ngôi nhà như đã nói ở giữa làng, sai người mang cống phẩm từ một trăm ngôi làng đến, đón con gái của trưởng giả vùng này về, làm lễ cưới, rồi gửi tin cho trưởng giả: “Tôi đã làm điều này điều nọ.”
Taṃ sutvā seṭṭhino ‘‘yaṃ kāremi, taṃ na hoti; yaṃ na kāremi, tadeva hotī’’ti mahantaṃ domanassaṃ uppajji.
Hearing that, great sorrow arose in the merchant, thinking, “What I have done does not come to pass; only what I have not done comes to pass.”
Nghe vậy, trưởng giả vô cùng buồn phiền, nghĩ: “Điều ta sai làm thì không thành, điều ta không sai làm thì lại thành.”
Puttasokena saddhiṃ so soko ekato hutvā kucchiḍāhaṃ uppādetvā atisāraṃ janesi.
That sorrow, combined with his sorrow for his son, caused a burning sensation in his stomach and brought on dysentery.
Nỗi buồn đó cùng với nỗi đau mất con đã gây ra chứng đau bụng và kiết lỵ.
Seṭṭhidhītāpi ‘‘sace koci seṭṭhino santikā āgacchati, mama akathetvā seṭṭhiputtassa paṭhamataraṃ mā kathayitthā’’ti jane āṇāpesi.
The chief merchant’s daughter also instructed her people, “If anyone comes from the merchant, do not tell the chief merchant’s son first without telling me.”
Con gái trưởng giả cũng ra lệnh cho mọi người: “Nếu có ai từ chỗ trưởng giả đến, đừng nói cho con trai trưởng giả trước khi nói cho ta.”
Seṭṭhipi kho ‘‘dāni taṃ duṭṭhaputtaṃ mama sāpateyyassa sāmikaṃ na karissāmī’’ti cintetvā ekaṃ āyuttakaṃ āha – ‘‘mātula, puttaṃ me daṭṭhukāmomhi, ekaṃ pādamūlikaṃ pesetvā mama puttaṃ pakkosāpehī’’ti.
The merchant, thinking, “Now I will not make that wicked son the owner of my wealth,” said to a steward, “Uncle, I wish to see my son. Send a footman to summon my son.”
Trưởng giả nghĩ: “Giờ ta sẽ không để đứa con hư đốn đó làm chủ tài sản của ta nữa,” rồi nói với một người quản lý: “Cậu ơi, ta muốn gặp con trai ta, hãy sai một người hầu đến gọi con trai ta về.”
So ‘‘sādhū’’ti vatvā paṇṇaṃ datvā ekaṃ purisaṃ pesesi.
He said, “Very well,” and sending a man with a letter.
Người quản lý “Vâng” rồi đưa thư và sai một người đi.
Seṭṭhidhītāpi tassa āgantvā dvāre ṭhitabhāvaṃ sutvā taṃ pakkosāpetvā, ‘‘kiṃ, tātā’’ti pucchi.
The chief merchant’s daughter, hearing that he had arrived and was standing at the door, summoned him and asked, “What is it, dear one?”
Con gái trưởng giả nghe tin người đó đã đến đứng ở cổng liền cho gọi vào và hỏi: “Có việc gì vậy, con?”
So āha – ‘‘seṭṭhi gilāno, puttaṃ passituṃ pakkosāpesi, ayye’’ti.
He replied, “The merchant is ill, my lady; he has sent for his son to see him.”
Người đó nói: “Thưa tiểu thư, trưởng giả đang bệnh, sai gọi con trai về để gặp.”
‘‘Kiṃ, tāta, balavā, dubbalo’’ti?
“Is he strong or weak, dear one?”
“Con ơi, ông ấy khỏe hay yếu?”
‘‘Balavā tāva, āhāraṃ bhuñjatiyeva, ayye’’ti.
“He is still strong, my lady; he is still eating food.”
“Thưa tiểu thư, ông ấy vẫn còn khỏe, vẫn còn ăn uống được.”
Sā seṭṭhiputtaṃ ajānāpetvāva tassa nivesanañca paribbayañca dāpetvā ‘‘mayā pesitakāle gamissasi, acchassu tāvā’’ti āha.
Without letting the chief merchant’s son know, she had lodging and expenses given to that man and said, “You will go when I send you; stay here for now.”
Cô ấy không cho con trai trưởng giả biết mà cho người đó chỗ ở và chi phí, rồi nói: “Con sẽ đi khi ta sai, cứ ở lại đây đã.”
Seṭṭhi puna āyuttakaṃ avaca, ‘‘kiṃ, mātula, na te mama puttassa santikaṃ pahita’’nti?
The merchant again said to the steward, “Uncle, have you not sent word to my son?”
Trưởng giả lại hỏi người quản lý: “Cậu ơi, sao chưa sai người đến chỗ con trai ta?”
‘‘Pahitaṃ, sāmi, gatapuriso na tāva etī’’ti.
“It has been sent, master; the man who went has not yet returned.”
“Thưa chủ, đã sai rồi, nhưng người đi chưa về.”
‘‘Tena hi puna aparaṃ pesehī’’ti.
“Then send another one,” he said.
“Vậy thì hãy sai một người khác đi.”
So pesesi.
He sent him.
Ông ta sai đi.
Seṭṭhidhītā tasmimpi tatheva paṭipajji.
The chief merchant’s daughter acted in the same way towards him.
Con gái trưởng giả cũng đối xử với người đó y như lần trước.
Atha seṭṭhino rogo balavā jāto, ekaṃ bhājanaṃ pavisati, ekaṃ nikkhamati.
Then the merchant’s illness became severe; one vessel entered, and another departed.
Sau đó, bệnh của trưởng giả trở nặng, một chén vào, một chén ra (tức là nôn mửa và tiêu chảy liên tục).
Puna seṭṭhi āyuttakaṃ pucchi – ‘‘kiṃ, mātula, na te mama puttassa santikaṃ pahita’’nti?
Again the merchant asked the steward, “Uncle, have you not sent word to my son?”
Trưởng giả lại hỏi người quản lý: “Cậu ơi, sao chưa sai người đến chỗ con trai ta?”
‘‘Pahitaṃ, sāmi, gatapuriso na tāva etī’’ti.
“It has been sent, master; the man who went has not yet returned.”
“Thưa chủ, đã sai rồi, nhưng người đi chưa về.”
‘‘Tena hi puna aparaṃ pesehī’’ti.
“Then send another one,” he said.
“Vậy thì hãy sai một người khác đi.”
So pesesi.
He sent him.
Ông ta sai đi.
Seṭṭhidhītā tatiyavāre āgatampi taṃ pavattiṃ pucchi.
The chief merchant’s daughter also asked that man, who had come for the third time, about the news.
Lần thứ ba người đó đến, con gái trưởng giả cũng hỏi về tình hình.
So ‘‘bāḷhagilāno, ayye, seṭṭhi āhāraṃ pacchinditvā maccuparāyaṇo jāto, ekaṃ bhājanaṃ nikkhamati, ekaṃ pavisatī’’ti āha.
He said, “The merchant is gravely ill, my lady; he has stopped eating and is at the point of death; one vessel is emptied, and another is filled.”
Người đó nói: “Thưa tiểu thư, trưởng giả bệnh rất nặng, đã bỏ ăn và sắp chết rồi, một chén vào, một chén ra.”
Seṭṭhidhītā ‘‘idāni gantuṃ kālo’’ti seṭṭhiputtassa ‘‘pitā te kira gilāno’’ti ārocetvā ‘‘kiṃ vadesi bhadde’’ti vutte ‘‘aphāsukamassa, sāmī’’ti āha.
The chief merchant’s daughter thought, “Now is the time to go.” She informed the chief merchant’s son, “They say your father is ill.” When he asked, “What do you mean, good lady?” she replied, “He is unwell, master.”
Con gái trưởng giả nghĩ: “Bây giờ là lúc phải đi,” liền báo cho con trai trưởng giả: “Nghe nói cha chàng đang bệnh.” Khi được hỏi: “Nàng nói gì vậy, hiền thê?”, cô ấy nói: “Ông ấy không được khỏe, thưa chủ.”
‘‘Idāni kiṃ kātabba’’nti.
“What should be done now?”
“Bây giờ phải làm gì?”
Sāmi?
“Master?”
Thưa chủ?
‘‘Gāmasatato vuṭṭhānakapaṇṇākāraṃ ādāya gantvā passissāma na’’nti.
“Should we take the tribute from the hundred villages and go to see him?”
“Chúng ta hãy mang cống phẩm từ một trăm ngôi làng đến để thăm ông ấy.”
So ‘‘sādhū’’ti paṇṇākāraṃ āharāpetvā sakaṭehi ādāya pakkāmi.
He said, “Very well,” and having the tribute brought, he took it in carts and departed.
Cậu ta “Vâng” rồi cho người mang cống phẩm đến, chất lên xe bò rồi rời đi.
Tasmiṃ khaṇe seṭṭhi uttānako nipanno hoti.
At that moment, the merchant lay on his back.
Vào lúc đó, trưởng giả đang nằm ngửa.
Āyuttako pana tassa pāde parimajjanto ‘‘putto te, sāmi, āgato’’ti āha.
The steward, massaging his feet, said, “Your son has come, master.”
Người quản gia xoa bóp chân ông và nói: “Thưa chủ, con trai của ngài đã về rồi.”
‘‘Kuhiṃ so’’ti?
“Where is he?” he asked.
“Nó ở đâu?”
‘‘Esa pādamūle ṭhito’’ti.
“He is standing at your feet,” he said.
“Nó đang đứng ở phía chân.”
Atha naṃ disvā āyakammikaṃ pakkosāpetvā, ‘‘mama gehe kittakaṃ dhana’’nti pucchi.
Then, seeing him, he sent for the treasurer and asked, “How much wealth is there in my house?”
Rồi thấy cậu, trưởng giả cho gọi người quản lý tài sản và hỏi: “Trong nhà ta có bao nhiêu tài sản?”
‘‘Sāmi, dhanasseva cattālīsakoṭiyo, upabhogaparibhogabhaṇḍānaṃ pana vanagāmakkhettadvipadacatuppadayānavāhanānañca ayañca ayañca paricchedo’’ti vutte, ‘‘ahaṃ ettakaṃ dhanaṃ mama puttassa ghosakassa na demī’’ti vattukāmo ‘‘demī’’ti āha.
When he was told, “Master, there are forty crores of wealth alone. As for articles for enjoyment and use, gardens, villages, fields, two-footed and four-footed creatures, and vehicles, this and this is the extent,” the merchant, wishing to say, “I will not give this much wealth to my son Ghosaka,” mistakenly said, “I will give it.”
Khi được trả lời: “Thưa chủ, chỉ riêng tiền bạc đã có bốn mươi crore, còn về đồ dùng, vật dụng, vườn tược, làng mạc, ruộng đất, hai chân, bốn chân, xe cộ và phương tiện đi lại thì có từng này, từng này,” thì ông ta, muốn nói “Ta không cho Ghosaka, con trai ta, số tài sản lớn như vậy,” lại nói nhầm thành “Ta cho.”
Taṃ sutvā seṭṭhidhītā ‘‘ayaṃ puna kathento aññaṃ kiñci katheyyā’’ti cintetvā sokāturā viya kese vikiritvā rodamānā ‘‘kiṃ nāmetaṃ, tāta, vadetha, idampi nāma vo vacanaṃ suṇoma, alakkhikā vatamhā’’ti vatvā matthakena naṃ uramajjhe paharantī patitvā yathā puna vattuṃ na sakkoti, tathāssa uramajjhe matthakena ghaṃsentī ārodanaṃ dassesi.
Hearing that, the chief merchant’s daughter thought, “If he speaks again, he might say something else.” As if overcome with sorrow, she disheveled her hair and, weeping, said, “What is this, father, that you say? We hear even this word from you. How unfortunate we are!” Saying this, she fell, striking his chest with her head, and rubbed his chest with her head, demonstrating her wailing so that he could not speak again.
Nghe vậy, con gái trưởng giả nghĩ: “Lão này mà nói lại thì có thể nói điều gì khác,” rồi như thể bị nỗi buồn dày vò, nàng xõa tóc và khóc lóc nói: “Cha ơi, cha nói gì vậy? Chúng con nghe những lời này của cha, thật là bất hạnh cho chúng con!” Vừa nói, nàng vừa dùng đầu đập vào giữa ngực ông, rồi ngã xuống và tiếp tục dùng đầu cọ xát vào giữa ngực ông, biểu lộ sự than khóc đến mức ông không thể nói thêm lời nào nữa.
Seṭṭhi taṃkhaṇaññeva kālamakāsi.
The merchant died at that very moment.
Trưởng giả qua đời ngay lúc đó.
‘‘Seṭṭhi mato’’ti gantvā utenassa rañño ārocayiṃsu.
They went and informed King Utena, “The merchant is dead.”
Họ đi báo tin cho vua Udena rằng: “Trưởng giả đã mất.”
Rājā tassa sarīrakiccaṃ kārāpetvā, ‘‘atthi panassa putto vā dhītā vā’’ti pucchi.
The king had the merchant’s funeral rites performed and asked, “Does he have a son or daughter?”
Nhà vua cho tổ chức tang lễ cho ông, rồi hỏi: “Ông ta có con trai hay con gái nào không?”
‘‘Atthi, deva, ghosako nāma tassa putto, sabbaṃ sāpateyyaṃ tassa niyyādetvāva mato, devā’’ti.
“Yes, Your Majesty, he has a son named Ghosaka. He died only after entrusting all his wealth to him, Your Majesty,” they reported.
“Thưa Đại vương, ông ấy có một người con trai tên là Ghosaka. Ông ấy đã trao lại toàn bộ tài sản cho người con trai đó rồi mới qua đời, thưa Đại vương.”
Rājā aparabhāge seṭṭhiputtaṃ pakkosāpesi.
Later, the king summoned the chief merchant’s son.
Sau đó, nhà vua cho gọi con trai của trưởng giả.
Tasmiñca divase devo vassi.
On that day, it rained.
Vào ngày đó, trời đổ mưa.
Rājaṅgaṇe tattha tattha udakaṃ saṇṭhāti.
Water collected here and there in the royal courtyard.
Nước đọng lại khắp nơi trong sân hoàng cung.
Seṭṭhiputto ‘‘rājānaṃ passissāmī’’ti pāyāsi.
The chief merchant’s son set out, thinking, “I will see the king.”
Con trai trưởng giả nghĩ: “Ta sẽ gặp nhà vua,” rồi lên đường.
Rājā vātapānaṃ vivaritvā taṃ āgacchantaṃ olokento rājaṅgaṇe udakaṃ laṅghitvā āgacchantaṃ disvā āgantvā vanditvā ṭhitaṃ ‘‘tvaṃ ghosako nāma, tātā’’ti pucchitvā ‘‘āma, devā’’ti vutte ‘‘pitā me matoti mā soci, tava pettikaṃ seṭṭhiṭṭhānaṃ tuyhameva dassāmī’’ti taṃ samassāsetvā ‘‘gaccha, tātā’’ti uyyojesi.
The king opened the window and, looking at Ghosaka coming, saw him leaping over the water in the royal courtyard. When he arrived, paid his respects, and stood there, the king asked, "Are you Ghosaka, my son?" When he replied, "Yes, Your Majesty," the king comforted him, saying, "Do not grieve that my father has died; I will give you your ancestral seṭṭhi position," and then sent him away, saying, "Go, my son."
Nhà vua mở cửa sổ nhìn cậu đi đến, thấy cậu nhảy qua vũng nước trong sân hoàng cung mà đi đến, rồi sau khi đến và đảnh lễ, đứng đó, nhà vua hỏi: “Này con, con tên là Ghosaka phải không?” Khi cậu đáp: “Vâng, thưa Đại vương,” nhà vua an ủi cậu: “Đừng buồn vì cha ta đã mất. Ta sẽ trao lại chức trưởng giả của cha con cho chính con,” rồi nói: “Con về đi, này con,” và tiễn cậu.
Rājā gacchantañca naṃ olokentova aṭṭhāsi.
The king stood there, continuing to watch him as he departed.
Nhà vua đứng nhìn cậu đi về.
So āgamanakāle laṅghitaṃ udakaṃ gamanakāle otaritvā saṇikaṃ agamāsi.
When he had come, he had leapt over the water, but when he departed, he stepped down into it and walked slowly.
Cậu đã nhảy qua vũng nước khi đến, nhưng khi đi về, cậu lại bước xuống và đi chậm rãi.
Atha naṃ rājā tatova pakkosāpetvā, ‘‘kiṃ nu kho, tāta, tvaṃ mama santikaṃ āgacchanto udakaṃ laṅghitvā āgamma gacchanto otaritvā saṇikaṃ gacchasī’’ti pucchi.
Then the king had him called back from that very spot and asked, "Why is it, my son, that when you came to me, you leapt over the water and then when you leave, you step down into it and walk slowly?"
Rồi nhà vua cho gọi cậu trở lại từ đó và hỏi: “Này con, tại sao khi con đến gặp ta, con lại nhảy qua vũng nước, nhưng khi con đi về, con lại bước xuống và đi chậm rãi?”
‘‘Āma, deva, ahaṃ tasmiṃ khaṇe kumārako, kīḷanakālo nāma, so idāni pana me devena ṭhānantaraṃ paṭissutaṃ.
"Yes, Your Majesty, at that time I was a young boy, a time for play. But now, Your Majesty has promised me a position of authority.
“Thưa Đại vương, vâng, khi đó thần còn là một cậu bé, đó là lúc để vui chơi. Nhưng bây giờ, Đại vương đã hứa ban cho thần chức vị.
Tasmā yathā pure acaritvā idāni sannisinnena hutvā carituṃ vaṭṭatī’’ti.
Therefore, it is proper for me to act composedly now, not as before."
Vì vậy, thay vì hành xử như trước, bây giờ thần phải hành xử một cách điềm tĩnh.”
Taṃ sutvā rājā ‘‘dhitimāyaṃ puriso, idānevassa ṭhānantaraṃ dassāmī’’ti pitarā bhuttaṃ bhogaṃ datvā sabbasatena seṭṭhiṭṭhānaṃ adāsi.
Hearing that, the king thought, "This man is resolute; I shall give him the position right now." And so, giving him the wealth enjoyed by his father, he bestowed upon him the seṭṭhi position along with all hundred things.
Nghe vậy, nhà vua nghĩ: “Người này thật kiên cường, ta sẽ trao chức vị cho cậu ta ngay bây giờ,” rồi ban cho cậu tài sản mà cha cậu đã hưởng thụ, và trao chức trưởng giả với toàn bộ tài sản.
So rathe ṭhatvā nagaraṃ padakkhiṇaṃ akāsi.
He sat in his chariot and circumambulated the city.
Cậu ngồi trên xe ngựa và đi vòng quanh thành phố theo chiều kim đồng hồ.
Olokitolokitaṭṭhānaṃ kampati.
Every place he looked, it trembled.
Mỗi nơi cậu nhìn đến đều rung chuyển.
Seṭṭhidhītā kāḷidāsiyā saddhiṃ mantayamānā nisinnā ‘‘amma kāḷi, puttassa te ettikā sampatti maṃ nissāya uppannā’’ti āha.
The seṭṭhi's daughter, sitting and conversing with Kāḷī, the female slave, said, "Mother Kāḷī, this much prosperity for your son has arisen because of me."
Con gái trưởng giả đang ngồi nói chuyện với tớ gái Kāḷī và nói: “Này mẹ Kāḷī, tài sản lớn như vậy của con trai mẹ là do con mà có.”
‘‘Kiṃ kāraṇā, ammā’’ti?
"For what reason, dear child?"
“Vì lý do gì vậy, con gái?”
‘‘Ayañhi attano maraṇapaṇṇaṃ dussante bandhitvā amhākaṃ gharaṃ āgato, athassa mayā taṃ paṇṇaṃ phāletvā mayā saddhiṃ maṅgalakaraṇatthāya aññaṃ paṇṇaṃ likhitvā ettakaṃ kālaṃ tattha ārakkho kato’’ti.
"Because he came to our house with his death warrant tied to the corner of his cloth. Then I tore up that warrant and wrote another one for his wedding with me, and for all this time, I have been its guardian."
“Cậu ấy đã đến nhà chúng ta với một lá thư tử hình buộc vào một góc áo, nhưng con đã xé lá thư đó, viết một lá thư khác để kết hôn với con, và đã canh giữ nó suốt thời gian qua.”
‘‘Amma, tvaṃ ettakaṃ passasi, imaṃ pana seṭṭhi daharakālato paṭṭhāya māretukāmo māretuṃ nāsakkhi, kevalaṃ imaṃ nissāya bahuṃ dhanaṃ khīyī’’ti.
"Daughter, you see only this much. But the seṭṭhi, desiring to kill him from his youth, was unable to do so, and merely because of him, much wealth was wasted."
“Con gái, con chỉ thấy được chừng đó thôi, nhưng trưởng giả này đã muốn giết cậu ấy từ khi còn nhỏ mà không thể giết được, chỉ vì cậu ấy mà rất nhiều tài sản đã bị hao hụt.”
‘‘Amma, atibhāriyaṃ vata seṭṭhinā kata’’nti.
"Mother, indeed the seṭṭhi committed a grave deed!"
“Mẹ ơi, trưởng giả đã làm một việc thật nặng nề!”
Nagaraṃ padakkhiṇaṃ katvā gehaṃ pavisantaṃ pana naṃ disvā, ‘‘ayaṃ ettikā sampatti maṃ nissāya uppannā’’ti hasitaṃ akāsi.
Seeing him enter the house after circumambulating the city, she smiled, thinking, "This much prosperity has arisen because of me."
Khi thấy cậu đi vòng quanh thành phố và vào nhà, nàng mỉm cười và nghĩ: “Tài sản lớn như vậy là do ta mà có.”
Atha naṃ seṭṭhiputto disvā, ‘‘kiṃ kāraṇā hasī’’ti pucchi.
Then the seṭṭhi's son saw her and asked, "Why are you smiling?"
Rồi con trai trưởng giả thấy nàng và hỏi: “Tại sao nàng cười?”
‘‘Ekaṃ kāraṇaṃ nissāyā’’ti.
"Because of a certain reason."
“Vì một lý do nào đó.”
‘‘Kathehi na’’nti?
"Tell me!"
“Hãy nói đi!”
‘‘Sā na kathesi’’.
She did not tell him.
Nàng không nói.
So ‘‘sace na kathessasi, dvidhā taṃ chindissāmī’’ti tajjetvā asiṃ nikkaḍḍhi.
He, threatening her with "If you don't tell me, I will cut you in two," drew his sword.
Cậu đe dọa: “Nếu nàng không nói, ta sẽ chém nàng làm đôi,” rồi rút kiếm ra.
Sā ‘‘ayaṃ ettikā sampatti tayā maṃ nissāya laddhāti cintetvā hasita’’nti āha.
She said, "I smiled thinking that you obtained all this prosperity because of me."
Nàng nói: “Ta cười vì nghĩ rằng tài sản lớn như vậy là do ta mà ngươi có được.”
‘‘Yadi mama pitarā attano santakaṃ mayhaṃ niyyāditaṃ, tvaṃ ettha kiṃ hosī’’ti?
"If my father indeed entrusted his own property to me, what are you here for?"
“Nếu cha ta đã trao tài sản của ông ấy cho ta, thì nàng là gì ở đây?”
So kira ettakaṃ kālaṃ kiñci na jānāti, tenassā vacanaṃ na saddahi.
It is said that he knew nothing all this time, so he did not believe her words.
Cậu ta đã không biết gì suốt thời gian qua, vì vậy cậu không tin lời nàng.
Athassa sā ‘‘tumhākaṃ pitarā maraṇapaṇṇaṃ datvā pesitā, tumhe mayā idañcidañca katvā rakkhitā’’ti sabbaṃ kathesi.
Then she told him everything: "Your father sent men with a death warrant, and I protected you by doing such and such."
Rồi nàng kể hết mọi chuyện cho cậu: “Cha của các người đã gửi những người đàn ông với lá thư tử hình, nhưng ta đã bảo vệ các người bằng cách làm điều này, điều kia.”
‘‘Tvaṃ abhūtaṃ kathesī’’ti asaddahanto ‘‘mātaraṃ kāḷiṃ pucchissāmī’’ti cintetvā ‘‘evaṃ kira, ammā’’ti.
He, disbelieving her and saying, "You speak falsehoods," thought, "I will ask Mother Kāḷī," and asked, "Is it true, Mother, as she says?"
Cậu không tin, nói: “Nàng nói điều không thật,” rồi nghĩ: “Ta sẽ hỏi mẹ Kāḷī,” và hỏi: “Mẹ ơi, có phải như vậy không?”
‘‘Āma, tāta, daharakālato paṭṭhāya taṃ māretukāmo māretuṃ asakkonto taṃ nissāya bahuṃ dhanaṃ khīyi, sattasu ṭhānesu tvaṃ maraṇato mutto, idāni bhogagāmato āgamma sabbasatena saddhiṃ seṭṭhiṭṭhānaṃ patto’’ti.
"Yes, my son, from your childhood, the seṭṭhi wished to kill you but could not. He wasted much wealth because of you. You were saved from death in seven instances, and now you have come from the wealth-village and attained the seṭṭhi position with all hundred things."
“Vâng, con trai, từ khi con còn nhỏ, trưởng giả đã muốn giết con mà không thể giết được, vì con mà rất nhiều tài sản đã bị hao hụt. Con đã thoát chết bảy lần, và bây giờ con đã từ làng Bhogagāma trở về và nhận được chức trưởng giả cùng với toàn bộ tài sản.”
So taṃ sutvā ‘‘bhāriyaṃ vata kammaṃ, evarūpā kho pana maraṇā muttassa mama pamādajīvitaṃ jīvituṃ ayuttaṃ, appamatto bhavissāmī’’ti cintetvā devasikaṃ sahassaṃ vissajjetvā addhikakapaṇādīnaṃ dānaṃ paṭṭhapesi.
Hearing that, he thought, "What a grave action! Indeed, it is improper for me, who has escaped such death, to live a life of heedlessness. I shall be diligent." And so, he spent a thousand (coins) daily and established almsgiving for travelers, the poor, and others.
Nghe vậy, cậu nghĩ: “Thật là một nghiệp nặng nề! Ta đã thoát chết như vậy, vậy thì sống cuộc đời lơ đễnh là không thích hợp. Ta sẽ trở nên không lơ đễnh,” rồi mỗi ngày bố thí một ngàn đồng cho những người hành khất, người nghèo khổ, v.v.
Mitto nāmassa kuṭumbiko dānabyāvaṭo ahosi.
A householder named Mitta was in charge of the almsgiving for him.
Một gia chủ tên là Mitta đã lo liệu việc bố thí cho cậu.
Ayaṃ ghosakaseṭṭhino uppatti.
This is the origin of Ghosaka Seṭṭhi.
Đây là sự xuất hiện của trưởng giả Ghosaka.
Tasmiṃ pana kāle bhaddavatīnagare bhaddavatiyaseṭṭhi nāma ghosakaseṭṭhino adiṭṭhapubbasahāyako ahosi.
At that time, in the city of Bhaddavatī, there was a seṭṭhi named Bhaddavatīya, who was an unseen friend of Ghosaka Seṭṭhi.
Vào lúc đó, tại thành phố Bhaddavatī có một trưởng giả tên là Bhaddavatī, là một người bạn chưa từng gặp mặt của trưởng giả Ghosaka.
Bhaddavatīnagarato āgatānaṃ vāṇijānaṃ santike ghosakaseṭṭhi bhaddavatiyaseṭṭhino sampattiñca vayappadesañca sutvā tena saddhiṃ sahāyakabhāvaṃ icchanto paṇṇākāraṃ pesesi.
Ghosaka Seṭṭhi, hearing about the wealth and age of Bhaddavatīya Seṭṭhi from merchants who came from Bhaddavatī, desired to be his friend and sent him a gift.
Trưởng giả Ghosaka nghe các thương nhân từ thành phố Bhaddavatī đến kể về tài sản và tuổi tác của trưởng giả Bhaddavatī, muốn kết bạn với ông, nên đã gửi quà biếu.
Bhaddavatiyaseṭṭhipi kosambito āgatānaṃ vāṇijānaṃ santike ghosakaseṭṭhino sampattiñca vayappadesañca sutvā tena saddhiṃ sahāyakabhāvaṃ icchanto paṇṇākāraṃ pesesi.
Bhaddavatīya Seṭṭhi, likewise, hearing about the wealth and age of Ghosaka Seṭṭhi from merchants who came from Kosambī, desired to be his friend and sent him a gift.
Trưởng giả Bhaddavatī cũng nghe các thương nhân từ Kosambī đến kể về tài sản và tuổi tác của trưởng giả Ghosaka, muốn kết bạn với ông, nên đã gửi quà biếu.
Evaṃ te aññamaññaṃ adiṭṭhapubbasahāyakā hutvā vasiṃsu.
Thus, they lived as unseen friends to each other.
Cứ thế, hai vị trưởng giả là bạn bè chưa từng gặp mặt nhau.
Aparabhāge bhaddavatiyaseṭṭhino gehe ahivātarogo patito.
Later, a plague-like disease (ahivātaroga) fell upon the house of Bhaddavatīya Seṭṭhi.
Sau đó, bệnh dịch hạch (ahivātaroga) bùng phát trong nhà trưởng giả Bhaddavatī.
Tasmiṃ patite paṭhamaṃ makkhikā maranti, tato anukkameneva kīṭā mūsikā kukkuṭā sūkarā gāvo dāsī dāsā sabbapacchā gharamānusakāpi maranti.
When it struck, first flies died, then gradually insects, mice, chickens, pigs, cows, female slaves, and male slaves died, and last of all, the householders also died.
Khi bệnh dịch bùng phát, đầu tiên ruồi chết, rồi dần dần côn trùng, chuột, gà, heo, bò, tớ gái, tớ trai cũng chết, và cuối cùng là những người trong nhà cũng chết.
Tesu ye bhittiṃ bhinditvā palāyanti, te jīvitaṃ labhanti, tadā pana seṭṭhi ca bhariyā ca dhītā cassa tathā palāyitvā ghosakaseṭṭhiṃ passituṃ patthentā kosambimaggaṃ paṭipajjiṃsu.
Among them, those who broke through the wall and fled obtained life. At that time, the seṭṭhi, his wife, and his daughter, having fled in that manner and desiring to see Ghosaka Seṭṭhi, set out on the road to Kosambī.
Trong số đó, những người phá tường bỏ trốn thì sống sót. Lúc đó, trưởng giả, vợ ông và con gái ông cũng bỏ trốn như vậy, muốn gặp trưởng giả Ghosaka, nên đã đi theo con đường đến Kosambī.
Te antarāmaggeyeva khīṇapātheyyā vātātapena ceva khuppipāsāhi ca kilantasarīrā kicchena kosambiṃ patvā udakaphāsukaṭṭhāne ṭhatvā nhatvā nagaradvāre ekaṃ sālaṃ pavisiṃsu.
On the way, their provisions ran out, and their bodies were exhausted by wind, sun, hunger, and thirst. They reached Kosambī with difficulty, stopped at a place where water was easily accessible, bathed, and entered a hall at the city gate.
Trên đường đi, họ hết lương thực, thân thể mệt mỏi vì gió và nắng nóng, cũng như đói khát, nên khó khăn lắm mới đến được Kosambī. Họ dừng lại ở một nơi có nước thuận tiện, tắm rửa, rồi vào một hội trường ở cổng thành.
Tato seṭṭhi bhariyaṃ āha – ‘‘bhadde, iminā nīhārena gacchantā vijātamātuyāpi amanāpā honti, sahāyako kira me addhikakapaṇādīnaṃ devasikaṃ sahassaṃ vissajjetvā dānaṃ dāpesi.
Then the seṭṭhi said to his wife, "My dear, if we go on in this state, we will be unwelcome even to a mother who has just given birth. My friend, Ghosaka, it is said, gives away a thousand (coins) daily in alms to travelers, the poor, and others.
Rồi trưởng giả nói với vợ: “Này hiền thê, nếu chúng ta cứ đi theo cách này, thì ngay cả người mẹ đã sinh ra chúng ta cũng sẽ không hài lòng. Nghe nói bạn ta là trưởng giả Ghosaka mỗi ngày bố thí một ngàn đồng cho những người hành khất, người nghèo khổ, v.v.
Tattha dhītaraṃ pesetvā āhāraṃ āharāpetvā ekāhaṃ dvīhaṃ idheva sarīraṃ santappetvā sahāyakaṃ passissāmā’’ti.
Let's send our daughter there to bring food, and after we have satisfied our bodies here for a day or two, we will go to see our friend."
Chúng ta hãy sai con gái đến đó mang thức ăn về, ở đây một hai ngày để phục hồi sức khỏe, rồi sau đó chúng ta sẽ đi gặp bạn ta.”
Sā ‘‘sādhu, sāmī’’ti.
She replied, "Very well, my lord."
Nàng đáp: “Vâng, thưa chủ.”
Te sālāyameva vasiṃsu.
They stayed in that hall.
Họ ở lại trong hội trường đó.
Punadivase kāle ārocite kapaṇaddhikādīsu āhāratthāya gacchantesu mātāpitaro, ‘‘amma, gantvā amhākaṃ āhāraṃ āharā’’ti dhītaraṃ pesayiṃsu.
The next day, when the time was announced and the poor, travelers, and others went for food, the parents sent their daughter, saying, "Daughter, go and bring us food."
Ngày hôm sau, khi thời gian bố thí được thông báo, trong lúc những người nghèo khổ, khách lữ hành, v.v. đang đi lấy thức ăn, cha mẹ cô gái đã sai con gái mình: "Con ơi, hãy đi lấy thức ăn cho chúng ta."
Mahābhogakulassa dhītā vipattiyā acchinnalajjitāya alajjamānā pātiṃ gahetvā kapaṇajanena saddhiṃ āhāratthāya gantvā ‘‘kati paṭivīse gaṇhissasi, ammā’’ti puṭṭhā ca pana ‘‘tayo’’ti āha.
The daughter of a wealthy family, not being ashamed of her loss of modesty due to misfortune, took a bowl, went for food with the poor people, and when asked, "How many portions will you take, dear child?" she said, "Three."
Con gái của một gia đình giàu có, không còn cảm thấy xấu hổ vì sự phá sản đã cướp đi sự tự trọng của mình, cầm bát đi cùng những người nghèo để xin thức ăn. Khi được hỏi: "Con ơi, con sẽ lấy bao nhiêu phần?", cô đáp: "Ba phần."
Athassā tayo paṭivīse adāsi.
Then they gave her three portions.
Rồi người ta đã cho cô ba phần.
Tāya bhatte āhaṭe tayopi ekato bhuñjituṃ nisīdiṃsu.
When she brought the food, all three sat down together to eat.
Khi cô mang cơm về, cả ba người cùng ngồi ăn.
Atha mātādhītaro seṭṭhiṃ āhaṃsu – ‘‘sāmi, vipatti nāma mahākulānampi uppajjati, mā amhe oloketvā bhuñja, mā cintayī’’ti.
Then the mother and daughter said to the seṭṭhi, "My lord, misfortune befalls even great families. Do not look at us while eating, and do not worry."
Rồi mẹ và con gái nói với vị trưởng giả: "Thưa chủ, sự suy sụp cũng xảy ra với các gia đình lớn. Xin đừng nhìn chúng con mà ăn, đừng lo lắng gì cả."
Iti naṃ nānappakārehi yācitvā bhojesuṃ.
Thus, they entreated him in various ways and made him eat.
Thế là họ đã khẩn cầu ngài bằng nhiều cách khác nhau và mời ngài ăn.
So bhuñjitvā āhāraṃ jīrāpetuṃ asakkonto aruṇe uggacchante kālamakāsi.
After eating, he was unable to digest the food and passed away at dawn.
Ngài ăn xong, không thể tiêu hóa thức ăn, đã qua đời khi bình minh ló dạng.
Mātādhītaro nānappakārehi paridevitvā rodiṃsu.
The mother and daughter wept, lamenting in various ways.
Mẹ và con gái đã than khóc và khóc lóc bằng nhiều cách khác nhau.
Kumārikā punadivase rodamānā āhāratthāya gantvā, ‘‘kati paṭivīse gaṇhissasī’’ti vuttā, ‘‘dve’’ti vatvā āhāraṃ āharitvā mātaraṃ yācitvā bhojesi.
The next day, the girl, crying, went for food. When asked, "How many portions will you take?" she said, "Two," and bringing the food, she entreated her mother and made her eat.
Ngày hôm sau, cô gái trẻ vừa khóc vừa đi xin thức ăn. Khi được hỏi: "Con ơi, con sẽ lấy bao nhiêu phần?", cô đáp: "Hai phần." Rồi cô mang thức ăn về, khẩn cầu mẹ mình ăn.
Sāpi tāya yāciyamānā bhuñjitvā āhāraṃ jīrāpetuṃ asakkontī taṃ divasameva kālamakāsi.
The mother, too, being entreated by her, ate but was unable to digest the food, and passed away on that same day.
Mẹ cô, được cô khẩn cầu, cũng ăn xong, không thể tiêu hóa thức ăn, và qua đời ngay trong ngày hôm đó.
Kumārikā ekikāva roditvā paridevitvā tāya dukkhuppattiyā ativiya sañjātachātakadukkhā punadivase yācakehi saddhiṃ rodantī āhāratthāya gantvā, ‘‘kati paṭivīse gaṇhissasi, ammā’’ti vuttā ‘‘eka’’nti āha.
The maiden, having cried and lamented alone, and being extremely afflicted by the suffering of hunger due to that misfortune, went the next day with the beggars to get food. When asked, "How many paṭivīsa will you take, mother?" she said, "One."
Cô gái trẻ một mình khóc lóc, than khóc, vì nỗi khổ đói khát cực độ do nỗi đau đó gây ra, ngày hôm sau, cô vừa khóc vừa đi cùng những người ăn xin để xin thức ăn. Khi được hỏi: "Con ơi, con sẽ lấy bao nhiêu phần?", cô đáp: "Một phần."
Mittakuṭumbiko taṃ tayo divase bhattaṃ gaṇhantiṃ sañjānāti, tena taṃ ‘‘apehi nassa, vasali, ajja tava kucchippamāṇaṃ aññāsī’’ti āha.
The householder Mitta recognized her as the one who had been taking food for three days. Therefore, he said to her, "Go away, perish, vasali! Today I have known the measure of your stomach."
Vị gia chủ Mittakuṭumbika nhận ra cô đã lấy cơm trong ba ngày. Vì vậy, ông ta nói với cô: "Đi đi, đồ tiện nữ, hôm nay ta đã biết được lượng bụng của ngươi rồi!"
Hirottappasampannā kuladhītā paccorasmiṃ sattipahāraṃ viya vaṇe khārodakasecanakaṃ viya ca patvā ‘‘kiṃ, sāmī’’ti āha.
The virtuous maiden, filled with shame and moral dread, felt as if she had been struck by a spear in her chest, or as if caustic water had been poured on a wound, and said, "What, master?"
Cô gái gia đình có lòng hổ thẹn và ghê sợ, cảm thấy như bị đâm một ngọn giáo vào ngực, như bị đổ nước muối vào vết thương, liền nói: "Thưa chủ, tại sao vậy ạ?"
‘‘Tayā pure tayo koṭṭhāsā gahitā, hiyyo dve, ajja ekaṃ gaṇhāsi.
"Before, you took three portions; yesterday, two; today, you take one.
"Trước đây ngươi lấy ba phần, hôm qua hai phần, hôm nay ngươi lấy một phần.
Ajja te attano kucchippamāṇaṃ ñāta’’nti.
Today, the measure of your own stomach is known to you."
Hôm nay ngươi đã biết được lượng bụng của mình rồi."
‘‘Mā maṃ, sāmi, ‘attanova atthāya gaṇhī’ti maññitthā’’ti.
"Master, do not think that I took it for my own sake."
"Thưa chủ, xin đừng nghĩ rằng con lấy cho riêng mình."
‘‘Atha kasmā evaṃ gaṇhī’’ti?
"Then why did you take it like that?"
"Vậy thì tại sao ngươi lại lấy như vậy?"
‘‘Pure tayo janā ahumha, sāmi, hiyyo dve, ajja ekikāva jātāmhī’’ti.
"Before, there were three of us, master; yesterday, two; today, I am alone."
"Thưa chủ, trước đây chúng con có ba người, hôm qua hai người, hôm nay con chỉ còn một mình."
So ‘‘kena kāraṇenā’’ti pucchitvā ādito paṭṭhāya tāya kathitaṃ sabbaṃ pavattiṃ sutvā assūni sandhāretuṃ asakkonto sañjātabalavadomanasso hutvā, ‘‘amma, evaṃ sante mā cintayi, tvaṃ bhaddavatiyaseṭṭhino dhītā ajjakālato paṭṭhāya mama dhītāyeva nāmā’’ti vatvā sīse cumbitvā gharaṃ netvā attano jeṭṭhadhītuṭṭhāne ṭhapesi.
He asked, "For what reason?" and having heard all the events recounted by her from the beginning, he was unable to hold back his tears and became overwhelmed with strong grief. He said, "Daughter, if that is so, do not worry. You are the daughter of the setthi Bhaddavatiya, and from today onwards, you are my daughter," and having kissed her on the head, he took her home and placed her in the position of his eldest daughter.
Ông ta hỏi: "Vì lý do gì?" và nghe toàn bộ câu chuyện cô kể từ đầu, không thể cầm được nước mắt, lòng tràn đầy nỗi buồn sâu sắc, liền nói: "Con ơi, nếu vậy thì đừng lo lắng. Con là con gái của trưởng giả Bhaddavatiya, từ hôm nay trở đi, con chính là con gái của ta." Nói xong, ông hôn lên đầu cô, đưa cô về nhà và đặt cô vào vị trí con gái lớn của mình.
Sā dānagge uccāsaddaṃ mahāsaddaṃ sutvā, ‘‘tāta, kasmā etaṃ janaṃ nissaddaṃ katvā dānaṃ na dethā’’ti āha.
She heard a loud and great noise at the alms-hall and said, "Father, why do you not give alms to these people by making them silent?"
Cô nghe thấy tiếng ồn ào lớn ở nhà bố thí, liền nói: "Cha ơi, tại sao cha không làm cho những người này im lặng rồi bố thí ạ?"
‘‘Na sakkā kātuṃ, ammā’’ti.
"It cannot be done, daughter."
"Không thể làm được đâu con."
‘‘Sakkā, tātā’’ti.
"It can be done, father."
"Có thể làm được mà cha!"
‘‘Kathaṃ sakkā, ammā’’ti?
"How can it be done, daughter?"
"Làm thế nào được hả con?"
‘‘Tāta dānaggaṃ parikkhipitvā ekekasseva pavesanappamāṇena dve dvārāni yojetvā, ‘ekena dvārena pavisitvā ekena nikkhamathā’ti vadetha, evaṃ nissaddā hutvāva gaṇhissantī’’ti.
"Father, enclose the alms-hall and arrange two entrances, each just wide enough for one person to enter, and tell them, 'Enter by one door and exit by the other.' In this way, they will take it silently."
"Cha ơi, hãy bao quanh nhà bố thí và làm hai cửa, mỗi cửa chỉ đủ cho một người đi vào. Rồi cha hãy nói: 'Hãy đi vào bằng một cửa và đi ra bằng một cửa.' Như vậy, họ sẽ nhận thức ăn trong im lặng."
So taṃ sutvā, ‘‘bhaddakova, amma, upāyo’’ti tathā kāresi.
He heard that and said, "Daughter, it is indeed a good method," and he did so.
Nghe vậy, ông nói: "Con ơi, đó là một cách hay!" và làm theo như vậy.
Sāpi pubbe sāmā nāma.
She was formerly named Sāmā.
Trước đây, cô tên là Sāmā.
Vatiyā pana kāritattā sāmāvatī nāma jātā.
However, because she had a fence (vati) built, she became known as Sāmāvatī.
Nhưng vì đã xây dựng hàng rào (vati), nên cô được gọi là Sāmāvatī.
Tato paṭṭhāya dānagge kolāhalaṃ pacchindī.
From that time onwards, the clamor at the alms-hall ceased.
Từ đó trở đi, sự ồn ào ở nhà bố thí đã chấm dứt.
Ghosakaseṭṭhi pubbe taṃ saddaṃ suṇanto ‘‘mayhaṃ dānagge saddo’’ti tussati.
Previously, the setthi Ghosaka, hearing that noise, rejoiced, thinking, "The noise is at my alms-hall."
Trưởng giả Ghosaka trước đây nghe tiếng ồn đó và lấy làm vui mừng: "Có tiếng ồn ở nhà bố thí của ta."
Dvīhatīhaṃ pana saddaṃ asuṇanto mittakuṭumbikaṃ attano upaṭṭhānaṃ āgataṃ pucchi – ‘‘diyyati kapaṇaddhikādīnaṃ dāna’’nti?
However, after two or three days, not hearing the noise, he asked the householder Mitta, who had come to attend upon him, "Are alms being given to the poor and needy?"
Nhưng sau hai hoặc ba ngày không nghe thấy tiếng ồn, ông hỏi người gia chủ Mittakuṭumbika, người đến thăm ông: "Có bố thí cho những người nghèo khổ, khách lữ hành, v.v. không?"
‘‘Āma, sāmī’’ti.
"Yes, master."
"Vâng, thưa chủ."
‘‘Atha kiṃ dvīhatīhaṃ saddo na suyyatī’’ti?
"Then why is no noise heard for two or three days?"
"Vậy tại sao hai ba ngày nay không nghe thấy tiếng ồn?"
‘‘Yathā nissaddā hutvā gaṇhanti, tathā me upāyo kato’’ti.
"I have made a contrivance so that they take it silently."
"Tôi đã dùng một phương pháp để họ nhận thức ăn trong im lặng."
‘‘Atha pubbeva kasmā nākāsī’’ti?
"Then why did you not do it before?"
"Vậy tại sao trước đây ngươi không làm như vậy?"
‘‘Ajānanatāya, sāmī’’ti.
"Because I did not know, master."
"Thưa chủ, vì tôi không biết ạ."
‘‘Idāni kathaṃ te ñāto’’ti?
"How did you come to know it now?"
"Vậy bây giờ làm sao ngươi biết được?"
‘‘Dhītarā me akkhāto, sāmī’’ti.
"My daughter told me, master."
"Thưa chủ, con gái tôi đã nói cho tôi biết ạ."
Mayhaṃ aviditā ‘‘tava dhītā nāma atthī’’ti.
"A daughter of yours exists, unknown to me?"
"Ta không biết rằng ngươi có một người con gái tên là gì."
So ahivātaroguppattito paṭṭhāya sabbaṃ bhaddavatiyaseṭṭhino pavattiṃ ācikkhitvā tassā attano jeṭṭhadhītuṭṭhāne ṭhapitabhāvaṃ ārocesi.
Then he recounted all the events of the setthi Bhaddavatiya from the onset of the snake-poison-like wind disease and informed him that she had been placed in the position of his eldest daughter.
Ông gia chủ Mittakuṭumbika kể lại toàn bộ câu chuyện về trưởng giả Bhaddavatiya từ khi bệnh rắn cắn phát sinh, và thông báo rằng cô gái đã được đặt vào vị trí con gái lớn của ông ta.
Atha naṃ seṭṭhi ‘‘evaṃ sante mama kasmā na kathesi, mama sahāyakassa dhītā mama dhītā nāmā’’ti taṃ pakkosāpetvā pucchi – ‘‘amma, seṭṭhino dhītāsī’’ti?
Then the setthi said to him, "If that is so, why did you not tell me? The daughter of my friend is my daughter," and having sent for her, he asked, "Daughter, are you the daughter of the setthi?"
Rồi trưởng giả Ghosaka hỏi ông gia chủ Mittakuṭumbika: "Nếu vậy, tại sao ngươi không nói cho ta biết? Con gái của bạn ta cũng là con gái của ta." Rồi ông cho gọi cô gái đến và hỏi: "Con ơi, con là con gái của vị trưởng giả đó phải không?"
‘‘Āma, tātā’’ti.
"Yes, father."
"Vâng, thưa cha."
‘‘Tena hi mā cintayi, tvaṃ mama dhītāsī’’ti taṃ sīse cumbitvā parivāratthāya tassā pañca itthisatāni datvā taṃ attano jeṭṭhadhītuṭṭhāne ṭhapesi.
"Then do not worry; you are my daughter," he said, and having kissed her on the head, he gave her five hundred women to be her retinue and placed her in the position of his eldest daughter.
"Vậy thì đừng lo lắng, con là con gái của cha." Nói xong, ông hôn lên đầu cô, ban cho cô năm trăm phụ nữ để làm thị tỳ và đặt cô vào vị trí con gái lớn của mình.
Athekadivasaṃ tasmiṃ nagare nakkhattaṃ saṅghuṭṭhaṃ hoti.
Then one day, a festival was proclaimed in that city.
Đây là câu chuyện về sự ra đời của Sāmāvatī.
Tasmiṃ pana nakkhatte bahi anikkhamanakā kuladhītaropi attano parivārena saddhiṃ padasāva nadiṃ gantvā nhāyanti.
At that festival, even maidens of good families who did not usually go out, went to the river on foot with their retinue to bathe.
Một ngày nọ, một lễ hội được công bố trong thành phố đó. Trong lễ hội đó, ngay cả những cô gái gia đình không được phép ra ngoài cũng đi bộ đến sông cùng với đoàn tùy tùng của mình để tắm.
Tasmā taṃ divasaṃ sāmāvatīpi pañcahi itthisatehi parivāritā rājaṅgaṇeneva nhāyituṃ agamāsi.
Therefore, on that day, Sāmāvatī, surrounded by five hundred women, went to bathe directly through the royal courtyard.
Vì vậy, vào ngày hôm đó, Sāmāvatī, được năm trăm phụ nữ vây quanh, cũng đi qua sân hoàng gia để tắm.
Uteno sīhapañjare ṭhito taṃ disvā ‘‘kassimā nāṭakitthiyo’’ti pucchi.
Udena, standing at the lion-window, saw her and asked, "Whose dancing girls are these?"
Vua Udena đang đứng ở cửa sổ sư tử, nhìn thấy cô và hỏi: "Những nữ diễn viên này là của ai vậy?"
‘‘Na kassaci nāṭakitthiyo, devā’’ti.
"They are not anyone's dancing girls, Your Majesty."
"Thưa bệ hạ, họ không phải là nữ diễn viên của ai cả."
‘‘Atha kassa dhītaro’’ti?
"Then whose daughters are they?"
"Vậy thì họ là con gái của ai?"
‘‘Ghosakaseṭṭhino dhītā deva, sāmāvatī nāmesā’’ti.
"She is the daughter of the setthi Ghosaka, Your Majesty; her name is Sāmāvatī."
"Thưa bệ hạ, đó là con gái của trưởng giả Ghosaka, tên là Sāmāvatī."
So disvāva uppannasineho seṭṭhino sāsanaṃ pāhesi – ‘‘dhītaraṃ kira me pesetū’’ti.
He, having seen her and immediately conceived affection, sent a message to the setthi, saying, "Let him send his daughter to me."
Vua vừa nhìn thấy đã nảy sinh tình yêu, liền gửi lời nhắn đến vị trưởng giả: "Hãy gửi con gái ngươi cho ta."
‘‘Na pesemi, devā’’ti.
"I will not send her, Your Majesty."
"Thưa bệ hạ, tôi không gửi được ạ."
‘‘Mā kira evaṃ karotu, pesetuyevā’’ti.
"Please do not do that, just send her."
"Xin đừng làm như vậy, hãy gửi đi!"
‘‘Mayaṃ gahapatikā nāma kumārikānaṃ pothetvā viheṭhetvā kaḍḍhanabhayena na dema, devā’’ti.
"We householders, great king, do not give our daughters out of fear that they will be beaten, tormented, and dragged away."
"Thưa bệ hạ, chúng tôi là các gia chủ, chúng tôi không thể cho con gái vì sợ bị đánh đập, hành hạ và kéo đi."
Rājā kujjhitvā gehaṃ lañchāpetvā seṭṭhiñca bhariyañca hatthe gahetvā bahi kārāpesi.
The king, enraged, had the house sealed and, taking the merchant and his wife by the hands, had them put outside.
Vua nổi giận, cho niêm phong nhà và bắt giữ vị trưởng giả cùng vợ, rồi đưa họ ra ngoài.
Sāmāvatī, nhāyitvā āgantvā gehaṃ pavisituṃ okāsaṃ alabhantī, ‘‘kiṃ etaṃ, tātā’’ti pucchi.
Sāmāvatī, having bathed and returned, found no opportunity to enter the house, and asked, "What is this, father?"
Sāmāvatī, sau khi tắm xong, trở về nhưng không thể vào nhà, liền hỏi: "Cha ơi, chuyện gì vậy ạ?"
‘‘Amma, rājā tava kāraṇā pahiṇi.
"Daughter, the king sent a message because of you.
"Con ơi, nhà vua đã gửi lời đến vì con.
Atha ‘na mayaṃ dassāmā’ti vutte gharaṃ lañchāpetvā amhe bahi kārāpesī’’ti.
Then, when we said, 'We will not give her,' he had the house sealed and us put outside."
Khi chúng ta nói 'chúng tôi không cho', ngài đã cho niêm phong nhà và đưa chúng ta ra ngoài."
‘‘Tāta, bhāriyaṃ vo kammaṃ kataṃ, raññā nāma pahite ‘na, demā’ti avatvā ‘sace me dhītaraṃ saparivāraṃ gaṇhatha, demā’ti vattabbaṃ bhaveyya, tātā’’ti.
"Father, you have done a grave deed. When the king sends a message, one should not say, 'We will not give her,' but rather, 'If you take my daughter with her retinue, we will give her,' father."
"Cha ơi, cha đã làm một việc nghiêm trọng rồi. Khi nhà vua gửi lời đến, cha không nên nói 'chúng tôi không cho', mà nên nói 'nếu bệ hạ lấy con gái của tôi cùng với đoàn tùy tùng của nó, thì chúng tôi sẽ cho', cha ạ."
‘‘Sādhu, amma, tava ruciyā sati evaṃ karissāmī’’ti rañño tathā sāsanaṃ pāhesi.
"Very well, daughter, if it is your wish, I will do so," he said, and sent that message to the king.
"Được thôi con, nếu con muốn, cha sẽ làm như vậy." Rồi ông gửi lời nhắn như vậy đến nhà vua.
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā taṃ saparivāraṃ ānetvā abhisiñcitvā aggamahesiṭṭhāne ṭhapesi.
The king accepted, saying, "Very well," and having brought her with her retinue, he consecrated her and established her in the position of chief queen.
Vua chấp nhận lời đó, cho đưa cô cùng đoàn tùy tùng đến, làm lễ tấn phong và đặt cô vào vị trí hoàng hậu chính.
Sesā tassāyeva parivāritthiyo ahesuṃ.
The rest were her own attendant women.
Những phụ nữ còn lại trở thành thị tỳ của cô.
Ayaṃ sāmāvatiyā uppatti.
This is the origin of Sāmāvatī.
Đây là câu chuyện về sự ra đời của Sāmāvatī.
Utenassa pana aparāpi vāsuladattā nāma devī ahosi caṇḍapajjotassa dhītā.
Now, Utena also had another queen named Vāsuladattā, the daughter of Caṇḍapajjota.
Ngoài ra, vua Udena còn có một hoàng hậu khác tên là Vāsuladattā, con gái của vua Caṇḍapajjota.
Ujjeniyañhi caṇḍapajjoto nāma rājā ahosi.
Indeed, in Ujjenī there was a king named Caṇḍapajjota.
Vua Caṇḍapajjota là vị vua trị vì ở Ujjenī.
So ekadivasaṃ uyyānato āgacchanto attano sampattiṃ oloketvā, ‘‘atthi nu kho aññassapi kassaci evarūpā sampattī’’ti vatvā taṃ sutvā manussehi ‘‘kiṃ sampatti nāmesā, kosambiyaṃ utenassa rañño atimahatī sampatī’’ti vutte rājā āha – ‘‘tena hi gaṇhissāma na’’nti?
One day, returning from the park, he surveyed his own prosperity and said, "Does anyone else have such prosperity?" When his men heard this and replied, "What is this prosperity? The prosperity of King Utena in Kosambī is exceedingly great," the king said, "Then we will capture him, won't we?"
Một ngày nọ, khi trở về từ vườn thượng uyển, ông nhìn thấy sự giàu có của mình và tự hỏi: "Liệu có ai khác cũng có được sự giàu có như thế này không?" Khi nghe những người hầu nói: "Sự giàu có này là gì chứ? Sự giàu có của vua Udena ở Kosambī là vô cùng lớn lao!", nhà vua liền nói: "Vậy thì chúng ta hãy bắt ông ta!"
‘‘Na sakkā so gahetu’’nti.
"He cannot be captured."
"Không thể bắt được ông ta đâu ạ."
‘‘Kiñci katvā gaṇhissāmayevā’’ti?
"We will capture him by any means!"
"Chúng ta sẽ làm gì đó để bắt được ông ta!"
‘‘Na sakkā devā’’ti.
"It is not possible, great king."
"Không thể được đâu, thưa bệ hạ."
‘‘Kiṃ kāraṇā’’ti?
"For what reason?"
"Tại sao vậy?"
‘‘So hatthikantaṃ nāma sippaṃ jānāti, mantaṃ parivattetvā hatthikantavīṇaṃ vādento nāge palāpetipi gaṇhātipi.
"He knows the art called 'elephant-charming.' By reciting a mantra and playing the elephant-charming lute, he can make elephants flee or capture them.
"Ông ta biết một kỹ năng tên là 'điều khiển voi'. Ông ta niệm chú và chơi đàn hạc điều khiển voi, có thể khiến voi bỏ chạy hoặc bắt giữ chúng.
Hatthivāhanasampanno tena sadiso nāma natthī’’ti.
There is no one like him in terms of elephant-riding prowess."
Không ai sánh bằng ông ta về việc điều khiển voi."
‘‘Na sakkā mayā so gahetu’’nti.
"I cannot capture him?"
"Vậy thì ta không thể bắt được ông ta sao?"
‘‘Sace te, deva, ekantena ayaṃ nicchayo, tena hi dāruhatthiṃ kāretvā tassāsannaṭṭhānaṃ pesehi.
"If, great king, this is your firm resolve, then have a wooden elephant made and sent to a place near his territory.
"Thưa bệ hạ, nếu ngài kiên quyết muốn bắt ông ta, vậy thì hãy cho làm một con voi gỗ và gửi nó đến gần nơi ông ta ở.
So hatthivāhanaṃ vā assavāhanaṃ vā sutvā dūrampi gacchati.
He travels far, hearing about elephant-riding or horse-riding.
Ông ta, khi nghe tiếng voi hoặc ngựa, sẽ đi xa đến đâu cũng được."
Tattha naṃ āgataṃ gahetuṃ sakkā bhavissatī’’ti.
There, it will be possible to capture him when he arrives."
Ở đó, có thể bắt được ông ấy.”
Rājā ‘‘attheso upāyo’’ti dārumayaṃ yantahatthiṃ kārāpetvā bahi pilotikāhi veṭhetvā katacittakammaṃ katvā tassa vijite āsannaṭṭhāne ekasmiṃ saratīre vissajjāpesi.
The king, thinking, "This is a good stratagem," had a mechanical wooden elephant made, wrapped it outside with cloths, decorated it with paintings, and released it by the bank of a certain lake near Utena's domain.
Vua (Caṇḍapajjota) nói: “Đây là một kế sách!” rồi cho làm một con voi máy bằng gỗ, bên ngoài quấn vải cũ, vẽ tranh lên đó, rồi thả nó ở một bờ hồ gần vương quốc của vua Utena.
Hatthino antokucchiyaṃ saṭṭhi purisā aparāparaṃ caṅkamanti, hatthilaṇḍaṃ āharitvā tattha tattha chaḍḍesuṃ.
Sixty men walked back and forth inside the elephant's belly, bringing elephant dung and scattering it here and there.
Sáu mươi người đàn ông đi đi lại lại bên trong bụng voi, mang phân voi ra và rải khắp nơi.
Eko vanacarako hatthiṃ disvā, ‘‘amhākaṃ rañño anucchaviko’’ti cintetvā, gantvā rañño ārocesi – ‘‘deva, mayā sabbaseto kelāsakūṭapaṭibhāgo tumhākaññeva anucchaviko varavāraṇo diṭṭho’’ti.
A forest-dweller, seeing the elephant, thought, "This is suitable for our king," and went to the king, reporting, "Your Majesty, I have seen a magnificent elephant, pure white and resembling Mount Kelāsa, truly fit only for Your Majesty."
Một người sống trong rừng thấy con voi, nghĩ: “Con voi này phù hợp với vua của chúng ta,” rồi đi đến báo cho vua Utena: “Đại vương, tôi đã thấy một con voi tốt nhất, toàn thân trắng như đỉnh núi Kailāsa, rất phù hợp với bệ hạ.”
Uteno tameva maggadesakaṃ katvā hatthiṃ abhiruyha saparivāro nikkhami.
So Utena, taking that very forest-dweller as a guide, mounted an elephant and set forth with his retinue.
Vua Utena lấy người đi rừng đó làm người dẫn đường, cưỡi voi cùng tùy tùng khởi hành.
Tassa āgamanaṃ ñatvā carapurisā gantvā caṇḍapajjotassa ārocesuṃ.
Upon learning of his arrival, the spies went and informed Caṇḍapajjota.
Biết được sự đến của ông ấy, những người do thám đi báo cho vua Caṇḍapajjota.
So āgantvā majjhe tucchaṃ katvā ubhosu passesu balakāyaṃ payojesi.
He came, made the middle empty, and deployed his army on both sides.
Vua Caṇḍapajjota đến, để trống ở giữa, bố trí quân đội hai bên.
Uteno tassāgamanaṃ ajānanto hatthiṃ anubandhi.
Utena, not knowing of his arrival, pursued the elephant.
Vua Utena không biết sự đến của ông ấy, liền đuổi theo con voi.
Anto ṭhitamanussā vegena palāpesuṃ.
The people inside fled swiftly.
Những người ở trong (voi) vội vàng cho voi chạy.
Kaṭṭhahatthī rañño mantaṃ parivattetvā vīṇaṃ vādentassa tantisaddaṃ asuṇanto viya palāyatiyeva.
The wooden elephant, as if not hearing the sound of the strings from the one playing the lute after the king chanted the mantra, kept fleeing.
Con voi gỗ cứ chạy như thể không nghe thấy tiếng dây đàn của nhà vua đang niệm thần chú và chơi đàn vīṇā.
Rājā hatthināgaṃ pāpuṇituṃ asakkonto assaṃ āruyha anubandhi.
The king, unable to reach the elephant, mounted a horse and pursued it.
Vua Utena không thể bắt kịp con voi chúa, liền cưỡi ngựa đuổi theo.
Tasmiṃ vegena anubandhante balakāyo ohīyi.
As he pursued swiftly, his army lagged behind.
Trong khi ông ấy đuổi theo với tốc độ nhanh, quân đội bị bỏ lại phía sau.
Rājā ekakova ahosi.
The king was alone.
Vua Utena chỉ còn một mình.
Atha naṃ ubhosu passesu payuttā caṇḍapajjotassa purisā gaṇhitvā attano rañño adaṃsu.
Then Caṇḍapajjota's men, who had been stationed on both sides, captured him and handed him over to their king.
Lúc đó, những người của vua Caṇḍapajjota đã bố trí hai bên bắt lấy ông ấy và giao cho vua của họ.
Athassa balakāyo amittavasaṃ gatabhāvaṃ ñatvā bahinagareva khandhāvāraṃ nivesetvā acchi.
Then, knowing that his army had fallen into the enemy's hands, he encamped just outside the city and remained there.
Sau đó, quân đội của ông ấy biết được ông ấy đã rơi vào tay kẻ thù, liền đóng quân bên ngoài thành phố và ở lại đó.
Caṇḍapajjotopi utenaṃ jīvaggāhameva gāhāpetvā ekasmiṃ coragehe pakkhipitvā dvāraṃ pidahāpetvā tayo divase jayapānaṃ pivi.
Caṇḍapajjota also had Utena captured alive, confined him in a prison for thieves, and had the door shut, then drank a victory celebration for three days.
Vua Caṇḍapajjota cũng cho bắt sống vua Utena, nhốt vào một nhà tù dành cho kẻ trộm, đóng cửa lại, và uống rượu mừng chiến thắng trong ba ngày.
Uteno tatiyadivase ārakkhake pucchi – ‘‘kahaṃ vo, tāta, rājā’’ti?
On the third day, Utena asked the guards, "Where is your king, my friends?"
Đến ngày thứ ba, vua Utena hỏi những người canh gác: “Này các con, vua của các con ở đâu?”
‘‘‘Paccāmitto me gahito’ti jayapānaṃ pivatī’’ti.
"He is drinking a victory celebration, thinking, 'My enemy is captured.'"
Họ đáp: “Ông ấy đang uống rượu mừng chiến thắng vì ‘kẻ thù của ta đã bị bắt’.”
‘‘Kā nāmesā mātugāmassa viya tumhākaṃ rañño kiriyā, nanu paṭirājūnaṃ gahetvā vissajjetuṃ vā māretuṃ vā vaṭṭati, amhe dukkhaṃ nisīdāpetvā jayapānaṃ kira pivatī’’ti.
"What kind of act is this for your king, like that of a woman? Is it not proper to either release or kill rival kings after capturing them? He sits us in distress and drinks a victory celebration, so I hear!"
Vua Utena nói: “Hành động của vua các người giống như hành động của phụ nữ vậy, sao lại không thả hoặc giết các vị vua đối địch sau khi bắt được? Lại còn để chúng ta ngồi chịu khổ mà uống rượu mừng chiến thắng!”
Te gantvā tamatthaṃ rañño ārocesuṃ.
They went and reported that matter to the king.
Họ đi báo lại chuyện đó cho nhà vua.
So āgantvā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ evaṃ vadasī’’ti pucchi.
He came and asked, "Is it true that you say such a thing?"
Vua Caṇḍapajjota đến hỏi: “Thật sự ngươi nói như vậy sao?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
"Yes, great king."
“Vâng, đại vương.”
‘‘Sādhu taṃ vissajjessāmi, evarūpo kira te manto atthi, taṃ mayhaṃ dassasī’’ti.
"Very well, I shall release you. I hear you have such a mantra; will you give it to me?"
“Tốt, ta sẽ thả ngươi, nhưng nghe nói ngươi có một câu thần chú như vậy, hãy dạy nó cho ta.”
‘‘Sādhu dassāmi, gahaṇasamaye maṃ vanditvā taṃ gaṇhāhi.
"Very well, I will give it. When you learn it, bow to me and take it.
“Được thôi, tôi sẽ dạy. Khi học, hãy lạy tôi rồi học. Nhưng ngài có lạy tôi không?”
Kiṃ pana tvaṃ vandissasī’’ti?
But will you bow to me?"
Ngươi sẽ đảnh lễ ta sao?"
‘‘Kyāhaṃ taṃ vandissāmi, na vandissāmī’’ti?
"Why should I bow to you? I will not bow!"
“Sao ta phải lạy ngươi? Ta sẽ không lạy.”
‘‘Ahampi te na dassāmī’’ti.
"Then I will not give it to you either."
“Vậy thì tôi cũng sẽ không dạy cho ngài.”
‘‘Evaṃ sante rājāṇaṃ te karissāmī’’ti.
"If that is the case, I will impose a royal decree upon you!"
“Nếu vậy, ta sẽ dùng quyền lực vua chúa với ngươi.”
‘‘Karohi, sarīrassa me issaro, na pana cittassā’’ti.
"Do so. You are the master of my body, but not of my mind."
“Cứ làm đi, ngài là chủ thân xác tôi, nhưng không phải chủ tâm trí tôi.”
Rājā tassa sūragajjitaṃ sutvā, ‘‘kathaṃ nu kho imaṃ mantaṃ gaṇhissāmī’’ti cintetvā, ‘‘imaṃ mantaṃ aññaṃ jānāpetuṃ na sakkā, mama dhītaraṃ etassa santike uggaṇhāpetvā ahaṃ tassā santike gaṇhissāmī’’ti.
Hearing his brave roar, the king thought, "How can I obtain this mantra?" and then, "This mantra cannot be taught to anyone else. I will have my daughter learn it from him, and then I will learn it from her."
Vua Caṇḍapajjota nghe lời nói dũng mãnh của ông ấy, suy nghĩ: “Làm sao mình có thể học được câu thần chú này đây?” rồi nghĩ: “Không thể để người khác biết câu thần chú này. Mình sẽ cho con gái mình học từ ông ấy, rồi mình sẽ học từ con gái mình.”
Atha naṃ āha – ‘‘aññassa vanditvā gaṇhantassa dassasī’’ti.
Then he said to him, "Will you give it to one who bows and takes it?"
Sau đó, ông ấy hỏi vua Utena: “Ngươi sẽ dạy cho người khác lạy ngươi rồi học sao?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
"Yes, great king."
“Vâng, đại vương.”
‘‘Tena hi amhākaṃ ghare ekā khujjā atthi tassā antosāṇiyaṃ vanditvā nisinnāya tvaṃ bahisāṇiyaṃ ṭhitova mantaṃ vācehī’’ti.
"In that case, we have a hunchback woman in our house. You, standing outside the curtain, should teach the mantra to her while she sits bowing inside the curtain."
“Vậy thì, trong nhà ta có một người phụ nữ lưng gù. Ngươi hãy đứng bên ngoài tấm màn, rồi dạy câu thần chú cho cô ấy khi cô ấy ngồi bên trong tấm màn và lạy ngươi.”
‘‘Sādhu, mahārāja, khujjā vā hotu pīṭhasappi vā, vandantiyā dassāmī’’ti.
"Very well, great king. Let her be a hunchback or a cripple, I will give it to one who bows."
“Được thôi, đại vương. Dù là người lưng gù hay người tàn tật, tôi sẽ dạy cho người nào lạy tôi.”
Tato rājā gantvā dhītaraṃ vāsuladattaṃ āha – ‘‘amma, eko saṅkhakuṭṭhī anagghamantaṃ jānāti, taṃ aññaṃ jānāpetuṃ na sakkā.
Then the king went and said to his daughter, Vāsuladattā, "Daughter, a man with a conch-leprosy knows an invaluable mantra. It cannot be taught to anyone else.
Sau đó, nhà vua đi đến nói với con gái mình là Vāsuladattā: “Này con, có một người bị bệnh phong hủi vỏ ốc biết một câu thần chú vô giá, không thể dạy cho người khác biết được.
Tvaṃ antosāṇiyaṃ nisīditvā taṃ vanditvā mantaṃ gaṇha, so bahisāṇiyaṃ ṭhatvā tuyhaṃ vācessati.
You sit inside the curtain, bow to him, and learn the mantra. He will stand outside the curtain and recite it to you.
Con hãy ngồi bên trong tấm màn, lạy ông ấy rồi học câu thần chú. Ông ấy sẽ đứng bên ngoài tấm màn và dạy cho con.
Tava santikā ahaṃ taṃ gaṇhissāmī’’ti.
I will learn it from you."
Cha sẽ học từ con.”
Evaṃ so tesaṃ aññamaññaṃ santhavakaraṇabhayena dhītaraṃ khujjaṃ, itaraṃ saṅkhakuṭṭhiṃ katvā kathesi.
Thus, fearing their mutual intimacy, he misrepresented his daughter as a hunchback and the other as a conch-leper.
Như vậy, để tránh việc họ kết giao với nhau, vua Caṇḍapajjota đã nói dối rằng con gái mình là người lưng gù và người kia là người bị bệnh phong hủi vỏ ốc.
So tassā antosāṇiyaṃ vanditvā nisinnāya bahi ṭhito mantaṃ vācesi.
So he stood outside and recited the mantra to her while she sat bowing inside the curtain.
Vua Utena đứng bên ngoài tấm màn, dạy câu thần chú cho cô ấy khi cô ấy ngồi bên trong tấm màn và lạy ông ấy.
Atha naṃ ekadivasaṃ punappunaṃ vuccamānampi mantapadaṃ vattuṃ asakkontiṃ ‘‘are khujje atibahaloṭṭhakapolaṃ te mukhaṃ, evaṃ nāma vadehī’’ti āha.
Then one day, as she was unable to repeat a mantra phrase despite being told it repeatedly, he said, "Hey, hunchback, your mouth has excessively thick lips and cheeks; speak it thus!"
Một ngày nọ, khi cô ấy không thể phát âm một từ thần chú dù đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, ông ấy nói: “Này cô gù, miệng cô có môi và má quá dày, hãy phát âm như thế này!”
‘‘Sā kujjhitvā are duṭṭhasaṅkhakuṭṭhi kiṃ vadesi, kiṃ mādisā khujjā nāma hotī’’ti?
She became angry and retorted, "Hey, wretched conch-leper, what are you saying? How can one like me be a hunchback?"
Cô ấy tức giận nói: “Này tên phong hủi vỏ ốc đáng ghét, ngươi nói gì vậy? Sao một công chúa như ta lại là người lưng gù?”
Sāṇikaṇṇaṃ ukkhipitvā ‘‘kāsi tva’’nti vutte, ‘‘rañño dhītā vāsuladattā nāmāha’’nti āha.
Lifting the edge of the curtain, and being asked, "Who are you?" she replied, "I am Vāsuladattā, the king's daughter."
Khi cô ấy vén mép tấm màn lên và được hỏi: “Ngươi là ai?”, cô ấy đáp: “Tôi là Vāsuladattā, con gái của nhà vua.”
‘‘Pitā te taṃ mayhaṃ kathento ‘khujjā’ti kathesī’’ti.
"Your father, when speaking of you to me, referred to you as a 'hunchback'."
“Cha cô khi nói về cô với tôi đã nói ‘người lưng gù’.”
‘‘Mayhampi kathento taṃ saṅkhakuṭṭhiṃ katvā kathesī’’ti.
"And when he spoke of you to me, he referred to you as a 'conch-leper'."
“Khi nói về ông với tôi, cha tôi cũng nói ông là người bị bệnh phong hủi vỏ ốc.”
Te ubhopi ‘‘tena hi amhākaṃ santhavakaraṇabhayena kathitaṃ bhavissatī’’ti antosāṇiyaññeva santhavaṃ kariṃsu.
Both of them concluded, "Then he must have said that out of fear of our intimacy," and became intimate within the curtain itself.
Cả hai đều nghĩ: “Vậy thì, chắc là ông ấy nói dối vì sợ chúng ta kết giao với nhau,” và họ đã kết giao với nhau ngay bên trong tấm màn.
Tato paṭṭhāya mantaggahaṇaṃ vā sippaggahaṇaṃ vā natthi.
From that time onwards, there was no learning of mantras or arts.
Từ đó trở đi, không còn việc học thần chú hay học nghệ thuật nữa.
Rājāpi dhītaraṃ niccaṃ pucchati – ‘‘sippaṃ gaṇhasi, ammā’’ti?
The king also constantly asked his daughter, "Are you learning the art, my dear?"
Vua (Caṇḍapajjota) cũng thường xuyên hỏi con gái: “Này con, con có học nghệ thuật không?”
‘‘Gaṇhāmi, tātā’’ti.
"I am learning it, father."
“Con có học, thưa cha.”
Atha naṃ ekadivasaṃ uteno āha – ‘‘bhadde, sāmikena kattabbaṃ nāma neva mātāpitaro na bhātubhaginiyo kātuṃ sakkonti, sace mayhaṃ jīvitaṃ dassasi, pañca te itthisatāni parivāraṃ datvā aggamahesiṭṭhānaṃ dassāmī’’ti.
Then one day, Utena said to her, "My dear, neither parents nor siblings can perform the duties that a husband must perform. If you grant me my life, I will give you five hundred women as attendants and grant you the position of chief queen."
Một ngày nọ, vua Utena nói với cô ấy: “Này cô gái tốt, những việc mà người chồng phải làm thì cha mẹ hay anh chị em không thể làm được. Nếu cô cứu mạng tôi, tôi sẽ ban cho cô năm trăm người hầu và địa vị hoàng hậu.”
‘‘Sace imasmiṃ vacane patiṭṭhātuṃ sakkhissatha, dassāmi vo jīvita’’nti.
"If you can stand by this promise, I will grant you your life."
Cô ấy đáp: “Nếu ngài có thể giữ lời hứa này, tôi sẽ cứu mạng ngài.”
‘‘Sakkhissāmi, bhadde’’ti.
"I can, my dear."
“Tôi có thể làm được, này cô gái tốt,” ông ấy nói.
Sā ‘‘sādhu, sāmī’’ti pitu santikaṃ gantvā vanditvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
She said, "Very well, my lord," went to her father, bowed, and stood aside.
Cô ấy nói: “Vâng, thưa ngài,” rồi đi đến chỗ cha, lạy cha và đứng sang một bên.
Atha naṃ so pucchi – ‘‘amma, niṭṭhitaṃ sippa’’nti?
Then he asked her, "Daughter, is the art complete?"
Lúc đó, ông ấy hỏi cô: “Này con, nghệ thuật đã xong chưa?”
‘‘Na tāva niṭṭhitaṃ, tāta, sippa’’nti.
"The art is not yet complete, father."
“Chưa xong, thưa cha.”
Atha naṃ so pucchi – ‘‘kiṃ, ammā’’ti?
Then he asked her, "What is it, daughter?"
Lúc đó, ông ấy hỏi cô: “Tại sao vậy, con?”
‘‘Amhākaṃ ekaṃ dvārañca ekaṃ vāhanañca laddhuṃ vaṭṭati, tātā’’ti.
"Father, it is fitting for us to obtain one gate and one vehicle."
“Thưa cha, chúng con cần có một cánh cửa và một phương tiện di chuyển.”
‘‘Idaṃ kiṃ, ammā’’ti?
"What is this, daughter?"
“Cái này để làm gì, con?”
‘‘Tāta, rattiṃ kira tārakasaññāya mantassa upacāratthāya ekaṃ osadhaṃ gahetabbaṃ atthi.
"Father, at night, it is said there is a certain medicine to be taken for the purpose of the mantra's practice, by the sign of the stars.
“Thưa cha, nghe nói vào ban đêm, để thực hành thần chú theo dấu hiệu của các vì sao, cần phải lấy một loại thuốc.
Tasmā amhākaṃ velāya vā avelāya vā nikkhamanakāle ekaṃ dvārañceva ekaṃ vāhanañca laddhuṃ vaṭṭatī’’ti.
Therefore, it is fitting for us to obtain one gate and one vehicle for our departure, whether at the proper time or not."
Vì vậy, chúng con cần có một cánh cửa và một phương tiện di chuyển để có thể ra vào đúng lúc hoặc không đúng lúc.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
The king consented, saying, "Very well."
Vua (Caṇḍapajjota) chấp thuận: “Được thôi.”
Te attano abhirucitaṃ ekaṃ dvāraṃ hatthagataṃ kariṃsu.
They secured one gate of their choice.
Họ đã có được một cánh cửa mà họ mong muốn.
Rañño pana pañca vāhanāni ahesuṃ.
The king had five vehicles:
Vua (Caṇḍapajjota) có năm phương tiện di chuyển:
Bhaddavatī nāma kareṇukā ekadivasaṃ paññāsa yojanāni gacchati, kāko nāma dāso saṭṭhi yojanāni gacchati, celakaṭṭhi ca muñcakesī cāti dve assā yojanasataṃ gacchanti, nāḷāgiri hatthī vīsati yojanasatanti.
The female elephant named Bhaddavatī could travel fifty leagues in a day; the slave named Kāka could travel sixty leagues; the two horses, Celakaṭṭhī and Muñcakesī, could travel one hundred leagues; and the elephant Nāḷāgiri could travel one hundred and twenty leagues.
Con voi cái tên Bhaddavatī đi được năm mươi dojana trong một ngày, người nô lệ tên Kāka đi được sáu mươi dojana, hai con ngựa Celakaṭṭhi và Muñcakesī đi được một trăm dojana, và con voi Nāḷāgiri đi được một trăm hai mươi dojana.
So kira rājā anuppanne buddhe ekassa issarassa upaṭṭhāko ahosi.
It is said that this king was once a servant of a certain lord before the Buddha appeared.
Nghe nói, vị vua đó (Caṇḍapajjota) trước khi Đức Phật xuất hiện, là người hầu của một vị quan.
Athekadivasaṃ issare bahinagaraṃ gantvā nhatvā āgacchante eko paccekabuddho nagaraṃ piṇḍāya pavisitvā sakalanagaravāsīnaṃ mārena āvaṭṭitattā ekaṃ bhikkhāmpi alabhitvā yathādhotena pattena nikkhami.
Then one day, as the lord was returning after bathing outside the city, a Paccekabuddha entered the city for alms, and because all the city-dwellers had been swayed by Māra, he received not even a spoonful of alms and departed with his bowl as clean as it was.
Một ngày nọ, khi vị quan đó đi ra ngoài thành phố tắm rửa rồi trở về, một vị Độc Giác Phật vào thành khất thực, nhưng vì tất cả cư dân thành phố đã bị Māra lừa dối, nên không nhận được một bát cơm nào, Ngài liền ra đi với bát rỗng.
Atha naṃ nagaradvāraṃ pattakāle māro aññātakavesena upasaṅkamitvā, ‘‘api, bhante, vo kiñci laddha’’nti pucchi.
Then, when he reached the city gate, Māra approached him in a disguised form and asked, "Venerable sir, have you received anything?"
Lúc đó, khi Ngài đến cổng thành, Māra hiện ra dưới hình dạng một người lạ, hỏi: “Bạch Thế Tôn, Ngài có nhận được gì không?”
‘‘Kiṃ pana me tvaṃ alabhanākāraṃ karī’’ti?
"But why did you cause me not to receive anything?"
“Tại sao ngươi lại khiến ta không nhận được gì?”
‘‘Tena hi nivattitvā puna pavisatha, idāni na karissāmī’’ti.
"Then turn back and enter again; I will not do it now."
“Vậy thì, xin Ngài hãy quay lại và vào lại, bây giờ tôi sẽ không làm gì nữa.”
‘‘Nāhaṃ puna nivattissāmī’’ti.
"I will not turn back," he said.
“Ta sẽ không quay lại,” Ngài nói.
Sace hi nivatteyya, puna so sakalanagaravāsīnaṃ sarīre adhimuñcitvā pāṇiṃ paharitvā hasanakeḷiṃ kareyya.
For if he were to turn back, Māra would again possess the bodies of all the city-dwellers, clap his hands, and mock him.
Thật vậy, nếu Ngài quay lại, Māra sẽ nhập vào thân thể tất cả cư dân thành phố, vỗ tay và chế nhạo Ngài.
Paccekabuddhe anivattitvā gate māro tattheva antaradhāyi.
When the Paccekabuddha went without turning back, Māra vanished right there.
Khi vị Độc Giác Phật không quay lại mà đi, Māra liền biến mất ngay tại đó.
Atha so issaro yathādhoteneva pattena āgacchantaṃ paccekabuddhaṃ disvā vanditvā, ‘‘api, bhante, kiñci laddha’’nti pucchi.
Then that official, seeing the Paccekabuddha returning with his bowl just as it had been washed, bowed to him and asked, "Has anything been obtained, Venerable Sir?"
Lúc đó, vị quan đó thấy vị Độc Giác Phật trở về với bát rỗng, liền lạy Ngài và hỏi: “Bạch Thế Tôn, Ngài có nhận được gì không?”
‘‘Caritvā nikkhantamhāvuso’’ti.
"I have wandered and come out, friend," he replied.
“Này hiền hữu, chúng tôi đã đi khất thực rồi ra về,” Ngài nói.
So cintesi – ‘‘ayyo, mayā pucchitaṃ akathetvā aññaṃ vadati, na kiñci laddhaṃ bhavissatī’’ti.
The official thought, "The Venerable One speaks of something else without answering my question; he must not have obtained anything."
Ông ấy nghĩ: “Thưa Tôn giả, Ngài không trả lời điều con hỏi mà lại nói chuyện khác, chắc là Ngài chưa nhận được gì cả.”
Athassa pattaṃ olokento tucchaṃ disvā gehe bhattassa niṭṭhitāniṭṭhitabhāvaṃ ajānanatāya sūro hutvā pattaṃ gahetuṃ avisahanto ‘‘thokaṃ, bhante, adhivāsethā’’ti vatvā vegena gharaṃ gantvā ‘‘amhākaṃ bhattaṃ niṭṭhita’’nti pucchitvā, ‘‘niṭṭhita’’nti vutte taṃ upaṭṭhākaṃ āha – ‘‘tāta, añño tayā sampannavegataro nāma natthi, sīghena javena bhadantaṃ patvā ‘pattaṃ me, bhante, dethā’ti vatvā pattaṃ gahetvā vegena ehī’’ti.
Then, looking into his bowl and seeing it empty, and not knowing whether the meal at his house was ready or not, he boldly, yet hesitating to take the bowl, said, "Venerable Sir, please wait a little," and quickly went home. After asking, "Is our meal ready?" and being told, "It is ready," he told his attendant, "My boy, there is no one swifter than you. Go quickly to the Venerable One, say 'Venerable Sir, please give me the bowl,' take the bowl, and return quickly."
Khi nhìn thấy bát của Tôn giả trống rỗng, vì không biết bữa ăn ở nhà đã xong hay chưa, ông ta trở nên dũng cảm, không dám tự mình lấy bát, bèn nói: “Bạch Tôn giả, xin Ngài hãy chờ một chút!” Rồi ông ta vội vàng về nhà hỏi: “Bữa ăn của chúng ta đã xong chưa?” Khi được trả lời “Đã xong rồi,” ông ta nói với người hầu: “Này con, không ai nhanh nhẹn bằng con đâu, hãy nhanh chóng đến chỗ Tôn giả, thưa ‘Bạch Tôn giả, xin Ngài cho con cái bát,’ rồi lấy bát và nhanh chóng quay về đây!”
So ekavacaneneva pakkhanditvā pattaṃ gahetvā āhari.
With just that one word, the attendant rushed forth, took the bowl, and brought it back.
Người hầu đó chỉ nghe một lời liền chạy đi, lấy bát và mang về.
Issaropi attano bhojanassa pattaṃ pūretvā ‘‘imaṃ sīghaṃ gantvā ayyassa sampādehi, ahaṃ te ito pattiṃ dammī’’ti āha.
The official also filled his own meal bowl and said, "Go quickly and deliver this to the Venerable One. I will give you a share of the merit from this."
Vị quan cũng đổ đầy bát cơm của mình và nói: “Hãy nhanh chóng mang cái này đến dâng cho Tôn giả, ta sẽ chia phần công đức này cho con.”
Anumodanaṃ akāsi.
He gave his anumodanā.
Ngài đã ban lời tùy hỷ.
Paccekabuddhānaṃ kira idhāva dve gāthā anumodanagāthā nāma honti.
It is said that for Paccekabuddhas, these two verses are indeed the verses of anumodanā.
Được biết, hai bài kệ này là những bài kệ tùy hỷ của các vị Độc Giác Phật ở đây.
Tattha jotirasoti sabbakāmadadaṃ maṇiratanaṃ vuccati.
Here, jotiraso refers to a wish-fulfilling gem.
Trong đó, jotiraso có nghĩa là viên ngọc báu ban mọi điều ước.
Idaṃ tassa pubbacaritaṃ.
This was his past deed.
Đây là hành vi trong quá khứ của ông ta.
So etarahi caṇḍapajjoto ahosi.
He was now King Caṇḍapajjota.
Lúc bấy giờ, ông ta là Caṇḍapajjota.
Tassa ca kammassa nissandena imāni pañca vāhanāni nibbattiṃsu.
And by the consequence of that kamma, these five conveyances arose.
Do quả báo của nghiệp đó, năm phương tiện đi lại này đã phát sinh cho ông.
Athekadivasaṃ rājā uyyānakīḷāya nikkhami.
Then one day, the king went out for a pleasure trip in the garden.
Rồi một ngày nọ, nhà vua đi chơi vườn.
Uteno ‘‘ajja palāyitabba’’nti mahantāmahante cammapasibbake hiraññasuvaṇṇassa pūretvā kareṇukāpiṭṭhe ṭhapetvā vāsuladattaṃ ādāya palāyi.
Utena thought, ‘‘Today I must flee,’’ and filling large and small leather bags with silver and gold, he placed them on the back of a female elephant and fled, taking Vāsuladattā with him.
Utena nghĩ: “Hôm nay phải trốn thoát,” bèn chất đầy vàng bạc vào các túi da lớn nhỏ, đặt lên lưng voi cái, rồi mang theo Vāsuladattā mà chạy trốn.
Antepurapālakā palāyantaṃ taṃ disvā gantvā rañño ārocesuṃ.
The palace guards, seeing him flee, went and reported it to the king.
Các lính gác nội cung thấy ông ta chạy trốn liền đi báo cho nhà vua.
Rājā ‘‘sīghaṃ gacchathā’’ti balaṃ pahiṇi.
The king dispatched his army, saying, ‘‘Go quickly!’’
Nhà vua phái quân lính đi, nói: “Hãy đi nhanh lên!”
Uteno balassa pakkhandabhāvaṃ ñatvā kahāpaṇapasibbakaṃ mocetvā pātesi, manussā kahāpaṇe uccinitvā puna pakkhandiṃsu.
Utena, knowing that the army was pursuing him, untied a bag of kahāpaṇas and dropped it. The men collected the kahāpaṇas and then resumed their pursuit.
Utena biết quân lính đang đuổi theo, bèn tháo túi tiền xu ra và ném xuống; mọi người nhặt tiền xu rồi lại tiếp tục đuổi theo.
Itaro suvaṇṇapasibbakaṃ mocetvā pātetvā nesaṃ suvaṇṇalobhena papañcentānaññeva bahi nivuṭṭhaṃ attano khandhāvāraṃ pāpuṇi.
The other (Utena) untied a bag of gold and dropped it, and while they were delayed by their greed for gold, he reached his own camp stationed outside the city.
Ông ta lại tháo túi vàng ra và ném xuống, và trong khi họ còn đang mãi mê vì lòng tham vàng, ông ta đã đến được doanh trại của mình đang đóng bên ngoài thành phố.
Atha naṃ āgacchantaṃ disvāva attano balakāyo parivāretvā nagaraṃ pavesesi.
Then, seeing him return, his army surrounded him and led him into the city.
Khi thấy ông ta trở về, quân đội của ông ta liền vây quanh và đưa ông ta vào thành.
So patvāva vāsuladattaṃ abhisiñcitvā aggamahesiṭṭhāne ṭhapesīti.
Upon arrival, he immediately consecrated Vāsuladattā and appointed her as his chief queen.
Vừa đến nơi, ông ta liền làm lễ quán đảnh cho Vāsuladattā và phong bà làm hoàng hậu.
Ayaṃ vāsuladattāya uppatti.
This is the origin of Vāsuladattā.
Đây là câu chuyện về Vāsuladattā.
Aparā pana māgaṇḍiyā nāma rañño santikā aggamahesiṭṭhānaṃ labhi.
Another queen, Māgaṇḍiyā by name, obtained the position of chief queen from the king.
Còn một người khác tên là Māgaṇḍiyā đã nhận được vị trí hoàng hậu từ nhà vua.
Sā kira kururaṭṭhe māgaṇḍiyabrāhmaṇassa dhītā.
She was the daughter of the brahmin Māgaṇḍiya in the Kuru country.
Được biết, bà là con gái của vị Bà-la-môn Māgaṇḍiya ở xứ Kuru.
Mātāpissā māgaṇḍiyāyeva nāmaṃ.
Her mother was also named Māgaṇḍiyā.
Mẹ của bà cũng tên là Māgaṇḍiyā.
Cūḷapitāpissā māgaṇḍiyova, sā abhirūpā ahosi devaccharapaṭibhāgā.
Her paternal uncle was also Māgaṇḍiya, and she was beautiful, like a celestial nymph.
Chú của bà cũng là Māgaṇḍiya, bà rất xinh đẹp, giống như một vị thần nữ.
Pitā panassā anucchavikaṃ sāmikaṃ alabhanto mahantehi mahantehi kulehi yācitopi ‘‘na mayhaṃ dhītu tumhe anucchavikā’’ti tajjetvā uyyojesi.
Her father, unable to find a suitable husband for her, even when great families sought her hand, would scold them, saying, ‘‘You are not suitable for my daughter,’’ and send them away.
Cha của bà, vì không tìm được người chồng xứng đáng cho con gái mình, dù được các gia đình quyền quý cầu hôn, nhưng ông ta đều mắng mỏ và từ chối, nói: “Các ông không xứng đáng với con gái của ta.”
Athekadivasaṃ satthā paccūsasamaye lokaṃ volokento māgaṇḍiyabrāhmaṇassa sapajāpatikassa anāgāmiphalūpanissayaṃ disvā attano pattacīvaramādāya tassa bahinigame aggiparicaraṇaṭṭhānaṃ agamāsi.
Then one day, the Teacher, surveying the world at dawn, saw the strong supporting condition for the fruit of non-returning (anāgāmi-phala) in the brahmin Māgaṇḍiya and his wife. He took his bowl and robe and went to the place of fire-worship outside their village.
Rồi một ngày nọ, vào lúc bình minh, Đức Thế Tôn quán sát thế gian, thấy được nhân duyên chứng đắc quả Bất Hoàn của vị Bà-la-môn Māgaṇḍiya cùng vợ, bèn mang y bát của mình đến nơi thờ lửa bên ngoài làng của ông ta.
So tathāgatassa rūpasobhaggappattaṃ attabhāvaṃ oloketvā, ‘‘imasmiṃ loke iminā purisena sadiso añño puriso nāma natthi, ayaṃ mayhaṃ dhītu anucchaviko, imassa posāpanatthāya dhītaraṃ dassāmī’’ti cintetvā, ‘‘samaṇa, ekā me dhītā atthi, ahaṃ ettakaṃ kālaṃ tassā anucchavikaṃ purisaṃ na passāmi, tumhe tassā anucchavikā, sā ca tumhākaññeva anucchavikā.
The brahmin, observing the Tathāgata’s body, which had attained the splendor of form, thought, ‘‘There is no other man in this world like this man. He is suitable for my daughter, and she is also suitable for him.
Vị Bà-la-môn nhìn thấy thân tướng của Đức Như Lai vô cùng xinh đẹp, bèn nghĩ: “Trên thế gian này không có người đàn ông nào sánh bằng người này. Người này xứng đáng với con gái của ta. Ta sẽ gả con gái cho người này để người này nuôi dưỡng.” Rồi ông ta nói: “Này Sa-môn, tôi có một cô con gái. Bấy lâu nay tôi chưa tìm được người đàn ông nào xứng đáng với cô ấy. Ngài xứng đáng với cô ấy, và cô ấy cũng xứng đáng với Ngài.
Tumhākañhi pādaparicārikā, tassā ca bhattā laddhuṃ vaṭṭati, taṃ vo ahaṃ dassāmi, yāva mamāgamanā idheva tiṭṭhathā’’ti āha.
Indeed, she is fit to be a handmaiden at your feet, and it is proper for her to have a husband. I will give her to you. Please wait here until I return.’’
Cô ấy xứng đáng làm người hầu hạ chân Ngài, và cũng xứng đáng có Ngài làm chồng. Tôi sẽ gả cô ấy cho Ngài. Xin Ngài hãy ở lại đây cho đến khi tôi trở về.”
Satthā kiñci avatvā tuṇhī ahosi.
The Teacher remained silent without saying anything.
Đức Thế Tôn không nói gì, chỉ im lặng.
Brāhmaṇo vegena gharaṃ gantvā, ‘‘bhoti, bhoti dhītu me anucchaviko puriso diṭṭho, sīghaṃ sīghaṃ naṃ alaṅkarohī’’ti taṃ alaṅkārāpetvā saddhiṃ brāhmaṇiyā ādāya satthu santikaṃ pāyāsi.
The brahmin quickly went home and said, ‘‘My dear, my dear! I have found a suitable man for my daughter. Quickly, quickly adorn her!’’ Having had her adorned, he took her and his brahmin wife and set off towards the Teacher.
Vị Bà-la-môn vội vàng về nhà, nói: “Này vợ, này vợ, ta đã tìm được người đàn ông xứng đáng với con gái ta rồi. Hãy nhanh chóng trang điểm cho con bé!” Ông ta sai trang điểm cho con gái, rồi cùng với vợ dẫn con gái đến chỗ Đức Thế Tôn.
Sakalanagaraṃ saṅkhubhi.
The entire city was stirred.
Cả thành phố xôn xao.
Ayaṃ ‘‘ettakaṃ kālaṃ mayhaṃ dhītu anucchaviko natthī’’ti kassaci adatvā ‘‘ajja me dhītu anucchaviko diṭṭho’’ti kira vadeti, ‘‘kīdiso nu kho so puriso, passissāma na’’nti mahājano teneva saddhiṃ nikkhami.
This brahmin, having not given his daughter to anyone for so long, saying, "There is no suitable man for my daughter," now says, "Today I have seen a suitable man for my daughter." "What kind of man is he? Let's go see him!" So, the great crowd went out with that brahmin.
Người ta nói: “Bấy lâu nay, ông ta không gả con gái cho ai vì nói rằng không có ai xứng đáng với con gái ông ta, vậy mà hôm nay ông ta lại nói đã tìm được người xứng đáng với con gái mình. Người đàn ông đó trông như thế nào nhỉ? Chúng ta hãy cùng đi xem!” Thế là đại chúng cùng đi với ông ta.
Tasmiṃ dhītaraṃ gahetvā āgacchante satthā tena vuttaṭṭhāne aṭṭhatvā tattha padacetiyaṃ dassetvā gantvā aññasmiṃ ṭhāne aṭṭhāsi.
As the brahmin was coming, bringing his daughter, the Teacher, without staying at the place the brahmin had mentioned, displayed a footprint shrine there, and then went and stood in another place.
Khi vị Bà-la-môn dẫn con gái đến, Đức Thế Tôn không đứng ở chỗ ông ta đã nói, mà chỉ cho thấy dấu chân của mình ở đó, rồi đi đến một chỗ khác mà đứng.
Buddhānañhi padacetiyaṃ adhiṭṭhahitvā akkantaṭṭhāneyeva paññāyati, na aññattha.
Indeed, the footprint shrine of the Buddhas appears only at the place where they have stepped, having made an aspiration, and not elsewhere.
Thật vậy, dấu chân của chư Phật chỉ hiện rõ ở nơi mà các Ngài đã phát nguyện và bước đến, không ở nơi nào khác.
Yesañcatthāya adhiṭṭhitaṃ hoti, teyeva naṃ passanti.
And only those for whose benefit it was aspired can see it.
Và chỉ những người mà vì lợi ích của họ mà dấu chân được phát nguyện mới thấy được nó.
Tesaṃ pana adassanakaraṇatthaṃ hatthiādayo vā akkamantu, mahāmegho vā pavassatu, verambhavātā vā paharantu, na taṃ koci makkhetuṃ sakkoti.
However, no one can obliterate it, whether elephants or other creatures step on it, or a great rain falls, or tempestuous winds blow, so that those people cannot see it.
Để làm cho họ không thấy được, dù voi và các loài khác có giẫm lên, hay mưa lớn có đổ xuống, hay gió bão có thổi mạnh, cũng không ai có thể xóa nhòa dấu chân đó được.
Atha brāhmaṇī brāhmaṇaṃ āha – ‘‘kuhiṃ so puriso’’ti.
Then the brahmin's wife said to the brahmin, "Where is that man?"
Rồi vị Bà-la-môn nữ hỏi vị Bà-la-môn: “Người đàn ông đó ở đâu?”
‘‘‘Imasmiṃ ṭhāne tiṭṭhāhī’ti naṃ avacaṃ, kuhiṃ nu kho so gato’’ti ito cito olokento padacetiyaṃ disvā ‘‘ayamassa padavalañjo’’ti āha.
"I told him, 'Stay in this place,' but where has he gone?" Looking here and there, he saw the footprint shrine and said, "This is his footprint."
“Ta đã bảo ông ấy ‘Hãy đứng ở chỗ này,’ vậy mà ông ấy đã đi đâu rồi?” Ông ta nhìn quanh đây đó, thấy dấu chân liền nói: “Đây là dấu chân của ông ấy.”
Brāhmaṇī salakkhaṇamantānaṃ tiṇṇaṃ vedānaṃ paguṇatāya lakkhaṇamante parivattetvā padalakkhaṇaṃ upadhāretvā, ‘‘nayidaṃ, brāhmaṇa, pañcakāmaguṇasevino pada’’nti vatvā imaṃ gāthamāha –
The brahmin's wife, being well-versed in the three Vedas with their characteristic mantras, reflected on the characteristic mantras and examined the marks of the footprint. Then, saying, "Brahmin, this is not the footprint of one who indulges in the five sense pleasures," she recited this verse:
Vị Bà-la-môn nữ, vì thông thạo ba bộ Veda về các chú thuật tướng số, đã vận dụng các chú thuật tướng số, xem xét kỹ lưỡng các dấu chân, rồi nói: “Này Bà-la-môn, đây không phải là dấu chân của người hưởng thụ năm dục lạc,” và đọc bài kệ này:
Atha naṃ brāhmaṇo evamāha – ‘‘bhoti tvaṃ udakapātiyaṃ kumbhīlaṃ, gehamajjhe ca pana coraṃ viya mante passanasīlā, tuṇhī hohī’’ti.
Then the brahmin said to her, "Lady, you are accustomed to seeing crocodiles in a water pot and thieves in the middle of the house, and to looking at mantras. Be silent!"
Rồi vị Bà-la-môn nói với bà ta: “Này phu nhân, bà cứ như người nhìn thấy cá sấu trong chậu nước, và như kẻ trộm giữa nhà, bà cứ giỏi xem bói. Hãy im lặng đi!”
Brāhmaṇa, yaṃ icchasi, taṃ vadehi, nayidaṃ pañcakāmaguṇasevino padanti.
"Brahmin, say what you wish, but this is not the footprint of one who indulges in the five sense pleasures."
“Này Bà-la-môn, ông muốn nói gì thì cứ nói, đây không phải là dấu chân của người hưởng thụ năm dục lạc.”
Tato ito cito ca olokento satthāraṃ disvā, ‘‘ayaṃ so puriso’’ti vatvā brāhmaṇo gantvā, ‘‘samaṇa, dhītaraṃ me tava posāpanatthāya demī’’ti āha.
Then, looking here and there, he saw the Teacher and, saying, "This is that man," the brahmin went and said, "Ascetic, I give you my daughter to be maintained by you."
Rồi nhìn quanh đây đó, thấy Đức Thế Tôn, vị Bà-la-môn nói: “Đây chính là người đàn ông đó!” rồi đi đến thưa: “Này Sa-môn, tôi xin gả con gái tôi cho Ngài để Ngài nuôi dưỡng.”
Satthā ‘‘dhītarā te mayhaṃ attho atthi vā natthi vā’’ti avatvāva, ‘‘brāhmaṇa, ekaṃ te kāraṇaṃ kathemī’’ti vatvā, ‘‘kathehi samaṇā’’ti vutte mahābhinikkhamanato paṭṭhāya yāva ajapālanigrodhamūlā mārena anubaddhabhāvaṃ ajapālanigrodhamūle ca pana ‘‘atīto dāni me esa visaya’’nti tassa sokāturassa sokavūpasamanatthaṃ āgatāhi māradhītāhi kumārikavaṇṇādivasena payojitaṃ palobhanaṃ ācikkhitvā, ‘‘tadāpi mayhaṃ chando nāhosī’’ti vatvā –
The Teacher, without saying, "Do I have a need for your daughter or not?" said, "Brahmin, I will tell you one matter." When asked, "Tell me, Ascetic," he recounted how he had been pursued by Māra from the time of his Great Renunciation up to the foot of the Ajapāla Banyan tree. He also described the enticement employed by Māra's daughters, who had come to soothe Māra, who was overcome with sorrow at the foot of the Ajapāla Banyan tree, thinking, "This ascetic has now passed beyond my domain." He then said, "Even then I had no desire," and recited this verse:
Đức Bổn Sư, không nói rằng: “Ta có muốn con gái của ông hay không muốn?”, mà nói: “Này Bà-la-môn, ta sẽ kể cho ông nghe một chuyện.” Khi được hỏi: “Thưa Sa-môn, xin hãy kể!”, Ngài đã kể về việc Ma vương bám theo Ngài từ lúc xuất gia vĩ đại cho đến gốc cây Ajapāla nigrodha, và tại gốc cây Ajapāla nigrodha, để xoa dịu nỗi buồn của Ma vương đang đau khổ vì nghĩ rằng: “Phạm vi của ta đã bị vượt qua rồi”, các cô con gái của Ma vương đã dùng mọi cách quyến rũ với vẻ ngoài của các thiếu nữ, v.v., và nói: “Ngay cả khi đó, ta cũng không có ý muốn dục lạc nào cả” –
Imaṃ gāthamāha.
He recited this verse.
Ngài đã nói bài kệ này.
Gāthāpariyosāne brāhmaṇo ca brāhmaṇī ca anāgāmiphale patiṭṭhahiṃsu.
At the end of the verse, both the brahmin and the brahmin's wife became established in the fruit of non-returning (Anāgāmi-phala).
Khi bài kệ kết thúc, cả Bà-la-môn và Bà-la-môn ni đều chứng đắc quả Anāgāmi.
Māgaṇḍiyāpi kho ‘‘sacassa mayā attho natthi, anatthikabhāvova vattabbo, ayaṃ pana maṃ muttakarīsapuṇṇaṃ karoti, pādāpi naṃ samphusituṃ na iccheti, hotu, attano jātikulapadesabhogayasavayasampattiṃ āgamma tathārūpaṃ bhattāraṃ labhitvā samaṇassa gotamassa kattabbayuttakaṃ jānissāmī’’ti satthari āghātaṃ bandhi.
Māgaṇḍiyā, however, thought, "If he has no need of me, he should simply say he has no need. But this ascetic calls me 'filled with urine and excrement' and says 'I would not even wish to touch her with my foot.' Well, let it be. Relying on my own birth, family, region, wealth, fame, and youth, I will find a suitable husband and then I will know what should be done to the ascetic Gotama." Thus, she harbored resentment towards the Teacher.
Còn Māgaṇḍiyā thì nghĩ: “Nếu Ngài không muốn ta, Ngài chỉ cần nói là không muốn thôi. Nhưng Ngài lại nói ta đầy nước tiểu và phân, thậm chí không muốn chạm vào bằng chân. Được thôi, ta sẽ dựa vào sự giàu có về dòng tộc, gia đình, địa vị, tài sản, danh tiếng và tuổi tác của mình để tìm một người chồng xứng đáng, rồi ta sẽ biết phải làm gì với Sa-môn Gotama này!” Và cô ta đã ôm mối hận thù với Đức Bổn Sư.
‘‘Kiṃ pana satthā tāya attani āghātuppattiṃ jānāti, no’’ti?
"Did the Teacher know about the arising of her resentment towards him, or not?"
“Vậy Đức Bổn Sư có biết về mối hận thù đó trong cô ta không?”
‘‘Jānātiyeva.
"He knew it."
“Ngài biết chứ.”
Jānanto kasmā gāthamāhā’’ti?
"Knowing it, why did he recite the verse?"
“Biết mà tại sao Ngài lại nói bài kệ đó?”
Itaresaṃ dvinnaṃ vasena.
For the sake of those two others.
“Vì lợi ích của hai người kia (Bà-la-môn và Bà-la-môn ni).”
Buddhā hi āghātaṃ agaṇetvā maggaphalādhigamārahānaṃ vasena dhammaṃ desentiyeva.
Indeed, the Buddhas, disregarding resentment, teach the Dhamma for the sake of those worthy of attaining the path and its fruits.
Đức Phật, không bận tâm đến mối hận thù, chỉ thuyết Pháp vì lợi ích của những người xứng đáng chứng đắc Đạo và Quả.
Mātāpitaro taṃ netvā cūḷamāgaṇḍiyaṃ kaniṭṭhaṃ paṭicchāpetvā pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
Her parents took her, entrusted her to her younger uncle Cūḷamāgaṇḍiya, and then went forth and attained Arahantship.
Cha mẹ của Māgaṇḍiyā đã đưa cô ta đi, gả cho người em trai tên Cūḷamāgaṇḍiya, rồi xuất gia và chứng đắc A-la-hán.
Cūḷamāgaṇḍiyopi cintesi – ‘‘mama dhītā omakasattassa na anucchavikā, ekassa raññova anucchavikā’’ti.
Cūḷamāgaṇḍiya also thought, "My daughter is not suitable for an inferior man; she is only suitable for a king."
Cūḷamāgaṇḍiya cũng nghĩ: “Con gái ta không xứng với một người tầm thường, mà chỉ xứng với một vị vua thôi.”
Taṃ ādāya kosambiṃ gantvā sabbālaṅkārehi alaṅkaritvā, ‘‘imaṃ itthiratanaṃ devassa anucchavika’’nti utenassa rañño adāsi.
Taking her, he went to Kosambī, adorned her with all ornaments, and presented her to King Utena, saying, "This jewel of a woman is suitable for Your Majesty."
Ông ta dẫn cô đi đến Kosambī, trang điểm cho cô bằng mọi thứ trang sức, rồi dâng cô cho vua Utena và nói: “Bảo vật nữ nhân này xứng đáng với đức vua.”
So taṃ disvāva uppannabalavasineho abhisekaṃ katvā pañcasatamātugāmaparivāraṃ datvā aggamahesiṭṭhāne ṭhapesi.
That King Udena, immediately upon seeing her, felt a strong affection, performed the anointing, gave her a retinue of five hundred women, and placed her in the position of chief queen.
Vua Utena vừa thấy cô đã nảy sinh tình yêu mãnh liệt, liền làm lễ đăng quang, ban cho cô năm trăm người hầu gái và đặt cô vào vị trí Hoàng hậu chính.
Ayaṃ māgaṇḍiyāya uppatti.
This is the origin of Queen Māgaṇḍiyā.
Đây là câu chuyện về sự xuất hiện của Māgaṇḍiyā.
Evamassa diyaḍḍhasahassanāṭakitthiparivārā tisso aggamahesiyo ahesuṃ.
Thus, that King Udena had three chief queens with a retinue of fifteen hundred dancing women.
Như vậy, vua Utena có ba vị hoàng hậu chính, được vây quanh bởi một ngàn năm trăm vũ nữ.
Tasmiṃ kho pana samaye ghosakaseṭṭhi kukkuṭaseṭṭhi pāvārikaseṭṭhīti kosambiyaṃ tayo seṭṭhino honti.
At that time, there were three rich men in Kosambī: Ghosaka the rich man, Kukkuṭa the rich man, and Pāvārika the rich man.
Vào thời điểm đó, tại Kosambī có ba vị trưởng giả là Ghosaka, Kukkuṭa và Pāvārika.
Te upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya pañcasatatāpase himavantato āgantvā nagare bhikkhāya carante disvā pasīditvā nisīdāpetvā bhojetvā paṭiññaṃ gahetvā cattāro māse attano santike vasāpetvā puna vassāratte āgamanatthāya paṭijānāpetvā uyyojesuṃ.
When the rainy season retreat was approaching, they saw five hundred ascetics who had come from the Himavanta and were wandering for alms in the city; they were pleased, made them sit down, fed them, obtained a promise, kept them with them for four months, made them promise to return again in the rainy season, and sent them off.
Khi mùa an cư kiết hạ sắp đến, họ thấy năm trăm đạo sĩ từ dãy Hy Mã Lạp Sơn đến thành phố khất thực, liền hoan hỷ mời họ ngồi, cúng dường bữa ăn, rồi thỉnh cầu họ ở lại với mình trong bốn tháng, và sau đó hứa hẹn sẽ trở lại vào mùa mưa tiếp theo, rồi tiễn họ đi.
Tāpasāpi tato paṭṭhāya aṭṭha māse himavante vasitvā cattāro māse tesaṃ santike vasiṃsu.
From that time onwards, the ascetics also lived in the Himavanta for eight months and with those rich men for four months.
Các đạo sĩ cũng từ đó về sau, ở lại Hy Mã Lạp Sơn tám tháng và ở với ba vị trưởng giả kia bốn tháng.
Te aparabhāge himavantato āgacchantā araññāyatane ekaṃ mahānigrodhaṃ disvā tassa mūle nisīdiṃsu.
Later, as they were coming from the Himavanta, they saw a great banyan tree in a forest grove and sat down at its base.
Sau này, khi các đạo sĩ từ Hy Mã Lạp Sơn trở về, họ thấy một cây đa lớn trong khu rừng và ngồi dưới gốc cây đó.
Tesu jeṭṭhakatāpaso cintesi – ‘‘imasmiṃ rukkhe adhivatthā devatā oramattikā na bhavissati, mahesakkhenevettha devarājena bhavitabbaṃ, sādhu vata sacāyaṃ isigaṇassa pānīyaṃ dadeyyā’’ti.
Among them, the eldest ascetic thought: "The deity dwelling in this tree will not be of small power; it must be a Devarāja of great might. How good it would be if this Devarāja were to give drinking water to this assembly of ascetics!"
Trong số đó, vị đạo sĩ lớn tuổi nhất nghĩ: “Vị chư thiên ngự trên cây này chắc chắn không phải là một vị bình thường, mà phải là một vị thiên vương có uy quyền lớn. Thật tốt biết bao nếu vị ấy có thể ban nước uống cho đoàn đạo sĩ này.”
Sopi pānīyaṃ adāsi.
And that Devarāja gave drinking water.
Vị ấy liền ban nước uống.
Tāpaso nhānodakaṃ cintesi, tampi adāsi.
The ascetic thought of bathing water, and that too was given.
Vị đạo sĩ nghĩ đến nước tắm, vị ấy cũng ban nước tắm.
Tato bhojanaṃ cintesi, tampi adāsi.
Then he thought of food, and that too was given.
Sau đó, vị ấy nghĩ đến thức ăn, vị ấy cũng ban thức ăn.
Athassa etadahosi – ‘‘ayaṃ devarājā amhehi cintitaṃ cintitaṃ sabbaṃ deti, aho vata naṃ passeyyāmā’’ti.
Then it occurred to him: "This Devarāja gives everything we wish for. Oh, if only we could see him!"
Rồi vị ấy nghĩ: “Vị thiên vương này ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta nghĩ đến. Ôi, ước gì chúng ta có thể nhìn thấy vị ấy!”
So rukkhakkhandhaṃ padāletvā attānaṃ dassesi.
So he split open the tree trunk and showed himself.
Vị ấy liền tách thân cây ra và hiện thân.
Atha naṃ tāpasā, ‘‘devarāja, mahatī te sampatti, kiṃ nu kho katvā ayaṃ te laddhā’’ti pucchiṃsu.
Then the ascetics asked him: "Devarāja, your prosperity is great. What good deed did you perform to obtain this?"
Rồi các đạo sĩ hỏi vị ấy: “Này Thiên vương, tài sản của ngài thật lớn lao. Ngài đã làm gì để có được điều này?”
‘‘Mā pucchatha, ayyā’’ti.
"Do not ask, sirs," he said.
“Thưa các ngài, xin đừng hỏi.”
‘‘Ācikkha, devarājā’’ti.
"Tell us, Devarāja," they said.
“Xin hãy kể cho chúng tôi nghe, Thiên vương!”
So attanā katakammassa parittakattā lajjamāno kathetuṃ na visahi.
Being ashamed that his good deed was so small, he could not bring himself to tell it.
Vị ấy xấu hổ vì công đức mình đã làm quá ít ỏi nên không dám kể.
Tehi punappunaṃ nippīḷiyamāno pana ‘‘tena hi suṇāthā’’ti vatvā kathesi.
However, being pressed again and again by them, he said, "Then listen," and told his story.
Tuy nhiên, khi bị các đạo sĩ thúc giục nhiều lần, vị ấy nói: “Vậy thì xin hãy lắng nghe!” và kể lại.
So kireko duggatamanusso hutvā bhatiṃ pariyesanto anāthapiṇḍikassa santike bhatikammaṃ labhitvā taṃ nissāya jīvikaṃ kappesi.
He was once a poor man, seeking work for hire, and found employment with Anāthapiṇḍika, relying on that to make a living.
Vị ấy kể rằng mình là một người nghèo khó, đi tìm việc làm thuê, được Anāthapiṇḍika nhận vào làm và nhờ đó mà sống qua ngày.
Athekasmiṃ uposathadivase sampatte anāthapiṇḍiko vihārato āgantvā pucchi – ‘‘tassa bhatikassa ajjuposathadivasabhāvo kenaci kathito’’ti?
Then, when a Uposatha day arrived, Anāthapiṇḍika came from the monastery and asked, "Has anyone informed that hired worker about today being Uposatha day?"
Một ngày nọ, đến ngày Uposatha, Anāthapiṇḍika từ tu viện trở về và hỏi: “Có ai nói cho người làm thuê đó biết hôm nay là ngày Uposatha chưa?”
‘‘Na kathito, sāmī’’ti.
"No, master," they replied.
“Thưa chủ, chưa ai nói cả.”
‘‘Tena hissa sāyamāsaṃ pacathā’’ti.
"Then cook his evening meal," he said.
“Vậy thì hãy nấu bữa tối cho anh ta.”
Athassa patthodanaṃ paciṃsu.
So they cooked a measure of rice for him.
Thế là họ nấu một bát cơm cho anh ta.
So divasaṃ araññe kammaṃ katvā sāyaṃ āgantvā bhatte vaḍḍhetvā dinne ‘‘chātomhī’’ti sahasā abhuñjitvāva ‘‘aññesu divasesu imasmiṃ gehe ‘bhattaṃ detha, sūpaṃ detha, byañjanaṃ dethā’ti mahākolāhalaṃ ahosi, ajja te sabbe nissaddā nipajjiṃsu, mayhameva ekassāhāraṃ vaḍḍhayiṃsu, kiṃ nu kho eta’’nti cintetvā pucchi – ‘‘avasesā bhuñjiṃsu, na bhuñjiṃsū’’ti?
Having worked all day in the forest, he returned in the evening, and when the rice was served, he did not eat it hastily, though he was hungry, but thought: "On other days, there was a great clamor in this house, 'Give rice, give curry, give vegetables!' Today, they are all silent and lying down. They have served food only for me. What could be the reason for this?" And he asked, "Have the others eaten, or not?"
Anh ta làm việc cả ngày trong rừng, tối về, khi được dọn cơm ra, anh ta chưa vội ăn ngay dù rất đói, mà nghĩ: “Những ngày khác, trong nhà này ồn ào: ‘Cho cơm đi, cho canh đi, cho thức ăn đi!’, nhưng hôm nay tất cả đều im lặng nằm xuống, chỉ có mình ta được dọn thức ăn. Chuyện gì vậy nhỉ?” Rồi anh ta hỏi: “Những người khác đã ăn chưa, hay chưa ăn?”
‘‘Na bhuñjiṃsu, tātā’’ti.
"They have not eaten, dear one," they replied.
“Này con, họ chưa ăn.”
‘‘Kiṃ kāraṇā’’ti?
"For what reason?" he asked.
“Vì lý do gì?”
Imasmiṃ gehe uposathadivasesu sāyamāsaṃ na bhuñjanti, sabbeva uposathikā honti.
"In this house, on Uposatha days, no one eats the evening meal; everyone observes the Uposatha.
“Trong nhà này, vào ngày Uposatha, không ai ăn bữa tối cả, tất cả đều giữ Uposatha.
Antamaso thanapāyinopi dārake mukhaṃ vikkhālāpetvā catumadhuraṃ mukhe pakkhipāpetvā mahāseṭṭhi uposathike kāreti.
Even infants who suckle at the breast are made to rinse their mouths and have the four sweet things placed in their mouths, and the great rich man makes them observe the Uposatha.
Ngay cả những đứa trẻ còn bú sữa, Trưởng giả cũng cho súc miệng và đặt một ít tứ mật vào miệng để chúng giữ Uposatha.
Gandhatelappadīpe jālante khuddakamahallakadārakā sayanagatā dvattiṃsākāraṃ sajjhāyanti.
While the scented oil lamps are burning, the young and old children, having gone to bed, recite the thirty-two bodily parts.
Khi đèn dầu thơm được thắp sáng, những đứa trẻ lớn nhỏ nằm trên giường tụng niệm về ba mươi hai thể trược.
Tuyhaṃ pana uposathadivasabhāvaṃ kathetuṃ satiṃ na karimhā.
However, we forgot to tell you that it is Uposatha day.
Nhưng chúng ta đã quên không nói cho con biết hôm nay là ngày Uposatha.
Tasmā taveva bhattaṃ pakkaṃ, naṃ bhuñjassūti.
Therefore, only your food has been cooked; eat it."
Vì vậy, chỉ có cơm của con được nấu thôi, con hãy ăn đi.”
Sace idāni uposathikena bhavituṃ vaṭṭati, ahampi bhaveyyanti.
"If it is proper to observe the Uposatha now, I too would like to observe it."
“Nếu bây giờ có thể giữ Uposatha, con cũng muốn giữ.”
‘‘Idaṃ seṭṭhi jānātī’’ti.
"The rich man knows about this," they said.
“Chuyện này trưởng giả có biết không?”
‘‘Tena hi naṃ pucchathā’’ti.
"Then please ask him," he said.
“Vậy thì hãy hỏi ông ấy.”
Te gantvā seṭṭhiṃ pucchiṃsu.
They went and asked the rich man.
Họ đi hỏi trưởng giả.
So evamāha – ‘‘idāni pana abhuñjitvā mukhaṃ vikkhāletvā uposathaṅgāni adhiṭṭhahanto upaḍḍhaṃ uposathakammaṃ labhissatī’’ti.
He said: "If he now, without eating, rinses his mouth and undertakes the Uposatha precepts, he will obtain half the merit of the Uposatha observance."
Ông ấy nói: “Nếu bây giờ anh ta không ăn, súc miệng và giữ các giới Uposatha, anh ta sẽ nhận được một nửa công đức của việc giữ Uposatha.”
Itaro taṃ sutvā tathā akāsi.
The other, hearing that, did so.
Người làm thuê kia nghe vậy liền làm theo.
Tassa sakaladivasaṃ kammaṃ katvā chātassa sarīre vātā kuppiṃsu.
Having worked all day, and being hungry, his bodily humors became agitated.
Sau khi làm việc cả ngày, cơ thể anh ta đói lả, các luồng gió trong người nổi lên.
So yottena uraṃ bandhitvā yottakoṭiyaṃ gahetvā parivattati.
He tied his chest with a rope, held the end of the rope, and writhed in pain.
Anh ta lấy dây buộc quanh ngực, nắm lấy đầu dây và lăn qua lăn lại.
Seṭṭhi taṃ pavattiṃ sutvā ukkāhi dhāriyamānāhi catumadhuraṃ gāhāpetvā tassa santikaṃ āgantvā, ‘‘kiṃ, tātā’’ti pucchi.
The merchant, having heard that news, had the four sweet things brought with torches held aloft, and coming to him, asked, "What is it, my dear?"
Trưởng giả nghe tin đó, liền sai người mang tứ mật đến, với những ngọn đuốc được thắp sáng, rồi đến chỗ anh ta và hỏi: “Có chuyện gì vậy, con trai?”
‘‘Sāmi, vātā me kuppitā’’ti.
"Master, my winds are disturbed."
“Thưa chủ, các luồng gió trong người con đang nổi lên.”
‘‘Tena hi uṭṭhāya idaṃ bhesajjaṃ khādāhī’’ti.
"Then arise and eat this medicine."
“Vậy thì hãy đứng dậy và uống thuốc này đi.”
‘‘Tumhepi khādatha, sāmī’’ti.
"You also eat, master."
“Thưa chủ, xin ngài cũng uống đi ạ.”
‘‘Amhākaṃ aphāsukaṃ natthi, tvaṃ khādāhī’’ti.
"We are not unwell, you eat it."
“Chúng ta không bị bệnh gì cả, con hãy uống đi.”
‘‘Sāmi, ahaṃ uposathakammaṃ karonto sakalaṃ kātuṃ nāsakkhiṃ, upaḍḍhakammampi me vikalaṃ mā ahosī’’ti na icchi.
"Master, I could not complete the entire Uposatha observance; let not even half of my observance be incomplete," he said, and did not wish to eat.
“Thưa chủ, con đã cố gắng giữ Uposatha nhưng không thể hoàn thành trọn vẹn. Con không muốn ngay cả một nửa công đức của việc giữ Uposatha cũng bị mất đi.” Anh ta không muốn uống.
‘‘Mā evaṃ kari, tātā’’ti vuccamānopi anicchitvā aruṇe uṭṭhahante milātamālā viya kālaṃ katvā tasmiṃ nigrodharukkhe devatā hutvā nibbatti.
Even when told, "Do not do so, dear boy," he did not wish to eat, and when dawn broke, he passed away like a withered flower, becoming a deity in that banyan tree.
Dù được khuyên: “Này con, đừng làm vậy!”, anh ta vẫn không muốn uống, và khi bình minh ló dạng, anh ta qua đời như một vòng hoa héo tàn, rồi tái sinh thành một vị thiên nhân trên cây đa đó.
Tasmā imamatthaṃ kathetvā ‘‘so seṭṭhi buddhamāmako, dhammamāmako, saṅghamāmako, taṃ nissāya katassa upaḍḍhuposathakammassa nissandenesā sampatti mayā laddhā’’ti āha.
Therefore, having related this matter, he said, "That merchant was devoted to the Buddha, devoted to the Dhamma, devoted to the Saṅgha; by relying on him, I obtained this prosperity as a result of that half Uposatha observance."
Vì vậy, sau khi kể lại câu chuyện này, vị thiên nhân nói: “Vị trưởng giả kia là một Phật tử thuần thành, một Pháp tử thuần thành, một Tăng tử thuần thành. Nhờ công đức giữ một nửa Uposatha mà ta đã làm theo lời khuyên của ông ấy, ta đã đạt được sự giàu có này.”
‘‘Buddho’’ti vacanaṃ sutvāva pañcasatā tāpasā uṭṭhāya devatāya añjaliṃ paggayha ‘‘buddhoti vadesi, buddhoti vadesī’’ti pucchitvā, ‘‘buddhoti vadāmi, buddhoti vadāmī’’ti tikkhattuṃ paṭijānāpetvā ‘‘ghosopi kho eso dullabho lokasmi’’nti udānaṃ udānetvā ‘‘devate anekesu kappasatasahassesu asutapubbaṃ saddaṃ tayā suṇāpitamhā’’ti āhaṃsu.
As soon as they heard the word "Buddha," five hundred ascetics arose, raised their joined hands to the deity, and asked, "Do you say Buddha? Do you say Buddha?" Having made him affirm "I say Buddha, I say Buddha" three times, they exclaimed an udāna, saying, "Indeed, this sound is rare in the world!" and then said, "O deity, you have let us hear a sound never heard before in many hundreds of thousands of eons."
Vừa nghe thấy từ “Phật”, năm trăm đạo sĩ liền đứng dậy, chắp tay cung kính vị thiên nhân và hỏi: “Ngài nói là ‘Phật’ phải không? Ngài nói là ‘Phật’ phải không?” Sau khi được vị ấy xác nhận ba lần: “Tôi nói là ‘Phật’, tôi nói là ‘Phật’”, họ liền thốt lên lời cảm thán: “Thật khó tìm thấy một âm thanh như vậy trên thế gian này!” và nói: “Này thiên nhân, ngài đã cho chúng tôi nghe một âm thanh mà chúng tôi chưa từng nghe trong hàng trăm ngàn kiếp trước đây.”
Atha antevāsino ācariyaṃ etadavocuṃ – ‘‘tena hi satthu santikaṃ gacchāmā’’ti.
Then the disciples said to their teacher, "Then let us go to the Master."
Rồi các đệ tử đến thưa với vị đạo sư rằng: “Vậy thì chúng ta hãy đến với Thế Tôn.”
‘‘Tātā, tayo seṭṭhino amhākaṃ bahūpakārā, sve tesaṃ nivesane bhikkhaṃ gaṇhitvā tesampi ācikkhitvā gamissāma, adhivāsetha, tātā’’ti.
"Dear boys, the three merchants have been very helpful to us. Tomorrow, we will receive alms at their houses, inform them, and then go. Please bear with us, dear boys."
“Này các con, ba vị trưởng giả là những người có nhiều ân đức với chúng ta. Ngày mai, chúng ta hãy thọ thực tại nhà của họ, sau đó sẽ báo cho họ biết rồi đi. Này các con, hãy hoan hỷ chấp thuận.”
Te adhivāsayiṃsu.
They assented.
Các đệ tử đã hoan hỷ chấp thuận.
Punadivase seṭṭhino yāgubhattaṃ sampādetvā āsanāni paññāpetvā ‘‘ajja no ayyānaṃ āgamanadivaso’’ti ñatvā paccuggamanaṃ katvā te ādāya nivesanaṃ gantvā nisīdāpetvā bhikkhaṃ adaṃsu.
The next day, the merchants prepared gruel and food, arranged seats, and knowing, "Today is the day of the venerable ones' arrival," they went out to meet them, escorted them into their houses, seated them, and offered them alms.
Ngày hôm sau, các vị trưởng giả đã chuẩn bị cháo và cơm, sắp đặt chỗ ngồi, biết rằng “Hôm nay là ngày các vị Tôn giả sẽ đến,” bèn ra đón, đưa các vị vào nhà, mời ngồi và dâng cúng vật thực.
Te katabhattakiccā mahāseṭṭhino ‘‘mayaṃ gamissāmā’’ti vadiṃsu.
After completing their meal, those ascetics said to the great merchants, "We shall depart."
Sau khi hoàn tất việc thọ thực, các vị ấy nói với các vị đại trưởng giả rằng: “Chúng tôi sẽ ra đi.”
‘‘Nanu, bhante, tumhehi cattāro vassike māse amhākaṃ gahitāva paṭiññā, idāni kuhiṃ gacchathā’’ti?
"Venerable sirs, did you not make a promise to us for the four months of the rainy season? Where are you going now?"
“Bạch chư Tôn giả, chẳng phải chư Tôn giả đã nhận lời hứa của chúng con trong suốt bốn tháng an cư mùa mưa sao? Bây giờ chư Tôn giả sẽ đi đâu?”
‘‘Loke kira buddho uppanno, dhammo uppanno, saṅgho uppanno, tasmā satthu santikaṃ gamissāmā’’ti.
"Indeed, the Buddha has arisen in the world, the Dhamma has arisen, the Saṅgha has arisen. Therefore, we will go to the Master."
“Được biết, Đức Phật đã xuất hiện trên đời, Pháp đã xuất hiện, Tăng đã xuất hiện. Vì vậy, chúng tôi sẽ đến với Bậc Đạo Sư.”
‘‘Kiṃ pana tassa satthuno santikaṃ tumhākaññeva gantuṃ vaṭṭatī’’ti?
"Is it only proper for you to go to that Master?"
“Vậy chỉ có chư Tôn giả mới được phép đến với Bậc Đạo Sư ấy thôi sao?”
‘‘Aññesampi avāritaṃ, āvuso’’ti.
"It is not forbidden for others either, friends."
“Này các hiền hữu, những người khác cũng không bị ngăn cấm.”
‘‘Tena hi, bhante, āgametha, mayampi gamanaparivacchaṃ katvā gacchāmā’’ti.
"Then, Venerable Sirs, wait, we too will make preparations for the journey and go."
“Vậy thì, bạch chư Tôn giả, xin hãy chờ đợi, chúng con cũng sẽ chuẩn bị hành trang rồi đi.”
‘‘Tumhesu parivacchaṃ karontesu amhākaṃ papañco hoti, mayaṃ purato gacchāma, tumhe pacchā āgaccheyyāthā’’ti vatvā te puretaraṃ gantvā sammāsambuddhaṃ disvā abhitthavitvā vanditvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
They said, "If you make preparations, it will cause delay for us. We will go ahead; you may come later," and having gone ahead, they saw the Perfectly Enlightened One, praised Him, paid homage, and sat down to one side.
Các vị ấy nói: “Nếu các hiền hữu chuẩn bị hành trang thì chúng tôi sẽ bị chậm trễ. Chúng tôi sẽ đi trước, các hiền hữu hãy đến sau.” Nói vậy rồi, các vị ấy đi trước, nhìn thấy Đức Chánh Đẳng Giác, ca ngợi, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên.
Atha nesaṃ satthā anupubbiṃ kathaṃ kathetvā dhammaṃ desesi.
Then the Master delivered a gradual discourse to them and taught the Dhamma.
Sau đó, Đức Đạo Sư đã thuyết giảng giáo pháp theo thứ lớp cho các vị ấy.
Desanāpariyosāne sabbepi saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā pabbajjaṃ yācitvā ‘‘etha, bhikkhavo’’ti vacanasamanantaraṃyeva iddhimayapattacīvaradharā ehibhikkhū ahesuṃ.
At the end of the discourse, all of them attained Arahantship together with the analytical knowledges (paṭisambhidā), and having requested ordination, they immediately became ehi-bhikkhu monks, endowed with robes and alms bowls created by psychic power, as soon as the words "Come, monks!" were uttered.
Khi bài pháp kết thúc, tất cả các vị ấy đều đạt A-la-hán cùng với tứ vô ngại giải, cầu xin xuất gia, và ngay khi Đức Phật nói “Etha, bhikkhavo” (Hãy đến, này các Tỳ-khưu), các vị ấy liền trở thành các Tỳ-khưu với y bát thần thông.
Tepi kho tayo seṭṭhino pañcahi pañcahi sakaṭasatehi bhattacchādanasappimadhuphāṇitādīni dānūpakaraṇāni ādāya sāvatthiṃ patvā satthāraṃ vanditvā dhammakathaṃ sutvā kathāpariyosāne sotāpattiphale patiṭṭhāya addhamāsamattampi dānaṃ dadamānā satthu santike vasitvā kosambiṃ āgamanatthāya satthāraṃ yācitvā satthārā paṭiññaṃ dadantena ‘‘suññāgāre kho gahapatayo tathāgatā abhiramantī’’ti vutte, ‘‘aññātaṃ, bhante, amhehi pahitasāsanena āgantuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā kosambiṃ gantvā ghosakaseṭṭhi ghositārāmaṃ, kukkuṭaseṭṭhi kukkuṭārāmaṃ, pāvārikaseṭṭhi pāvārikārāmanti tayo mahāvihāre kāretvā satthu āgamanatthāya sāsanaṃ pahiṇiṃsu.
Those three merchants, taking offerings such as meals, robes, ghee, honey, and molasses in five hundred carts each, arrived in Sāvatthī, paid homage to the Master, listened to a Dhamma talk, and at the end of the talk, established themselves in the fruit of Stream-entry (sotāpatti), then resided with the Master for about half a month, offering alms. Having requested the Master to come to Kosambī, and when the Master, giving His assent, said, "Householders, Tathāgatas delight in empty dwellings," they replied, "We understand, Venerable Sir, that it is proper to come when a message is sent by us." Then, having gone to Kosambī, Ghosaka the merchant had Ghositārāma built, Kukkuṭa the merchant had Kukkuṭārāma built, and Pāvārika the merchant had Pāvārikārāma built, thus constructing three great monasteries, and sent a message for the Master's arrival.
Ba vị trưởng giả ấy, mang theo các vật dụng cúng dường như cơm, y phục, bơ sữa, mật ong, đường mật, v.v., trên năm trăm cỗ xe, đã đến Sāvatthī, đảnh lễ Đức Đạo Sư, lắng nghe pháp thoại. Khi pháp thoại kết thúc, các vị ấy đã an trú vào quả vị Dự Lưu, và sau khi cúng dường trong suốt nửa tháng, các vị ấy đã ở lại bên Đức Đạo Sư. Sau đó, các vị ấy đã thỉnh cầu Đức Đạo Sư đến Kosambī. Khi Đức Đạo Sư chấp thuận và nói: “Này các gia chủ, các Như Lai thường an trú trong các trú xứ vắng vẻ,” các vị ấy đã thưa: “Bạch Thế Tôn, chúng con đã hiểu. Xin Thế Tôn hãy đến theo lời thỉnh cầu của chúng con.” Sau đó, các vị ấy đã trở về Kosambī và xây dựng ba đại tinh xá: trưởng giả Ghosaka xây Ghositārāma, trưởng giả Kukkuṭa xây Kukkuṭārāma, và trưởng giả Pāvārika xây Pāvārikārāma, rồi gửi lời thỉnh Đức Đạo Sư đến.
Satthā tesaṃ sāsanaṃ sutvā tattha agamāsi.
The Master heard their message and went there.
Đức Đạo Sư nghe lời thỉnh cầu của họ và đã đến đó.
Te paccuggantvā satthāraṃ vihāraṃ pavesetvā vārena vārena paṭijagganti.
They went to meet the Master, led him into the monasteries, and attended to him in turn.
Họ ra đón Đức Đạo Sư, đưa Ngài vào tinh xá, và luân phiên phụng sự Ngài.
Satthā devasikaṃ ekekasmiṃ vihāre vasati.
The Master resided in one monastery each day.
Đức Đạo Sư trú ngụ tại mỗi tinh xá mỗi ngày.
Yassa vihāre vuṭṭho hoti, tasseva gharadvāre piṇḍāya carati.
In whichever merchant's monastery he had spent the night, he would wander for alms at that merchant's house gate.
Ngài khất thực tại cửa nhà của vị trưởng giả nào mà Ngài đã trú ngụ tại tinh xá của vị ấy.
Tesaṃ pana tiṇṇaṃ seṭṭhīnaṃ upaṭṭhāko sumano nāma mālākāro ahosi.
Now, the attendant of those three merchants was a garland-maker named Sumana.
Có một người làm vườn tên là Sumana, là người hầu cận của ba vị trưởng giả ấy.
So te seṭṭhino evamāha – ‘‘ahaṃ tumhākaṃ dīgharattaṃ upakārako, satthāraṃ bhojetukāmomhi, mayhampi ekadivasaṃ satthāraṃ dethā’’ti.
He said to those merchants, "I have been helpful to you for a long time. I wish to offer a meal to the Master. Please let me offer a meal to the Master for one day."
Ông ta nói với các vị trưởng giả ấy rằng: “Tôi đã phụng sự các ngài trong một thời gian dài, tôi muốn cúng dường Đức Đạo Sư, xin các ngài hãy cho tôi cúng dường Đức Đạo Sư một ngày.”
‘‘Tena hi bhaṇe sve bhojehī’’ti.
"Then, friend, offer the meal tomorrow."
“Vậy thì, này anh, ngày mai hãy cúng dường đi.”
‘‘Sādhu, sāmī’’ti so satthāraṃ nimantetvā sakkāraṃ paṭiyādesi.
"Very well, masters," he said, and having invited the Master, he prepared the offering.
“Vâng, thưa các chủ nhân.” Người làm vườn Sumana ấy đã thỉnh Đức Đạo Sư và chuẩn bị lễ vật.
Tadā rājā sāmāvatiyā devasikaṃ pupphamūle aṭṭha kahāpaṇe deti.
At that time, the king gave Sāmāvatī eight kahāpaṇas daily for flowers.
Vào thời đó, vua Udena mỗi ngày ban tám đồng tiền vàng cho hoàng hậu Sāmāvatī để mua hoa.
Tassā khujjuttarā nāma dāsī sumanamālākārassa santikaṃ gantvā nibaddhaṃ pupphāni gaṇhāti.
Her maidservant, named Khujjuttarā, regularly went to the garland-maker Sumana and obtained flowers.
Người tỳ nữ Khujjuttarā của hoàng hậu thường đến chỗ người làm vườn Sumana để mua hoa.
Atha naṃ tasmiṃ divase āgataṃ mālākāro āha – ‘‘mayā satthā nimantito, ajja pupphehi satthāraṃ pūjessāmi, tiṭṭha tāva, tvaṃ parivesanāya sahāyikā hutvā dhammaṃ sutvā avasesāni pupphāni gahetvā gamissasī’’ti.
Then, on that day, the garland-maker said to her when she arrived, "I have invited the Master. Today I will honor the Master with flowers. You wait here for a while, become a helper in serving the meal, listen to the Dhamma, and then take the remaining flowers and go."
Vào ngày đó, khi cô ấy đến, người làm vườn nói với cô: “Ta đã thỉnh Đức Đạo Sư, hôm nay ta sẽ cúng dường hoa cho Ngài. Này cô, hãy ở lại một lát, cô hãy giúp ta dâng cúng vật thực, lắng nghe giáo pháp, rồi sau đó hãy mang những bông hoa còn lại về.”
Sā ‘‘sādhū’’ti adhivāsesi.
She assented, saying, "Very well."
Cô ấy nói “Vâng” và chấp thuận.
Sumano buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ parivisitvā anumodanakaraṇatthāya pattaṃ aggahesi.
Sumana served the assembly of bhikkhus headed by the Buddha and then took the bowl to make the anumodanā.
Người làm vườn Sumana đã cúng dường Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu, rồi cầm bát để Đức Phật ban phước lành.
Satthā anumodanadhammadesanaṃ ārabhi.
The Master began the Dhamma discourse of anumodanā.
Đức Đạo Sư bắt đầu thuyết pháp ban phước lành.
Khujjuttarāpi satthu dhammakathaṃ suṇantīyeva sotāpattiphale patiṭṭhahi.
Khujjuttarā, while listening to the Master's Dhamma talk, became established in the fruit of Stream-entry.
Khujjuttarā cũng ngay khi nghe pháp thoại của Đức Đạo Sư đã an trú vào quả vị Dự Lưu.
Sā aññesu divasesu cattāro kahāpaṇe attano gahetvā catūhi pupphāni gahetvā gacchati, taṃ divasaṃ aṭṭhahipi pupphāni gahetvā gatā.
On other days, she would take four kahāpaṇas for herself and buy flowers for four (kahāpaṇas). That day, she took flowers for all eight (kahāpaṇas) and went.
Những ngày khác, cô ấy lấy bốn đồng tiền vàng cho mình và mang về hoa mua bằng bốn đồng tiền vàng còn lại. Ngày hôm đó, cô ấy mang về hoa mua bằng cả tám đồng tiền vàng.
Atha naṃ sāmāvatī āha – ‘‘kiṃ nu kho, amma, ajja amhākaṃ raññā dviguṇaṃ pupphamūlaṃ dinna’’nti?
Then Sāmāvatī said to her, "Mother, has our king given double the price for flowers today?"
Hoàng hậu Sāmāvatī bèn nói với cô: “Này chị, hôm nay nhà vua đã ban gấp đôi tiền hoa cho chúng ta sao?”
‘‘No, ayye’’ti.
"No, mistress."
“Không, thưa chủ mẫu.”
‘‘Atha kasmā bahūni pupphānī’’ti?
"Then why are there so many flowers?"
“Vậy tại sao lại có nhiều hoa thế?”
‘‘Aññesu divasesu ahaṃ cattāro kahāpaṇe attano gahetvā catūhi pupphāni āharāmī’’ti.
"On other days, I would take four kahāpaṇas for myself and bring flowers for four kahāpaṇas."
“Những ngày khác, tôi lấy bốn đồng tiền vàng cho mình và mang về hoa mua bằng bốn đồng tiền vàng.”
‘‘Ajja kasmā na gaṇhī’’ti?
"Why did you not take (any for yourself) today?"
“Hôm nay tại sao lại không lấy?”
‘‘Sammāsambuddhassa dhammakathaṃ sutvā dhammassa adhigatattā’’ti.
"Because I have realized the Dhamma after listening to the discourse of the Perfectly Enlightened One."
“Vì đã chứng đắc Pháp sau khi nghe pháp thoại của Đức Chánh Đẳng Giác.”
Atha naṃ ‘‘are, duṭṭhadāsi ettakaṃ kālaṃ tayā gahitakahāpaṇe me dehī’’ti atajjetvā, ‘‘amma, tayā pivitaṃ amataṃ amhepi pāyehī’’ti vatvā ‘‘tena hi maṃ nhāpehī’’ti vutte soḷasahi gandhodakaghaṭehi nhāpetvā dve maṭṭhasāṭake dāpesi.
Then, without scolding her, "Hey, you wicked maidservant, give me the kahāpaṇas you have taken for so long!" she said, "Mother, make us also drink the nectar that you have drunk," and when told, "Then bathe me," she had her bathed with sixteen perfumed water pots and gave her two clean garments.
Thay vì mắng cô ấy rằng: “Này con tỳ nữ hư hỏng, hãy trả lại số tiền vàng mà ngươi đã lấy bấy lâu nay,” hoàng hậu nói: “Này chị, chị đã uống cam lồ, xin hãy cho chúng tôi uống cam lồ ấy nữa.” Khi cô ấy nói: “Vậy thì xin hãy tắm cho tôi,” hoàng hậu đã cho người tắm cho cô ấy bằng mười sáu bình nước thơm và cho cô ấy hai bộ y phục sạch sẽ.
Sā ekaṃ nivāsetvā ekaṃ ekaṃsaṃ pārupitvā āsanaṃ paññāpetvā ekaṃ bījaniṃ āharāpetvā āsane nisīditvā citrabījaniṃ ādāya pañca mātugāmasatāni āmantetvā tāsaṃ satthārā desitaniyāmeneva dhammaṃ desesi.
She put on one and draped the other over one shoulder, arranged a seat, had a fan brought, and sitting on the seat, took a beautiful fan and addressed five hundred women, teaching them the Dhamma in the very manner taught by the Master.
Cô ấy mặc một bộ, khoác một bộ lên vai, sau khi sắp đặt chỗ ngồi và cho người mang một chiếc quạt đến, cô ấy ngồi trên ghế, cầm chiếc quạt đẹp và mời năm trăm người phụ nữ đến, rồi thuyết giảng giáo pháp cho họ đúng theo cách Đức Đạo Sư đã giảng.
Tassā dhammakathaṃ sutvā tā sabbāpi sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu.
Having heard her Dhamma talk, all of them became established in the fruit of Stream-entry.
Sau khi nghe pháp thoại của cô ấy, tất cả họ đều an trú vào quả vị Dự Lưu.
Tā sabbāpi khujjuttaraṃ vanditvā, ‘‘amma, ajjato paṭṭhāya tvaṃ kiliṭṭhakammaṃ mā kari, amhākaṃ mātuṭṭhāne ca ācariyaṭṭhāne ca ṭhatvā satthu santikaṃ gantvā satthārā desitaṃ dhammaṃ sutvā amhākaṃ kathehī’’ti vadiṃsu.
All those women paid homage to Khujjuttarā and said, "Mother, from today onwards, do not do any defiling work. Stay as our mother and teacher, go to the Master, listen to the Dhamma taught by Him, and relate it to us."
Tất cả họ đều đảnh lễ Khujjuttarā và nói: “Này chị, từ nay trở đi, chị đừng làm những công việc vất vả nữa. Xin chị hãy ở vị trí của mẹ và đạo sư của chúng tôi, đến chỗ Đức Đạo Sư, lắng nghe giáo pháp Ngài thuyết giảng rồi về kể lại cho chúng tôi nghe.”
Sā tathā karontī aparabhāge tipiṭakadharā jātā.
That Khujjuttarā, doing as they said, later became one who mastered the Tipiṭaka.
Cô ấy đã làm như vậy và sau này trở thành một người thông thạo Tam Tạng.
Atha naṃ satthā ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvikānaṃ upāsikānaṃ bahussutānaṃ dhammakathikānaṃ yadidaṃ khujjuttarā’’ti etadagge ṭhapesi.
Then the Teacher established her as foremost, saying, "Bhikkhus, among my female disciples who are lay followers, who are learned and skilled in expounding the Dhamma, this Khujjuttarā is the foremost."
Sau đó, Đức Đạo Sư đã đặt cô ấy vào vị trí đệ nhất (Etadagga) và nói: “Này các Tỳ-khưu, trong số các nữ cư sĩ đệ tử của Ta, Khujjuttarā là người đa văn và thiện xảo thuyết pháp bậc nhất.”
Tāpi kho pañcasatā itthiyo taṃ evamāhaṃsu – ‘‘amma, satthāraṃ daṭṭhukāmāmhā, taṃ no dassehi, gandhamālādīhi taṃ pūjessāmā’’ti.
And those five hundred women also said to her, "Mother, we wish to see the Teacher. Please show him to us. We will pay homage to him with scents, garlands, and so forth."
Năm trăm người phụ nữ ấy cũng nói với cô ấy: “Này chị, chúng tôi muốn nhìn thấy Đức Đạo Sư, xin chị hãy cho chúng tôi thấy Ngài, chúng tôi sẽ cúng dường Ngài bằng hương hoa, v.v.”
‘‘Ayye, rājakulaṃ nāma bhāriyaṃ, tumhe gahetvā bahi gantuṃ na sakkā’’ti.
She said, "Ladies, the royal palace is formidable; it is not possible to take you outside."
“Này các chủ mẫu, hoàng cung là nơi nghiêm ngặt, không thể đưa các chủ mẫu ra ngoài được.”
‘‘Amma, no mā nāsehi, dasseheva amhākaṃ satthāra’’nti.
"Mother, do not deny us; just show us the Teacher!"
“Này chị, xin đừng làm chúng tôi thất vọng, xin hãy cho chúng tôi thấy Đức Đạo Sư của chúng tôi.”
‘‘Tena hi tumhākaṃ vasanagabbhānaṃ bhittīsu yattakena oloketuṃ sakkā hoti, tattakaṃ chiddaṃ katvā gandhamālādīni āharāpetvā satthāraṃ tiṇṇaṃ seṭṭhīnaṃ gharadvāraṃ gacchantaṃ tumhe tesu tesu ṭhānesu ṭhatvā oloketha ceva, hatthe ca pasāretvā vandatha, pūjetha cā’’ti.
"In that case, make an opening in the walls of your living quarters, large enough for you to look through. Then, after bringing scents, garlands, and so forth, you may stand in those various places and look at the Teacher as he goes past the doors of the three merchants' houses, and you may stretch out your hands to worship and pay homage to him."
“Vậy thì, tại các bức tường của các phòng ở của các chủ mẫu, hãy khoét một lỗ vừa đủ để có thể nhìn ra, rồi cho người mang hương hoa, v.v. đến. Khi Đức Đạo Sư đi qua cửa nhà của ba vị trưởng giả, các chủ mẫu hãy đứng ở những chỗ ấy để nhìn, đưa tay ra đảnh lễ và cúng dường Ngài.”
Tā tathā katvā satthāraṃ gacchantañca āgacchantañca oloketvā vandiṃsu ceva pūjesuñca.
They did so, and having seen the Teacher going and coming, they both worshipped and paid homage to him.
Họ đã làm như vậy, nhìn thấy Đức Đạo Sư khi Ngài đi và đến, rồi đảnh lễ và cúng dường Ngài.
Athekadivasaṃ māgaṇḍiyā attano pāsādatalato nikkhamitvā caṅkamamānā tāsaṃ vasanaṭṭhānaṃ gantvā gabbhesu chiddaṃ disvā, ‘‘idaṃ ki’’nti pucchitvā, tāhi tassā satthari āghātabaddhabhāvaṃ ajānantīhi ‘‘satthā imaṃ nagaraṃ āgato, mayaṃ ettha ṭhatvā satthāraṃ vandāma ceva pūjema cā’’ti vutte, ‘‘āgato nāma imaṃ nagaraṃ samaṇo gotamo, idānissa kattabbaṃ jānissāmi, imāpi tassa upaṭṭhāyikā, imāsampi kattabbaṃ jānissāmī’’ti cintetvā gantvā rañño ārocesi – ‘‘mahārāja, sāmāvatimissikānaṃ bahiddhā patthanā atthi, katipāheneva te jīvitaṃ māressantī’’ti.
Then one day, Māgaṇḍiyā, stepping out from the terrace of her palace and strolling, went to their dwelling place. Seeing the holes in the rooms, she asked, "What is this?" Not knowing that they harbored resentment towards the Teacher, they replied, "The Teacher has arrived in this city, and we stand here to worship and pay homage to him." Thereupon, she thought, "The ascetic Gotama has indeed come to this city. Now I will see what is to be done with him. These women are also his attendants; I will see what is to be done with them too." Thinking this, she went and reported to the king, "Great King, Sāmāvatī and her companions have external aspirations; in a few days, they will take your life."
Một hôm, hoàng hậu Māgaṇḍiyā đi dạo từ sân thượng cung điện của mình, đến chỗ ở của họ, thấy các lỗ trên tường phòng, bèn hỏi: “Đây là gì?” Các phụ nữ ấy, không biết rằng hoàng hậu đã ôm lòng thù hận Đức Đạo Sư, bèn đáp: “Đức Đạo Sư đã đến thành phố này, chúng tôi đứng ở đây để đảnh lễ và cúng dường Ngài.” Hoàng hậu Māgaṇḍiyā bèn nghĩ: “Sa-môn Gotama đã đến thành phố này. Bây giờ ta sẽ biết phải làm gì với ông ta. Những người phụ nữ này cũng là người hầu cận của ông ta, ta cũng sẽ biết phải làm gì với họ.” Nghĩ vậy rồi, cô ta đi báo với nhà vua: “Đại vương, các phụ nữ của Sāmāvatī có ý đồ bên ngoài, trong vài ngày nữa họ sẽ giết hại mạng sống của Đại vương.”
Rājā ‘‘na tā evarūpaṃ karissantī’’ti na saddahi.
The king did not believe her, saying, "They would not do such a thing."
Nhà vua không tin, nói: “Họ sẽ không làm điều như vậy đâu.”
Punappunaṃ vuttepi na saddahi eva.
Even when told repeatedly, he still did not believe her.
Dù đã được tâu đi tâu lại nhiều lần, vua vẫn không tin.
Atha naṃ evaṃ tikkhattuṃ vuttepi asaddahantaṃ ‘‘sace me na saddahasi, tāsaṃ vasanaṭṭhānaṃ gantvā upacārehi, mahārājā’’ti āha.
Then, seeing that he still did not believe even after being told three times, she said to him, "If you do not believe me, Great King, go to their dwelling place and investigate."
Sau đó, khi đã nói như vậy ba lần mà vua vẫn không tin, bà ta nói: “Đại vương, nếu ngài không tin thiếp, xin hãy đến chỗ ở của họ mà điều tra.”
Rājā gantvā gabbhesu chiddaṃ disvā, ‘‘idaṃ ki’’nti pucchitvā, tasmiṃ atthe ārocite tāsaṃ akujjhitvā, kiñci avatvāva chiddāni pidahāpetvā sabbagabbhesu uddhacchiddakavātapānāni kāresi.
The king went and saw the holes in the rooms. When the matter was reported to him, he did not get angry with them. Without saying anything, he had the holes covered and had skylight windows made in all the rooms.
Vua đi đến, thấy các lỗ hổng trong các phòng, hỏi: “Cái này là gì?” Khi được báo cáo về sự việc đó, vua không giận họ, không nói lời nào, chỉ cho bịt các lỗ hổng lại và cho làm các cửa sổ thông hơi phía trên cho tất cả các phòng.
Uddhacchiddakavātapānāni kira tasmiṃ kāle uppannāni.
It is said that skylight windows appeared at that time.
Người ta nói rằng, các cửa sổ thông hơi phía trên đã xuất hiện vào thời điểm đó.
Māgaṇḍiyā tāsaṃ kiñci kātuṃ asakkuṇitvā, ‘‘samaṇassa gotamasseva kattabbaṃ karissāmī’’ti nāgarānaṃ lañjaṃ datvā, ‘‘samaṇaṃ gotamaṃ antonagaraṃ pavisitvā vicarantaṃ dāsakammakaraporisehi akkosetvā paribhāsetvā palāpethā’’ti āṇāpesi.
Māgaṇḍiyā, being unable to do anything to them, thought, "I will do what is to be done to the ascetic Gotama himself." She bribed the townspeople and commanded them, "When the ascetic Gotama enters the city and walks around, let the male and female servants and workers abuse and revile him and make him flee."
Māgaṇḍiyā không thể làm gì được họ, bèn nghĩ: “Ta sẽ làm những gì cần làm đối với Sa-môn Gotama.” Bà ta hối lộ cho dân chúng trong thành và ra lệnh: “Khi Sa-môn Gotama vào thành đi khất thực, hãy sai nô lệ, người làm công, và gia nhân chửi rủa, phỉ báng và xua đuổi Ngài.”
Micchādiṭṭhikā tīsu ratanesu appasannā antonagaraṃ paviṭṭhaṃ satthāraṃ anubandhitvā, ‘‘corosi, bālosi, mūḷhosi, oṭṭhosi, goṇosi, gadrabhosi, nerayikosi, tiracchānagatosi, natthi tuyhaṃ sugati, duggatiyeva tuyhaṃ pāṭikaṅkhā’’ti dasahi akkosavatthūhi akkosanti paribhāsanti.
The wrong-viewed people, who had no faith in the Three Jewels, followed the Teacher as he entered the city, abusing and reviling him with ten kinds of abusive language: "You are a thief, you are foolish, you are deluded, you are a camel, you are an ox, you are a donkey, you are one destined for hell, you are an animal, there is no good destiny for you, only a bad destiny is to be expected for you."
Những người tà kiến, không có niềm tin vào Tam Bảo, đã theo sau Đức Bổn Sư khi Ngài vào thành, chửi rủa và phỉ báng Ngài bằng mười loại lời lẽ thô tục: “Ngươi là kẻ trộm, là kẻ ngu dốt, là kẻ si mê, là lạc đà, là bò, là lừa, là kẻ sẽ đọa địa ngục, là loài súc sinh; không có thiện thú cho ngươi, chỉ có ác thú đang chờ đợi ngươi.”
Taṃ sutvā āyasmā ānando satthāraṃ etadavoca – ‘‘bhante, ime nāgarā amhe akkosanti paribhāsanti, ito aññattha gacchāmā’’ti.
Hearing that, Venerable Ānanda said to the Teacher, "Bhante, these townspeople are abusing and reviling us. Let us go elsewhere from here."
Nghe vậy, Tôn giả Ānanda bạch Đức Bổn Sư: “Bạch Thế Tôn, những người dân thành này đang chửi rủa và phỉ báng chúng con, chúng con hãy đi nơi khác, bạch Thế Tôn.”
‘‘Kuhiṃ, ānandoti’’?
"Where, Ānanda?"
“Đi đâu, Ānanda?”
‘‘Aññaṃ nagaraṃ, bhante’’ti.
"To another city, Bhante."
“Đến một thành phố khác, bạch Thế Tôn.”
‘‘Tattha manussesu akkosantesu puna kattha gamissāma, ānando’’ti?
"If the people there also abuse us, where shall we go then, Ānanda?"
“Nếu ở đó người ta cũng chửi rủa, thì chúng ta sẽ đi đâu nữa, Ānanda?”
‘‘Tatopi aññaṃ nagaraṃ, bhante’’ti.
"To yet another city, Bhante."
“Đến một thành phố khác nữa, bạch Thế Tôn.”
‘‘Tatthāpi manussesu akkosantesu kuhiṃ gamissāmā’’ti?
"And if the people there also abuse us, where shall we go?"
“Nếu ở đó người ta cũng chửi rủa, thì chúng ta sẽ đi đâu nữa?”
‘‘Tatopi aññaṃ nagaraṃ, bhante’’ti.
"To yet another city, Bhante."
“Đến một thành phố khác nữa, bạch Thế Tôn.”
‘‘Ānanda, evaṃ kātuṃ na vaṭṭati.
"Ānanda, it is not proper to do so.
“Ānanda, không nên làm như vậy.
Yattha adhikaraṇaṃ uppannaṃ, tattheva tasmiṃ vūpasante aññattha gantuṃ vaṭṭati.
Where a dispute has arisen, it is proper to go elsewhere only after it has subsided there.
Khi một tranh chấp phát sinh ở đâu, thì chỉ nên đi nơi khác sau khi tranh chấp đó đã được giải quyết ở chính nơi đó.
Ke pana te, ānanda, akkosantī’’ti?
And who are those who are abusing us, Ānanda?"
Nhưng này Ānanda, những kẻ đang chửi rủa đó là ai?”
‘‘Bhante, dāsakammakare upādāya sabbe akkosantī’’ti.
"Bhante, all of them are abusing us, from the servants and laborers upwards."
“Bạch Thế Tôn, tất cả mọi người, từ nô lệ cho đến người làm công, đều đang chửi rủa.”
‘‘Ahaṃ, ānanda, saṅgāmaṃ otiṇṇahatthisadiso, saṅgāmaṃ otiṇṇahatthino hi catūhi disāhi āgate sare sahituṃ bhāro, tatheva bahūhi dussīlehi kathitakathānaṃ sahanaṃ nāma mayhaṃ bhāro’’ti vatvā attānaṃ ārabbha dhammaṃ desento imā nāgavagge tisso gāthā abhāsi –
"Ānanda, I am like an elephant entered into battle. Indeed, for an elephant entered into battle, it is its duty to endure arrows coming from all four directions. Similarly, it is my duty to endure the words spoken by many unvirtuous people." Having said this, and intending to preach the Dhamma about himself, he uttered these three verses from the Nāga Vagga:
“Này Ānanda, Ta giống như một con voi đã vào trận chiến. Đối với một con voi đã vào trận chiến, việc chịu đựng những mũi tên bay đến từ bốn phương là một gánh nặng. Cũng vậy, việc chịu đựng những lời nói của nhiều người vô đạo đức là gánh nặng của Ta,” nói xong, Đức Bổn Sư đã thuyết pháp về chính mình, đọc ba bài kệ này trong phẩm Nāga:
Dhammakathā sampattamahājanassa sātthikā ahosi.
The discourse was beneficial to the large assembly that had gathered.
Trong loài người, người đã tự điều phục mình là bậc tối thượng,
Evaṃ dhammaṃ desetvā mā cintayi, ānanda, ete sattāhamattameva akkosissanti, aṭṭhame divase tuṇhī bhavissanti, buddhānañhi uppannaṃ adhikaraṇaṃ sattāhato uttari na gacchati.
Having thus taught the Dhamma, he said, "Ānanda, do not worry. These people will abuse us for only seven days. On the eighth day, they will become silent. Indeed, a dispute that arises for Buddhas does not last beyond seven days."
Người có thể nhẫn chịu lời lăng mạ.
Māgaṇḍiyā satthāraṃ akkosāpetvā palāpetuṃ asakkontī, ‘‘kiṃ nu kho karissāmī’’ti cintetvā, ‘‘imā etassa upatthambhabhūtā, etāsampi byasanaṃ karissāmī’’ti ekadivasaṃ rañño surāpānaṭṭhāne upaṭṭhānaṃ karontī cūḷapitu sāsanaṃ pahiṇi ‘‘attho me kira kukkuṭehi, aṭṭha matakukkuṭe, aṭṭha sajīvakukkuṭe ca gahetvā āgacchatu, āgantvā ca sopānamatthake ṭhatvā āgatabhāvaṃ nivedetvā ‘pavisatū’ti vuttepi apavisitvā paṭhamaṃ aṭṭha sajīvakukkuṭe pahiṇatu, ‘pacchā itare’’’ti.
Māgaṇḍiyā, being unable to make the Teacher flee by having him abused, thought, "What shall I do now? These women are his support. I will bring misfortune upon them too." One day, while attending to the king in the wine-drinking hall, she sent a message to her paternal uncle, "I need some chickens, please bring eight dead chickens and eight live chickens. When you arrive, stand at the top of the stairs, announce your arrival, and even if told 'enter,' do not enter. First, send in the eight live chickens, and 'afterwards the others'."
Tốt hơn là lừa thuần, ngựa giống Sindhu thuần,
Cūḷāpaṭṭhākassa ca ‘‘mama vacanaṃ kareyyāsī’’ti lañjaṃ adāsi.
She also gave a bribe to the young attendant, saying, "You must obey my words."
Và voi chúa vĩ đại thuần phục.
Māgaṇḍiyo āgantvā, rañño nivedāpetvā, ‘‘pavisatū’’ti vutte, ‘‘rañño āpānabhūmiṃ na pavisissāmī’’ti āha.
Māgaṇḍiya, the paternal uncle, came and, having announced his arrival to the king, was told "enter." He replied, "I will not enter the king's drinking hall."
Người tự điều phục mình còn tốt hơn thế.
Itarā cūḷupaṭṭhākaṃ pahiṇi – ‘‘gaccha, tāta, mama cūḷapitu santika’’nti.
The other Māgaṇḍiyā sent the young attendant,
Bài pháp thoại có lợi ích cho đại chúng đang hiện diện.
So gantvā tena dinne aṭṭha sajīvakukkuṭe ānetvā, ‘‘deva, purohitena paṇṇākāro pahito’’ti āha.
"Go, my boy, to my paternal uncle." He went, brought the eight live chickens given by the uncle, and said, "Your Majesty, the chaplain has sent a present."
Sau khi thuyết pháp như vậy, Đức Bổn Sư nói: “Này Ānanda, đừng lo lắng, những người này sẽ chửi rủa chỉ trong bảy ngày thôi, đến ngày thứ tám họ sẽ im lặng. Thật vậy, một tranh chấp phát sinh đối với chư Phật sẽ không kéo dài quá bảy ngày.”
Rājā ‘‘bhaddako vata no uttaribhaṅgo uppanno, ko nu kho paceyyā’’ti āha.
The king said, "Indeed, a good side dish has come for us. Who will cook it?"
Māgaṇḍiyā không thể khiến Đức Bổn Sư bị chửi rủa và xua đuổi, bèn suy nghĩ: “Ta phải làm gì đây?” Bà ta nghĩ: “Những người phụ nữ này là chỗ dựa của Sa-môn Gotama, ta cũng sẽ gây tai họa cho họ.” Một ngày nọ, khi đang hầu hạ vua tại nơi uống rượu, bà ta sai người gửi tin nhắn cho chú mình: “Xin hãy dùng thuốc độc tẩy sạch nọc độc của một con rắn và gửi đến cho cháu. Sau khi đến, hãy đứng trên đỉnh cầu thang, báo rằng mình đã đến, và dù được bảo ‘Hãy vào,’ cũng đừng vào ngay mà trước tiên hãy gửi tám con gà sống, sau đó mới gửi những con còn lại.”
Māgaṇḍiyā, ‘‘mahārāja, sāmāvatippamukhā pañcasatā itthiyo nikkammikā vicaranti, tāsaṃ pesehi, tā pacitvā āharissantī’’ti āha.
Māgaṇḍiyā said, "Great King, Sāmāvatī and her five hundred women are wandering about idly. Send them to her; they will cook and bring it."
Bà ta cũng hối lộ cho người hầu nhỏ, nói: “Hãy làm theo lời ta.”
Rājā ‘‘gaccha, tāsaṃ datvā aññassa kira hatthe adatvā sayameva māretvā pacantū’’ti pesesi.
The king said, "Go, give these to them. Tell them not to give them to anyone else but to kill and cook them themselves." He sent them.
Chú Māgaṇḍiya đến, báo cho vua, và khi được bảo “Hãy vào,” ông ta nói: “Tôi sẽ không vào nơi uống rượu của vua.”
Cūḷupaṭṭhāko ‘‘sādhu devā’’ti gantvā tathā vatvā tāhi ‘‘mayaṃ pāṇātipātaṃ na karomā’’ti paṭikkhitto āgantvā tamatthaṃ rañño ārocesi.
The young attendant replied, "Yes, Your Majesty," and went. Having said as commanded, he was rejected by them, saying, "We do not take life." He returned and reported the matter to the king.
Bà Māgaṇḍiyā sai người hầu nhỏ đi: “Con trai, hãy đến chỗ chú của ta.”
Māgaṇḍiyā ‘‘diṭṭhaṃ te, mahārāja, idāni tāsaṃ pāṇātipātassa karaṇaṃ vā akaraṇaṃ vā jānissasi, ‘samaṇassa gotamassa pacitvā pesentū’ti vadehi devā’’ti āha.
Māgaṇḍiyā said, "Have you seen, Great King? Now you will know whether they commit pāṇātipāta or not. Say, Your Majesty, 'Let them cook and send it to the ascetic Gotama.'"
Người đó đi, mang về tám con gà sống do chú Māgaṇḍiya đưa, và tâu: “Thưa Đại vương, vị đạo sĩ đã gửi lễ vật đến.”
Rājā tathā vatvā pesesi.
The king spoke accordingly and sent them.
Vua nói: “Chúng ta có một món ăn kèm thật ngon, ai sẽ nấu đây?”
Itaro te gahetvā gacchanto viya hutvā gantvā te kukkuṭe purohitassa datvā matakukkuṭe tāsaṃ santikaṃ netvā, ‘‘ime kira kukkuṭe pacitvā satthu santikaṃ pahiṇathā’’ti āha.
The other, pretending to take them and go, went and gave those live chickens to the purohita, and bringing the dead chickens to them, said, "Please cook these chickens and send them to the Teacher."
Māgaṇḍiyā tâu: “Đại vương, năm trăm người phụ nữ, đứng đầu là Sāmāvatī, đang sống nhàn rỗi. Xin hãy gửi chúng cho họ, họ sẽ nấu và mang đến.”
Tā, ‘‘sāmi, āhara, idaṃ nāma amhākaṃ kicca’’nti paccuggantvā gaṇhiṃsu.
They, coming forward, took them, saying, "Master, bring them; this is indeed our task."
Vua nói: “Hãy đi, đưa cho họ, và nói rằng họ hãy tự mình giết và nấu, đừng đưa cho người khác.”
So rañño santikaṃ gantvā, ‘‘kiṃ, tātā’’ti puṭṭho, ‘‘samaṇassa gotamassa pacitvā pesethāti vuttamatteyeva paṭimaggaṃ āgantvā gaṇhiṃsū’’ti ācikkhi.
He went to the king and, when asked, "What is it, my dear?", he reported, "As soon as I said 'Cook and send them to Samaṇa Gotama,' they came to meet me on the road and took them."
Người hầu nhỏ nói: “Vâng, thưa Đại vương,” rồi đi và nói như vậy. Bị các người phụ nữ từ chối, nói: “Chúng tôi không sát sinh,” người đó trở về và báo lại sự việc cho vua.
Māgaṇḍiyā ‘‘passa, mahārāja, na tā tumhādisānaṃ karonti, bahiddhā patthanā tāsaṃ atthīti vutte na saddahasī’’ti āha.
Māgaṇḍiyā said, "Look, great king, they do not do it for people like you; they have external desires, and you do not believe it when I tell you."
Māgaṇḍiyā nói: “Đại vương, ngài thấy chưa? Họ không làm việc cho những người như ngài. Ngài không tin khi thiếp nói rằng họ có những ham muốn bên ngoài.”
Rājā taṃ sutvāpi adhivāsetvā tuṇhīyeva ahosi.
The king, even after hearing that, endured it and remained silent.
Vua nghe vậy cũng nhẫn nhịn và im lặng.
Māgaṇḍiyā ‘‘kiṃ nu kho karissāmī’’ti cintesi.
Māgaṇḍiyā thought, "What shall I do now?"
Māgaṇḍiyā suy nghĩ: “Ta phải làm gì đây?”
Tadā pana rājā ‘‘sāmāvatiyā vāsuladattāya māgaṇḍiyāya cā’’ti tissannampi etāsaṃ pāsādatale vārena vārena sattāhaṃ sattāhaṃ vītināmeti.
At that time, the king used to spend seven days each in turn on the palace terrace of Sāmāvatī, Vāsuladattā, and Māgaṇḍiyā.
Lúc đó, nhà vua luân phiên ở trên lầu cung điện của ba người phụ nữ này – Sāmāvatī, Vāsuladattā, và Māgaṇḍiyā – mỗi người bảy ngày.
Atha naṃ ‘‘sve vā parasuve vā sāmāvatiyā pāsādatalaṃ gamissatī’’ti ñatvā māgaṇḍiyā cūḷapitu sāsanaṃ pahiṇi – ‘‘agadena kira dāṭhā dhovitvā ekaṃ sappaṃ pesetū’’ti.
Then, knowing that the king "will go to Sāmāvatī's palace terrace tomorrow or the day after," Māgaṇḍiyā sent a message to her maternal uncle, saying, "Please send a snake whose fangs have been cleansed with an antidote."
Biết rằng vua “sẽ đến lầu cung điện của Sāmāvatī vào ngày mai hoặc ngày kia,” Māgaṇḍiyā sai người gửi tin nhắn cho chú mình: “Xin hãy dùng thuốc giải độc để làm sạch nanh của một con rắn và gửi đến.”
So tathā katvā pesesi.
He did so and sent it.
Ông ta làm như vậy và gửi đến.
Rājā attano gamanaṭṭhānaṃ hatthikantavīṇaṃ ādāyayeva gacchati, tassā pokkhare ekaṃ chiddaṃ atthi.
The king always went to his destination taking his elephant-bellied lute with him; there was a hole in its belly.
Vua thường mang theo cây đàn hạc có hình con voi khi đi đến nơi mình muốn, và có một lỗ trên thân đàn.
Māgaṇḍiyā tena chiddena sappaṃ pavesetvā chiddaṃ mālāguḷena thakesi.
Māgaṇḍiyā inserted the snake through that hole and blocked the hole with a flower garland.
Māgaṇḍiyā nhét con rắn vào qua lỗ đó và bịt lỗ lại bằng một búi hoa.
Sappo dvīhatīhaṃ antovīṇāyameva ahosi.
The snake remained inside the lute for two or three days.
Con rắn ở trong cây đàn hạc hai ba ngày.
Māgaṇḍiyā rañño gamanadivase ‘‘ajja katarissitthiyā pāsādaṃ gamissasi devā’’ti pucchitvā ‘‘sāmāvatiyā’’ti vutte, ‘‘ajja mayā, mahārāja, amanāpo supino diṭṭho.
On the day of the king's departure, Māgaṇḍiyā asked, "Your Majesty, to which woman's palace will you go today?" When he said, "To Sāmāvatī's," she said, "Today, great king, I had an unpleasant dream.
Vào ngày vua đi, Māgaṇḍiyā hỏi: “Đại vương, hôm nay ngài sẽ đến cung điện của người phụ nữ nào?” Khi vua nói: “Của Sāmāvatī,” bà ta nói: “Hôm nay, Đại vương, thiếp đã nằm mơ thấy một giấc mơ không tốt lành.
Na sakkā tattha gantuṃ, devā’’ti?
It is not proper to go there, Your Majesty."
Không thể đến đó được, Đại vương.”
‘‘Gacchāmevā’’ti.
"We shall certainly go."
“Chúng ta cứ đi thôi.”
Sā yāva tatiyaṃ vāretvā, ‘‘evaṃ sante ahampi tumhehi saddhiṃ gamissāmi, devā’’ti vatvā nivattiyamānāpi anivattitvā, ‘‘na jānāmi, kiṃ bhavissati devā’’ti raññā saddhiṃyeva agamāsi.
She tried to dissuade him three times, but when he was not dissuaded, she said, "I do not know what will happen, Your Majesty," and went with the king.
Bà ta ngăn cản đến ba lần, rồi nói: “Nếu vậy, thiếp cũng sẽ đi cùng ngài, Đại vương,” và dù bị bảo quay lại, bà ta vẫn không quay lại, nói: “Thiếp không biết điều gì sẽ xảy ra, Đại vương,” rồi đi cùng vua.
Rājā sāmāvatimissikāhi dinnāni vatthapupphagandhābharaṇāni dhāretvā subhojanaṃ bhuñjitvā vīṇaṃ ussīsake ṭhapetvā sayane nipajji.
The king, adorned with clothes, flowers, perfumes, and ornaments given by Sāmāvatī and her attendants, ate a good meal, placed his lute at the head of his bed, and lay down on the couch.
Vua mặc quần áo, hoa, hương liệu và trang sức do Sāmāvatī và các người phụ nữ khác dâng tặng, dùng bữa ăn ngon, đặt cây đàn hạc ở đầu giường và nằm xuống.
Māgaṇḍiyā aparāparaṃ vicarantī viya hutvā vīṇāchiddato pupphaguḷaṃ apanesi.
Māgaṇḍiyā, acting as if she was moving about, removed the flower garland from the hole in the lute.
Māgaṇḍiyā giả vờ đi lại đây đó, rồi rút búi hoa ra khỏi lỗ của cây đàn hạc.
Sappo dvīhatīhaṃ nirāhāro tena chiddena nikkhamitvā passasanto phaṇaṃ katvā sayanapiṭṭhe nipajji.
The snake, having been without food for two or three days, emerged through that hole, hissing, raised its hood, and lay down on the bed.
Con rắn đã nhịn ăn hai ba ngày, chui ra khỏi lỗ đó, thở phì phì, phùng mang và nằm trên giường.
Māgaṇḍiyā taṃ disvā, ‘‘dhī dhī, deva, sappo’’ti mahāsaddaṃ katvā rājānañca tā ca akkosantī, ‘‘ayaṃ andhabālarājā alakkhiko mayhaṃ vacanaṃ na suṇāti, imāpi nissirīkā dubbinītā, kiṃ nāma rañño santikā na labhanti, kiṃ nu tumhe imasmiṃ mateyeva sukhaṃ jīvissatha, jīvante dukkhaṃ jīvatha, ‘ajja mayā pāpasupino diṭṭho, sāmāvatiyā pāsādaṃ gantuṃ na vaṭṭatī’ti vārentiyāpi me vacanaṃ na suṇasi, devā’’ti āha.
Māgaṇḍiyā, seeing it, made a loud noise, crying, "Oh, oh, Your Majesty, a snake!" and reviling both the king and the women, she said, "This blind, foolish king, devoid of auspiciousness, does not listen to my words. These women too are luckless and ill-disciplined. What indeed do they not receive from the king? Do you live happily only when this king is dead, and live miserably while he is alive? Your Majesty, you do not listen to my words, even though I warned you, saying, 'Today I had a bad dream, it is not proper to go to Sāmāvatī's palace.'"
Māgaṇḍiyā thấy con rắn đó liền lớn tiếng kêu lên: “Ôi! Ôi! Tâu Đại vương, rắn!” rồi chửi rủa nhà vua và các nàng ấy: “Vị vua ngu si, mù quáng này thật bất hạnh, không nghe lời ta. Những người đàn bà này cũng bất hạnh và hư hỏng. Các ngươi không nhận được gì từ nhà vua ư? Hay các ngươi sẽ sống sung sướng nếu ngài chết, và sống khổ sở nếu ngài còn sống? Tâu Đại vương, dù ta đã ngăn cản rằng ‘Hôm nay ta đã thấy một điềm ác trong giấc mơ, không nên đến cung điện của Sāmāvatī’, nhưng ngài vẫn không nghe lời ta!”
Rājā sappaṃ disvā maraṇabhayatajjito ‘‘evarūpampi nāma imā karissanti, aho pāpā, ahaṃ imāsaṃ pāpabhāvaṃ ācikkhantiyāpi imissā vacanaṃ na saddahiṃ, paṭhamaṃ attano gabbhesu chiddāni katvā nisinnā, puna mayā pesite kukkuṭe paṭipahiṇiṃsu, ajja sayane sappaṃ vissajjiṃsū’’ti kodhena sampajjalito viya ahosi.
The king, seeing the snake and terrified by the fear of death, became as if ablaze with anger, thinking, "These women would even do such a thing! Oh, how wicked! Even though she told me about their wickedness, I did not believe her words. First, they made holes in their own wombs, then they sent back the chickens I sent, and today they released a snake on the bed."
Nhà vua thấy con rắn, sợ chết run rẩy, nghĩ: “Những người đàn bà này dám làm chuyện như vậy ư? Ôi, thật độc ác! Dù Māgaṇḍiyā đã nói cho ta biết sự độc ác của họ, ta vẫn không tin lời nàng. Trước tiên, họ đã đục lỗ trong các căn phòng của mình và ngồi đó. Sau đó, khi ta sai gà đến, họ lại gửi trả. Hôm nay, họ đã thả rắn vào giường ngủ.” Nhà vua giận dữ như bốc cháy.
Atha naṃ sā purimanayeneva puna paṭikkhipitvā, ‘‘tena hi tvañca saraṇaṃ gacchāmi, satthārañca saraṇaṃ gacchāmi, varañca te dammī’’ti vutte, ‘‘varo gahito hotu, mahārājā’’ti āha.
He went to the Teacher, took refuge, invited him, and offered a great alms-giving for seven days to the Sangha led by the Buddha. Then, calling Sāmāvatī, he said, “Arise, take a boon.”
Sau đó, nàng từ chối ngài theo cách trước đó. Khi ngài nói: “Vậy thì, ta cũng sẽ nương tựa vào nàng, và ta cũng sẽ nương tựa vào Đức Đạo Sư, và ta sẽ ban cho nàng một ân huệ,” nàng đáp: “Tâu Đại vương, xin ân huệ đã được chấp nhận.”
So satthāraṃ upasaṅkamitvā saraṇaṃ gantvā nimantetvā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa sattāhaṃ mahādānaṃ datvā sāmāvatiṃ āmantetvā, ‘‘uṭṭhehi, varaṃ gaṇhā’’ti āha.
“O Great King, I have no need for gold or other treasures. But grant me this boon: arrange it so that the Teacher, along with five hundred bhikkhus, comes here regularly, so that I may listen to the Dhamma.”
Ngài đến gặp Đức Đạo Sư, nương tựa vào Ngài, rồi cung thỉnh và dâng đại lễ cúng dường chư Tăng do Đức Phật dẫn đầu trong bảy ngày. Sau đó, ngài gọi Sāmāvatī và nói: “Hãy đứng dậy, và nhận ân huệ đi.”
‘‘Mahārāja, mayhaṃ hiraññādīhi attho natthi, imaṃ pana me varaṃ dehi, tathā karohi, yathā satthā nibaddhaṃ pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ idhāgacchati, dhammaṃ suṇissāmī’’ti.
The king bowed to the Teacher and said, “Venerable Sir, please come here regularly with five hundred bhikkhus, for Sāmāvatī and her companions say, ‘We wish to listen to the Dhamma.’”
Nàng đáp: “Tâu Đại vương, thiếp không cần vàng bạc hay những thứ tương tự. Xin ngài hãy ban cho thiếp ân huệ này: hãy sắp xếp sao cho Đức Đạo Sư thường xuyên đến đây cùng năm trăm vị Tỳ-khưu, để chúng thiếp có thể nghe Pháp.”
Rājā satthāraṃ vanditvā, ‘‘bhante, pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ nibaddhaṃ idhāgacchatha, sāmāvatimissikā ‘dhammaṃ suṇissāmā’ti vadantī’’ti āha.
“O Great King, it is not proper for Buddhas to go to one place regularly, for the great multitude awaits the Teacher’s coming.”
Nhà vua đảnh lễ Đức Đạo Sư và nói: “Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy thường xuyên đến đây cùng năm trăm vị Tỳ-khưu. Sāmāvatī và các nàng muốn nghe Pháp.”
‘‘Mahārāja, buddhānaṃ nāma ekasmiṃ ṭhāne nibaddhaṃ gantuṃ na vaṭṭati, mahājano satthāraṃ āgamanatthāya paccāsīsatī’’ti.
“In that case, Venerable Sir, please send one bhikkhu.”
Đức Thế Tôn đáp: “Tâu Đại vương, các vị Phật không nên thường xuyên đến một nơi duy nhất. Đại chúng sẽ mong đợi Đức Đạo Sư đến.”
‘‘Tena hi, bhante, ekaṃ bhikkhuṃ āṇāpethā’’ti.
The Teacher sent the Elder Ānanda.
“Vậy thì, bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy cử một vị Tỳ-khưu đến.”
Satthā ānandattheraṃ āṇāpesi.
From then on, he regularly went to the royal palace with five hundred bhikkhus.
Đức Đạo Sư đã cử Trưởng lão Ānanda.
So tato paṭṭhāya pañca bhikkhusatāni ādāya nibaddhaṃ rājakulaṃ gacchati.
The queens also regularly fed the Elder and his retinue, and listened to the Dhamma.
Kể từ đó, ngài thường xuyên đến cung vua cùng năm trăm vị Tỳ-khưu.
Tāpi deviyo nibaddhaṃ theraṃ saparivāraṃ bhojenti, dhammaṃ suṇanti.
One day, after listening to the Elder’s Dhamma talk, they were pleased and offered five hundred upper robes as an offering to the Dhamma.
Các hoàng hậu cũng thường xuyên cúng dường Trưởng lão và tùy tùng của ngài, và nghe Pháp.
Tā ekadivasaṃ therassa dhammakathaṃ sutvā pasīditvā, pañcahi uttarāsaṅgasatehi dhammapūjaṃ akaṃsu.
Each upper robe was worth five hundred*.
Một ngày nọ, sau khi nghe bài Pháp của Trưởng lão, các nàng hoan hỷ và cúng dường Pháp với năm trăm chiếc y thượng y.
Ekeko uttarāsaṅgo pañca satāni pañca satāni agghati.
Seeing them wearing only one garment, the king asked, “Where are your upper robes?”
Mỗi chiếc y thượng y trị giá năm trăm (đồng tiền).
Tā ekavatthā disvā rājā pucchi – ‘‘kuhiṃ vo uttarāsaṅgo’’ti.
“They were given to the venerable one.”
Thấy các nàng chỉ mặc một bộ y, nhà vua hỏi: “Y thượng y của các nàng đâu?”
‘‘Ayyassa no dinnā’’ti.
“So, were all of them taken?”
“Chúng thiếp đã cúng dường cho Ngài Ānanda.”
‘‘Tena sabbe gahitā’’ti?
“Yes, they were taken.”
“Vậy là ngài đã nhận tất cả sao?”
‘‘Āma, gahitā’’ti.
The king approached the Elder, paid homage, and asked about the offering of the upper robes by the queens. Hearing that they had given them and that the Elder had accepted them, he asked, “Venerable Sir, are not these robes too many? What will you do with so many?”
“Vâng, đã nhận hết.”
Rājā theraṃ upasaṅkamitvā vanditvā tāhi uttarāsaṅgānaṃ dinnabhāvaṃ pucchitvā tāhi dinnabhāvañca therena gahitabhāvañca sutvā, ‘‘nanu, bhante, atibahūni vatthāni, ettakehi kiṃ karissathā’’ti pucchi.
“I will take enough robes for ourselves, O Great King, and give the rest to bhikkhus with worn-out robes.”
Nhà vua đến gặp Trưởng lão, đảnh lễ, hỏi về việc các nàng đã cúng dường y thượng y. Sau khi nghe rằng các nàng đã cúng dường và Trưởng lão đã nhận, ngài hỏi: “Bạch Thế Tôn, chẳng phải y phục quá nhiều sao? Ngài sẽ làm gì với ngần ấy y phục?”
‘‘Amhākaṃ pahonakāni vatthāni gaṇhitvā sesāni jiṇṇacīvarikānaṃ bhikkhūnaṃ dassāmi, mahārājā’’ti.
“What will they do with their own worn-out robes?”
“Tâu Đại vương, chúng tôi sẽ giữ lại những y phục đủ dùng cho mình, còn lại sẽ bố thí cho các Tỳ-khưu có y phục cũ rách.”
‘‘Te attano jiṇṇacīvarāni kiṃ karissantī’’ti?
“They will give them to bhikkhus with even more worn-out robes.”
“Họ sẽ làm gì với y phục cũ rách của mình?”
‘‘Jiṇṇataracīvarikānaṃ dassantī’’ti.
“What will they do with their own even more worn-out robes?”
“Họ sẽ bố thí cho những vị có y phục cũ rách hơn.”
‘‘Te attano jiṇṇataracīvarāni kiṃ karissantī’’ti?
“They will make them into coverings.”
“Họ sẽ làm gì với y phục cũ rách hơn của mình?”
‘‘Paccattharaṇāni karissantī’’ti.
“What will they do with the old coverings?”
“Họ sẽ dùng làm chiếu trải.”
‘‘Purāṇapaccattharaṇāni kiṃ karissantī’’ti?
“They will make them into ground coverings.”
“Họ sẽ làm gì với chiếu trải cũ?”
‘‘Bhūmattharaṇāni karissantī’’ti.
‘They will make ground coverings.’
“Họ sẽ dùng làm thảm trải sàn.”
‘‘Purāṇabhūmattharaṇāni kiṃ karissantī’’ti?
‘What will they do with the old ground coverings?’
“Họ sẽ làm gì với thảm trải sàn cũ?”
‘‘Pādapuñchanāni karissanti, mahārājā’’ti.
‘They will make foot-wipers, great king.’
“Họ sẽ dùng làm giẻ lau chân, tâu Đại vương.”
‘‘Purāṇapādapuñchanāni kiṃ karissantī’’ti?
‘What will they do with the old foot-wipers?’
“Họ sẽ làm gì với giẻ lau chân cũ?”
‘‘Khaṇḍākhaṇḍikaṃ koṭṭetvā mattikāya madditvā bhittiṃ limpissantī’’ti.
‘They will cut them into small pieces, pound them, mix them with clay, and plaster the walls with them.’
“Họ sẽ cắt thành từng mảnh nhỏ, trộn với đất sét và trát tường.”
‘‘Bhante, ettakāni katvāpi ayyānaṃ dinnāni na nassantī’’ti?
‘Venerable sir, even after doing all this, the robes given to the noble ones are not wasted, are they?’
“Bạch Thế Tôn, ngay cả khi đã làm tất cả những việc đó, những gì đã cúng dường cho các ngài vẫn không bị mất đi sao?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
‘Yes, great king.’
“Vâng, tâu Đại vương.”
Rājā pasanno aparānipi pañca vatthasatāni āharāpetvā therassa pādamūle ṭhapāpesi.
The king, pleased, had another five hundred robes brought and placed at the Elder’s feet.
Nhà vua hoan hỷ, sai mang thêm năm trăm bộ y phục nữa đến và đặt dưới chân Trưởng lão.
Thero kira pañcasatagghanakāneva vatthāni pañcasatabhāgena pādamūle ṭhapetvā dinnāni pañcasatakkhattuṃ labhi, sahassagghanakāni sahassabhāgena pādamūle ṭhapetvā dinnāni sahassakkhattuṃ labhi, satasahassagghanakāni satasahassabhāgena pādamūle ṭhapetvā dinnāni satasahassakkhattuṃ labhi.
The Elder, it is said, received five hundred times the robes worth five hundred, which were placed at his feet; he received a thousand times the robes worth a thousand, which were placed at his feet; and he received a hundred thousand times the robes worth a hundred thousand, which were placed at his feet.
Nghe nói, Trưởng lão đã nhận được y phục trị giá năm trăm (đồng tiền) năm trăm lần khi chúng được đặt dưới chân ngài theo tỷ lệ năm trăm; đã nhận được y phục trị giá một ngàn (đồng tiền) một ngàn lần khi chúng được đặt dưới chân ngài theo tỷ lệ một ngàn; đã nhận được y phục trị giá một trăm ngàn (đồng tiền) một trăm ngàn lần khi chúng được đặt dưới chân ngài theo tỷ lệ một trăm ngàn.
Ekaṃ dve tīṇi cattāri pañca dasātiādinā nayena laddhānaṃ pana gaṇanā nāma natthi.
However, there is no counting the robes received in the manner of one, two, three, four, five, ten, and so on.
Tuy nhiên, không thể đếm được số lượng y phục đã nhận theo cách một, hai, ba, bốn, năm, mười, v.v.
Tathāgate kira parinibbute thero sakalajambudīpaṃ vicaritvā sabbavihāresu bhikkhūnaṃ attano santakāneva pattacīvarāni adāsi.
It is said that after the Tathāgata had attained final Nibbāna, the Elder traveled throughout the entire Jambudīpa, giving his own bowls and robes to the bhikkhus in all the monasteries.
Nghe nói, sau khi Đức Như Lai nhập Niết-bàn, Trưởng lão đã du hành khắp toàn cõi Jambudīpa và bố thí y bát của chính mình cho các Tỳ-khưu ở tất cả các tu viện.
Tadā māgaṇḍiyāpi ‘‘yamahaṃ karomi.
Then Māgaṇḍiyā also thought, “Whatever I do,
Lúc đó, Māgaṇḍiyā cũng nghĩ: “Những gì ta làm đều không thành công mà lại trở thành một cách khác. Giờ ta phải làm gì đây?” Rồi nàng nghĩ: “Có cách này!” Khi nhà vua đi chơi vườn, nàng gửi một thông điệp cho chú của mình:
Taṃ tathā ahutvā aññathāva hoti, idāni kiṃ nu kho karissāmī’’ti cintetvā, ‘‘attheso upāyo’’ti raññe uyyānakīḷaṃ gacchante cūḷapitu sāsanaṃ pahiṇi – ‘‘sāmāvatiyā pāsādaṃ gantvā, dussakoṭṭhāgārāni ca telakoṭṭhāgārāni ca vivarāpetvā, dussāni telacāṭīsu temetvā temetvā thambhe veṭhetvā tā sabbāpi ekato katvā dvāraṃ pidahitvā bahi yantakaṃ datvā daṇḍadīpikāhi gehe aggiṃ dadamāno otaritvā gacchatū’’ti.
it does not turn out as intended but otherwise. What shall I do now?” Thinking, “There is this stratagem,” she sent a message to the king’s uncle when the king went to play in the park: “Go to Sāmāvatī’s palace, have the cloth storerooms and oil storerooms opened, soak the cloths repeatedly in oil jars, wrap them around the pillars, gather all the women together, close the door, lock it from the outside, and then, setting fire to the house with torches, descend and leave.”
“Hãy đến cung điện của Sāmāvatī, mở các kho chứa y phục và kho chứa dầu, nhúng y phục vào các chum dầu, rồi quấn quanh các cột. Sau đó, gom tất cả các nàng lại một chỗ, đóng cửa, khóa bên ngoài, rồi dùng đuốc châm lửa vào nhà và đi xuống.”
So pāsādaṃ abhiruyha koṭṭhāgārāni vivaritvā vatthāni telacāṭīsu temetvā temetvā thambhe veṭhetuṃ ārabhi.
So he ascended the palace, opened the storerooms, and began to soak cloths repeatedly in oil jars and wrap them around the pillars.
Chú của nàng leo lên cung điện, mở các kho chứa, và bắt đầu nhúng y phục vào các chum dầu rồi quấn quanh các cột.
Atha naṃ sāmāvatippamukhā itthiyo ‘‘kiṃ etaṃ cūḷapitā’’ti vadantiyo upasaṅkamiṃsu.
Then the women, led by Sāmāvatī, approached him, saying, “Uncle, what is this?”
Lúc đó, các nàng phụ nữ do Sāmāvatī dẫn đầu đến gần và hỏi: “Chú ơi, cái gì vậy ạ?”
‘‘Ammā, rājā daḷhikammatthāya ime thambhe telapilotikāhi veṭhāpeti, rājagehe nāma suyuttaṃ duyuttaṃ dujjānaṃ, mā me santike hotha, ammā’’ti evaṃ vatvā tā āgatā gabbhe pavesetvā dvārāni pidahitvā bahi yantakaṃ datvā ādito paṭṭhāya aggiṃ dento otari.
He said, “My dear daughters, the king is having these pillars wrapped with oil-soaked cloths for strengthening. In a royal palace, what is proper and what is improper is hard to know. Do not stay near me, my dear daughters.” Having said this, he led the women who had come into the inner chamber, closed the doors, locked them from the outside, and then, setting fire to the house from the beginning, descended.
"Mẹ ơi, nhà vua đang sai quấn những cây cột này bằng vải tẩm dầu để gia cố, trong cung vua thì chuyện đúng sai, chuyện nên hay không nên làm rất khó biết. Mẹ đừng ở gần con, mẹ ơi!" Nói vậy, ông ta đưa những người phụ nữ đã đến vào phòng, đóng cửa lại, khóa chốt bên ngoài, rồi bắt đầu châm lửa từ dưới mà đi xuống.
Sāmāvatī tāsaṃ ovādaṃ adāsi – ‘‘amhākaṃ anamatagge saṃsāre vicarantīnaṃ evameva agginā jhāyamānānaṃ attabhāvānaṃ paricchedo buddhañāṇenapi na sukaro, appamattā hothā’’ti.
Sāmāvatī gave them advice: “For us, wandering in this beginningless Saṃsāra, the limit of our existences, which have been burned by fire in this very way, is not easy to ascertain even with the Buddha’s knowledge. Be diligent!”
Sāmāvatī đã khuyên nhủ họ: "Trong vòng luân hồi vô thủy vô chung của chúng ta, những thân thể bị lửa thiêu đốt như vậy nhiều không kể xiết, ngay cả trí tuệ của Đức Phật cũng khó mà tính hết được. Hãy sống không phóng dật!"
Tā gehe jhāyante vedanāpariggahakammaṭṭhānaṃ manasikarontiyo kāci dutiyaphalaṃ, kāci tatiyaphalaṃ pāpuṇiṃsu.
While the house was burning, they focused on the meditation subject of comprehending feeling, and some attained the second fruit (Sakadāgāmī-phala), and some attained the third fruit (Anāgāmī-phala).
Khi lửa cháy trong nhà, họ đã chú tâm vào đề mục quán thọ, một số đạt được quả vị thứ hai (Nhất Lai), một số đạt được quả vị thứ ba (Bất Hoàn).
Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho sambahulā bhikkhū pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘idha, bhante, rañño utenassa uyyānagatassa antepuraṃ daḍḍhaṃ, pañca ca itthisatāni kālakatāni sāmāvatippamukhāni.
Therefore, it was said: “Then, a number of bhikkhus, having returned from their alms-round after their meal, approached the Blessed One. Having approached and paid homage to the Blessed One, they sat down to one side. As they sat to one side, those bhikkhus said to the Blessed One: ‘Here, Venerable sir, while King Udena was in the park, his inner palace was burned down, and five hundred women, led by Sāmāvatī, have passed away.
Vì vậy, đã được nói rằng: "Sau đó, nhiều Tỳ-khưu, sau khi thọ trai và trở về từ khất thực, đã đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỳ-khưu ấy đã bạch với Đức Thế Tôn rằng: 'Bạch Ngài, ở đây, nội cung của vua Utena đã bị cháy, năm trăm người phụ nữ, đứng đầu là Sāmāvatī, đã qua đời.
Tāsaṃ, bhante, upāsikānaṃ kā gati, ko abhisamparāyo’ti?
Venerable sir, what is the destiny of those female lay followers? What is their future state?’
Bạch Ngài, những nữ cư sĩ ấy đã tái sinh vào cảnh giới nào, và tương lai của họ ra sao?'
Santettha, bhikkhave, upāsikāyo sotāpannā, santi sakadāgāmiyo, santi anāgāmiyo, sabbā tā, bhikkhave, upāsikāyo anipphalā kālakatā’’ti.
‘Bhikkhus, among these female lay followers, there are Stream-Enterers, there are Once-Returners, there are Non-Returners. All those female lay followers, bhikkhus, have passed away having achieved their fruits.’
Này các Tỳ-khưu, trong số những nữ cư sĩ này, có những vị đã chứng quả Dự Lưu, có những vị đã chứng quả Nhất Lai, có những vị đã chứng quả Bất Hoàn. Này các Tỳ-khưu, tất cả những nữ cư sĩ ấy đã qua đời mà không mất đi thành quả (đạo quả) của mình."
Atha kho bhagavā etamatthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ udānaṃ udānesi –
Then, the Blessed One, having understood this matter, on that occasion uttered this solemn utterance (udāna)—
Sau đó, Đức Thế Tôn biết được ý nghĩa này, vào lúc đó, Ngài đã thốt lên lời cảm hứng này:
Rājā ‘‘sāmāvatiyā gehaṃ kira jhāyatī’’ti sutvā vegenāgacchantopi adaḍḍhe sampāpuṇituṃ nāsakkhi.
The king, hearing, "Sāmāvatī's house is burning, it is said," though he came swiftly, could not reach it before it was completely burnt.
Vua nghe nói "Cung điện của Sāmāvatī đang cháy", dù vội vàng đến cũng không kịp đến trước khi lửa thiêu rụi. Đến nơi, vua dập lửa trong cung điện, với nỗi buồn sâu sắc dâng trào, ngồi xuống cùng với đoàn tùy tùng, nhớ lại những đức tính của Sāmāvatī, rồi suy nghĩ: "Đây là nghiệp của ai vậy?" Sau khi biết rằng "Chắc là do Māgaṇḍiyā gây ra", vua nghĩ: "Nếu dọa nạt mà hỏi thì cô ta sẽ không nói đâu, mình sẽ từ từ hỏi bằng mưu mẹo." Rồi vua nói với các quan: "Này các khanh, trước đây ta luôn sống trong nghi ngờ, Sāmāvatī luôn tìm cách hãm hại ta, nhưng bây giờ tâm ta sẽ được an lạc, và ta sẽ có thể sống một cách thoải mái." Các quan hỏi: "Bạch Đức Vua, ai đã làm điều này vậy?"
Āgantvā pana gehaṃ nibbāpento uppannabalavadomanasso amaccagaṇaparivuto nisīditvā sāmāvatiyā guṇe anussaranto, ‘‘kassa nu kho idaṃ kamma’’nti cintetvā – ‘‘māgaṇḍiyāya kāritaṃ bhavissatī’’ti ñatvā, ‘‘tāsetvā pucchiyamānā na kathessati, saṇikaṃ upāyena pucchissāmī’’ti cintetvā amacce āha – ‘‘ambho, ahaṃ ito pubbe uṭṭhāya samuṭṭhāya āsaṅkitaparisaṅkitova homi, sāmāvatī me niccaṃ otārameva gavesati, idāni pana me cittaṃ nibbutaṃ bhavissati, sukhena ca vasituṃ labhissāmī’’ti, te ‘‘kena nu kho, deva, idaṃ kata’’nti āhaṃsu.
Having arrived, he extinguished the fire in the house, and filled with intense grief, surrounded by his retinue of ministers, he sat down, recollecting Sāmāvatī's virtues. He reflected, "Whose deed could this be?" and realizing, "It must have been done by Māgaṇḍiyā," he thought, "If she is questioned through intimidation, she will not confess; I will question her slowly, by stratagem." He then said to his ministers, "Sirs, before this, whenever I arose or stirred, I was always suspicious and apprehensive. Sāmāvatī was always seeking an opportunity against me. But now my mind will be at peace, and I will be able to live happily." They asked, "By whom, O King, was this done?"
"Chắc là do một người nào đó yêu thương ta đã làm."
‘‘Mayi sinehena kenaci kataṃ bhavissatī’’ti.
"It must have been done by someone out of affection for me."
"Chắc là do một người nào đó yêu thương ta đã làm."
Māgaṇḍiyāpi samīpe ṭhitā taṃ sutvā, ‘‘nāñño koci kātuṃ sakkhissati, mayā kataṃ, deva, ahaṃ cūḷapitaraṃ āṇāpetvā kāresi’’nti āha.
Māgaṇḍiyā, who was standing nearby, heard this and said, "No one else could have done it. I did it, O King. I ordered my maternal uncle to do it."
Māgaṇḍiyā đang đứng gần đó, nghe vậy liền nói: "Không ai khác có thể làm được, chính thiếp đã làm, thưa Đức Vua. Thiếp đã sai chú của thiếp làm điều đó."
‘‘Taṃ ṭhapetvā añño mayi sineho satto nāma natthi, pasannosmi, varaṃ te dammi, attano ñātigaṇaṃ pakkosāpehī’’ti.
"Apart from you, there is no other being who has affection for me. I am pleased. I grant you a boon. Summon your relatives."
"Ngoài nàng ra, không có chúng sinh nào yêu thương ta cả. Ta rất hài lòng, ta ban cho nàng một ân huệ, hãy gọi thân quyến của nàng đến."
Sā ñātakānaṃ sāsanaṃ pahiṇi – ‘‘rājā me pasanno varaṃ deti, sīghaṃ āgacchantū’’ti.
She sent a message to her relatives: "The king is pleased with me and grants me a boon; come quickly!"
Nàng gửi tin cho thân quyến: "Vua đã hài lòng với thiếp và ban cho thiếp một ân huệ, hãy mau đến!"
Rājā āgatāgatānaṃ mahantaṃ sakkāraṃ kāresi.
The king bestowed great honors upon all who arrived.
Vua đã trọng đãi những người đến.
Taṃ disvā tassā aññātakāpi lañjaṃ datvā ‘‘mayaṃ māgaṇḍiyāya ñātakā’’ti āgacchiṃsu.
Seeing this, even those who were not her relatives came, offering bribes and claiming, "We are Māgaṇḍiyā's relatives."
Thấy vậy, những người không phải bà con của nàng cũng hối lộ và nói: "Chúng tôi là bà con của Māgaṇḍiyā" mà đến.
Rājā te sabbe gāhāpetvā rājaṅgaṇe nābhippamāṇe āvāṭe khaṇāpetvā te tattha nisīdāpetvā paṃsūhi pūretvā upari palāle vikirāpetvā aggiṃ dāpesi.
The king had all of them seized, had pits dug in the royal courtyard to the depth of their navels, had them seated there, filled the pits with earth, had straw scattered over them, and had them set on fire.
Vua sai bắt tất cả bọn họ, đào những cái hố sâu ngang rốn trong sân cung điện, bắt họ ngồi vào đó, lấp đất lại, rải rơm lên trên và đốt lửa.
Cammassa daḍḍhakāle ayanaṅgalena kasāpetvā khaṇḍākhaṇḍaṃ hīrāhīraṃ kāresi.
When their skin was burnt, he had them plowed with iron ploughshares, tearing them into pieces and shreds.
Khi da bị cháy, vua sai dùng lưỡi cày sắt cày xới, biến họ thành từng mảnh vụn.
Māgaṇḍiyāya sarīratopi tikhiṇena satthena ghanaghanaṭṭhānesu maṃsaṃ uppāṭetvā telakapālaṃ uddhanaṃ āropetvā pūve viya pacāpetvā tameva khādāpesi.
Also, from Māgaṇḍiyā's body, he had the flesh torn from the thick parts with a sharp knife, had an oil pan placed on a stove, cooked it like cakes, and made her eat it herself.
Từ thân thể của Māgaṇḍiyā, vua sai dùng dao sắc bén cắt từng miếng thịt ở những chỗ dày, đặt nồi dầu lên bếp, chiên như bánh và bắt chính nàng ăn.
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente rājagehe nibaddhaṃ aṭṭha paccekabuddhā bhuñjanti.
In the past, when Brahmadatta was ruling in Bārāṇasī, eight Paccekabuddhas regularly took their meals in the royal palace.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, tám vị Độc Giác Phật thường xuyên thọ thực tại cung điện của vua.
Pañcasatā itthiyo te upaṭṭhahanti.
Five hundred women attended to them.
Năm trăm người phụ nữ hầu hạ các vị ấy.
Tesu satta paccekabuddhā himavantaṃ gacchanti, eko nadītīre ekaṃ tiṇagahanaṃ atthi, tattha jhānaṃ samāpajjitvā nisīdi.
Of these, seven Paccekabuddhas went to the Himālaya, and one sat down to enter jhāna in a certain thicket of grass on the riverbank.
Trong số đó, bảy vị Độc Giác Phật đã đi đến Himavanta, còn một vị ngồi thiền định trong một bụi cỏ bên bờ sông.
Athekadivasaṃ rājā paccekabuddhesu gatesu tā itthiyo ādāya nadiyaṃ udakakīḷaṃ kīḷituṃ gato.
Then, one day, after the Paccekabuddhas had departed, the king took those women and went to play in the water in the river.
Một ngày nọ, khi các vị Độc Giác Phật đã đi, vua dẫn những người phụ nữ ấy đến sông để vui chơi dưới nước.
Tattha tā itthiyo divasabhāgaṃ udake kīḷitvā uttaritvā sītapīḷitā aggiṃ visibbetukāmā ‘‘amhākaṃ aggikaraṇaṭṭhānaṃ olokethā’’ti aparāparaṃ vicarantiyo taṃ tiṇagahanaṃ disvā, ‘‘tiṇarāsī’’ti saññāya taṃ parivāretvā ṭhitā aggiṃ adaṃsu.
There, after those women had played in the water for a day, they came out, were afflicted by cold, and wished to warm themselves by a fire. As they searched here and there, saying, "Look for a place for us to make a fire," they saw that thicket of grass, and mistaking it for a pile of grass, they surrounded it and lit a fire.
Ở đó, những người phụ nữ ấy đã vui chơi dưới nước suốt cả ngày, rồi lên bờ, vì bị lạnh nên muốn sưởi ấm. Họ đi tìm chỗ đốt lửa, thấy bụi cỏ ấy, lầm tưởng là đống cỏ khô, liền vây quanh và châm lửa.
Tiṇesu jhāyitvā patantesu paccekabuddhaṃ disvā, ‘‘naṭṭhāmhā, amhākaṃ rañño paccekabuddho jhāyati, rājā ñatvā amhe nāsessati, sudaḍḍhaṃ naṃ karissāmā’’ti sabbā tā itthiyo ito cito ca dārūni āharitvā tassa upari dārurāsiṃ kariṃsu.
When the grass burnt down and fell, they saw the Paccekabuddha and exclaimed, "We are ruined! Our king's Paccekabuddha is burning! When the king finds out, he will destroy us! Let's make sure he is thoroughly burnt!" Saying this, all those women brought firewood from here and there and piled it on top of him.
Khi cỏ cháy và tàn lụi, họ thấy vị Độc Giác Phật, liền nói: "Chúng ta tiêu rồi! Đức Độc Giác Phật của vua chúng ta đang bị cháy! Nếu vua biết được, ngài sẽ giết chúng ta. Hãy làm cho ngài ấy cháy thật kỹ!" Tất cả những người phụ nữ ấy liền mang củi từ khắp nơi đến, chất thành đống lớn trên người Ngài.
Mahādārurāsi ahosi.
It became a huge pile of wood.
Đống củi ấy rất lớn.
Atha naṃ ālimpetvā, ‘‘idāni jhāyissatī’’ti pakkamiṃsu.
Then, after setting it ablaze, they left, thinking, "Now he will surely burn."
Sau đó, họ châm lửa vào đống củi, nghĩ: "Bây giờ Ngài sẽ cháy hết", rồi bỏ đi.
Tā paṭhamaṃ asañcetanikā hutvā kammunā na bajjhiṃsu, idāni pacchā sañcetanāya kammunā bajjhiṃsu.
At first, being unintentional, they were not bound by Kamma, but afterwards, through intention, they became bound by Kamma.
Ban đầu, những người phụ nữ ấy không có tác ý nên không bị ràng buộc bởi nghiệp. Nhưng sau đó, với tác ý, họ bị ràng buộc bởi nghiệp.
Paccekabuddhaṃ pana antosamāpattiyaṃ sakaṭasahassehi dārūni āharitvā ālimpentāpi usmākāramattampi gahetuṃ na sakkonti.
However, as the Paccekabuddha was in absorption, even though they brought thousands of cartloads of wood and piled it on him, they could not even generate a trace of heat.
Tuy nhiên, khi một vị Độc Giác Phật đang nhập thiền định, dù người ta có mang hàng ngàn xe củi đến đốt cũng không thể làm ngài nóng dù chỉ một chút hơi ấm.
Tasmā so sattame divase uṭṭhāya yathāsukhaṃ agamāsi.
Therefore, on the seventh day, he arose and departed as he pleased.
Vì vậy, vào ngày thứ bảy, ngài đã xuất thiền và an nhiên rời đi.
Tā tassa kammassa katattā bahūni vassasatasahassāni niraye paccitvā tasseva kammassa vipākāvasesena attabhāvasate imināva niyāmena gehe jhāyamāne jhāyiṃsu.
Because they had performed that Kamma, they suffered in hell for many hundreds of thousands of years, and as a remnant of the result of that very Kamma, in hundreds of existences, they were burnt in houses that caught fire in the same manner.
Do đã tạo nghiệp đó, những người phụ nữ ấy đã phải chịu khổ trong địa ngục suốt hàng trăm ngàn năm, và do quả báo còn sót lại của nghiệp ấy, trong hàng trăm kiếp sống, họ đã bị thiêu cháy trong nhà theo cùng một cách này.
Idaṃ etāsaṃ pubbakammanti.
This was their past Kamma."
Đây là nghiệp quá khứ của những người phụ nữ ấy.
Evaṃ vutte bhikkhū satthāraṃ paṭipucchiṃsu – ‘‘khujjuttarā pana, bhante, kena kammena khujjā jātā, kena kammena mahāpaññā, kena kammena sotāpattiphalaṃ adhigatā, kena kammena paresaṃ pesanakāritā jātā’’ti?
When this was said, the bhikkhus in turn asked the Teacher, "Venerable Sir, by what Kamma was Khujjuttarā born hunchbacked? By what Kamma did she acquire great wisdom? By what Kamma did she attain the fruit of Stream-entry? By what Kamma was she born to serve others?"
Khi được hỏi như vậy, các Tỳ-khưu đã hỏi lại Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Khujjuttarā do nghiệp gì mà trở nên lưng gù? Do nghiệp gì mà có trí tuệ lớn? Do nghiệp gì mà chứng đắc quả Dự Lưu? Và do nghiệp gì mà phải làm người sai vặt cho người khác?”
Bhikkhave, tasseva rañño bārāṇasiyaṃ rajjaṃ karaṇakāle sveva paccekabuddho thokaṃ khujjadhātuko ahosi.
"Bhikkhus, when that very King Brahmadatta was ruling in Bārāṇasī, that same Paccekabuddha was slightly hunchbacked.
Này các Tỳ-khưu, vào thời vị vua ấy trị vì ở Bārāṇasī, chính vị Độc Giác Phật ấy có một chút tật lưng gù.
Athekā upaṭṭhāyikā itthī kambalaṃ pārupitvā suvaṇṇasaraṇaṃ gahetvā, ‘‘amhākaṃ paccekabuddho evañca evañca vicaratī’’ti khujjā hutvā tassa vicaraṇākāraṃ dassesi.
Then, a female attendant, wrapping herself in a blanket and holding a golden bowl, demonstrated the manner of that Paccekabuddha's movement, becoming hunchbacked and saying, 'Our Paccekabuddha moves in such and such a way.'
Bấy giờ, một người nữ thị giả, khoác tấm chăn và cầm chén vàng, đã bắt chước dáng đi của vị Độc Giác Phật ấy mà nói: “Độc Giác Phật của chúng ta đi như thế này, như thế này,” rồi cô ta trở nên lưng gù.
Tassa nissandena khujjā jātā.
As a consequence of that, she was born hunchbacked.
Do hậu quả của nghiệp ấy, cô ta đã trở nên lưng gù.
Te pana paccekabuddhe paṭhamadivase rājagehe nisīdāpetvā patte gāhāpetvā pāyāsassa pūretvā dāpesi.
However, on the first day, he had those Paccekabuddhas seated in the royal palace, had them take their bowls, filled them with milk-rice, and offered it.
Tuy nhiên, vào ngày đầu tiên, cô ta đã mời các vị Độc Giác Phật ngồi trong hoàng cung, trao bát cho họ và dâng đầy cơm sữa.
Uṇhapāyāsassa pūre patte paccekabuddhā parivattetvā parivattetvā gaṇhanti.
The Paccekabuddhas had to turn their bowls around and around to take the hot milk-rice.
Các vị Độc Giác Phật phải xoay đi xoay lại bát đầy cơm sữa nóng để nhận lấy.
Sā itthī te tathā karonte disvā attano santakāni aṭṭha dantavalayāni datvā, ‘‘idha ṭhapetvā gaṇhathā’’ti āha.
That woman, seeing them doing so, gave her own eight ivory bracelets and said, "Place these here and take it."
Người phụ nữ ấy, thấy các vị ấy làm như vậy, liền trao tám chiếc vòng ngà của mình và nói: “Xin các ngài hãy đặt ở đây và nhận lấy.”
Tesu tathā katvā taṃ oloketvā ṭhitesu tesaṃ adhippāyaṃ ñatvā, ‘‘natthi, bhante, amhākaṃ etehi attho.
When they had done so, and looked at her, understanding their intention, she said, "Venerable Sirs, we have no need of these.
Khi các vị ấy làm theo lời và đứng nhìn cô, cô hiểu ý của họ và nói: “Bạch các ngài, chúng con không cần những chiếc vòng này.
Tumhākaññeva etāni pariccattāni, gahetvā gacchathā’’ti āha.
These are donated to you yourselves; please take them and go."
Những chiếc vòng này đã được dâng cúng cho chính các ngài. Xin các ngài hãy nhận lấy và đi đi.”
Te gahetvā nandamūlakapabbhāraṃ agamaṃsu.
They took them and went to the Nandamūlaka cave.
Các vị ấy nhận lấy và đi đến hang Nandamūlaka.
Ajjatanāpi tāni valayāni arogāneva.
Even today, those bracelets remain undamaged.
Cho đến ngày nay, những chiếc vòng ấy vẫn còn nguyên vẹn.
Sā tassa kammassa nissandena idāni tipiṭakadharā mahāpaññā jātā.
As a consequence of that Kamma, she is now a great sage who knows the Three Piṭakas.
Do quả báo của nghiệp thiện ấy, bây giờ cô ấy đã trở thành một người thông thạo Tam Tạng, có đại trí tuệ.
Paccekabuddhānaṃ kataupaṭṭhānassa nissandena pana sotāpattiphalaṃ pattā.
But as a consequence of having attended to the Paccekabuddhas, she attained the fruit of Stream-entry.
Còn do quả báo của việc cúng dường các vị Độc Giác Phật, cô ấy đã chứng đắc quả Dự Lưu.
Idamassā buddhantare pubbakammaṃ.
This was her past Kamma between Buddhas."
Đây là nghiệp quá khứ của cô ấy trong khoảng thời gian giữa hai vị Phật.
Kassapasammāsambuddhakāle pana ekā bārāṇasiseṭṭhino dhītā vaḍḍhamānakacchāyāya ādāsaṃ gahetvā attānaṃ alaṅkarontī nisīdi.
"Furthermore, in the time of Kassapa Sammāsambuddha, a daughter of a wealthy merchant in Bārāṇasī was sitting, adorning herself with a mirror in the increasing shadow of the evening.
Vào thời Đức Chánh Đẳng Chánh Giác Kassapa, có một cô con gái của trưởng giả ở Bārāṇasī đang ngồi trang điểm cho mình bằng cách cầm gương vào lúc bóng chiều tà.
Athassā vissāsikā ekā khīṇāsavā bhikkhunī taṃ daṭṭhuṃ agamāsi.
Then, a certain female Arahant, who was a close friend of hers, came to see her.
Lúc đó, một nữ Tỳ-khưu ni đã diệt tận các lậu hoặc, là bạn thân của cô ấy, đến thăm cô.
Bhikkhuniyo hi khīṇāsavāpi sāyanhasamaye upaṭṭhākakulāni daṭṭhukāmā honti.
Indeed, even Arahant bhikkhunīs desire to visit supporting families in the evening.
Thật vậy, các nữ Tỳ-khưu ni, dù đã diệt tận các lậu hoặc, vẫn muốn thăm viếng các gia đình hộ độ vào buổi chiều.
Tasmiṃ pana khaṇe seṭṭhidhītāya santike kāci pesanakārikā natthi, sā ‘‘vandāmi, ayye, etaṃ tāva me pasādhanapeḷakaṃ gahetvā dethā’’ti āha.
At that moment, there was no maidservant near the merchant's daughter, so she said, "Venerable One, I pay homage. Please, first, take this ornament casket and give it to me."
Vào lúc ấy, không có người hầu nào ở bên cạnh con gái của trưởng giả. Cô ấy nói: “Bạch Sư cô, con xin đảnh lễ. Xin Sư cô hãy lấy giúp con hộp trang sức này.”
Therī cintesi – ‘‘sacassā imaṃ gaṇhitvā na dassāmi, mayi āghātaṃ katvā niraye nibbattissati.
The Therī thought, "If I take this and do not give it to her, she will conceive hatred towards me and be reborn in hell.
Vị Trưởng lão ni suy nghĩ: “Nếu ta không lấy nó đưa cho cô ấy, cô ấy sẽ oán giận ta và sẽ tái sinh vào địa ngục.
Sace pana dassāmi, parassa pesanakārikā hutvā nibbattissati.
But if I give it to her, she will be reborn as a servant to others.
Nhưng nếu ta đưa cho cô ấy, cô ấy sẽ tái sinh làm người hầu của người khác.
Nirayasantāpato kho pana parassa pesanabhāvova seyyo’’ti.
However, being a servant to others is better than the torment of hell."
Thật vậy, làm người hầu của người khác vẫn tốt hơn là chịu khổ trong địa ngục.”
‘‘Sā anudayaṃ paṭicca taṃ gahetvā tassā adāsi.
Out of compassion, she took it and gave it to her.
Vì lòng từ bi, Sư cô đã lấy và đưa nó cho cô ấy.
Tassa kammassa nissandena paresaṃ pesanakārikā jātā’’ti.
As a consequence of that Kamma, she was born to serve others."
Do quả báo của nghiệp ấy, cô ấy đã trở thành người hầu của người khác.
Atha punekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘sāmāvatippamukhā pañcasatā itthiyo gehe agginā jhāyiṃsu, māgaṇḍiyāya ñātakā upari palālaggiṃ datvā ayanaṅgalehi bhinnā, māgaṇḍiyā pakkuthitatele pakkā, ke nu kho ettha jīvanti nāma, ke matā nāmā’’ti.
Then, one day, the bhikkhus in the Dhamma hall raised a discussion: "The five hundred women led by Sāmāvatī were burnt by fire in the house; Māgaṇḍiyā's relatives were torn apart by iron ploughshares after straw fires were set on them; Māgaṇḍiyā was cooked in boiling oil. Who among these, then, are considered alive, and who are considered dead?"
Một ngày khác, các Tỳ-khưu khởi lên một cuộc đàm luận trong pháp đường: “Năm trăm người phụ nữ do Sāmāvatī dẫn đầu đã bị thiêu cháy trong nhà; bà con của Māgaṇḍiyā đã bị đâm bằng cày sắt sau khi bị đốt bằng lửa rơm; Māgaṇḍiyā đã bị luộc trong dầu sôi. Ai trong số này còn sống, và ai đã chết?”
Satthā āgantvā, ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā, ‘‘imāya nāmā’’ti vutte, ‘‘bhikkhave, ye keci pamattā, te vassasataṃ jīvantāpi matāyeva nāma.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what topic are you discussing now?" When they replied, "This one," he said, "Bhikkhus, whoever are negligent, even if they live for a hundred years, are considered dead.
Đức Thế Tôn đến và hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì?” Khi được trả lời: “Thưa Thế Tôn, về chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, bất cứ ai sống buông lung, dù sống trăm năm cũng coi như đã chết.
Ye appamattā, te matāpi jīvantiyeva.
Whoever are diligent, even if they are dead, are considered alive.
Còn những ai không buông lung, dù đã chết cũng coi như đang sống.
Tasmā māgaṇḍiyā jīvantīpi matāyeva nāma, sāmāvatippamukhā pañcasatā itthiyo matāpi jīvantiyeva nāma.
Therefore, Māgaṇḍiyā, though alive, is considered dead, while the five hundred women led by Sāmāvatī, though dead, are considered alive.
Vì vậy, Māgaṇḍiyā dù sống cũng coi như đã chết, còn năm trăm người phụ nữ do Sāmāvatī dẫn đầu dù đã chết cũng coi như đang sống.
Na hi, bhikkhave, appamattā maranti nāmā’’ti vatvā imā gāthā abhāsi –
For, bhikkhus, the diligent do not die," and he spoke these verses:
Thật vậy, này các Tỳ-khưu, những người không buông lung không bao giờ chết.” Rồi Ngài nói những câu kệ này:
So panesa atthato satiyā avippavāso nāma.
Furthermore, this (appamāda), in terms of meaning, is non-separation from mindfulness.
Và ý nghĩa của nó là sự không tách rời khỏi chánh niệm.
Niccaṃ upaṭṭhitāya satiyā cetaṃ nāmaṃ.
This is the name for constant mindfulness.
Đây là tên gọi của chánh niệm luôn hiện hữu.
Amatapadanti amataṃ vuccati nibbānaṃ.
Amatapadaṃ (path to the Deathless) — the Deathless is called Nibbāna.
Amatapadaṃ: Bất tử được gọi là Nibbāna.
Tañhi ajātattā nu jīyati na mīyati, tasmā amatanti vuccati.
Indeed, being unborn, it does not age, nor does it die; therefore, it is called the Deathless (amata).
Vì Nibbāna không sinh nên không già, không chết, do đó được gọi là bất tử.
Pajjanti imināti padaṃ, amataṃ pāpuṇantīti attho.
Pajjanti iminā (they reach by this) means "they attain the Deathless."
Con đường mà nhờ đó người ta đến được (Nibbāna) là pada (con đường), nghĩa là đạt đến sự bất tử.
Amatassa padaṃ amatapadaṃ, amatassa adhigamūpāyoti vuttaṃ hoti, pamādoti pamajjanabhāvo, muṭṭhassatisaṅkhātassa satiyā vosaggassetaṃ nāmaṃ.
Amatassa padaṃ is "the path to the Deathless," meaning "the means of attaining the Deathless"; pamādo (heedlessness) means the state of being heedless, it is the name for the relinquishing of mindfulness, characterized by lost mindfulness.
Con đường của sự bất tử là amatapadaṃ, nghĩa là phương tiện để đạt đến sự bất tử. Pamādo là trạng thái phóng dật, đây là tên gọi của sự buông bỏ chánh niệm, tức là sự thất niệm.
Maccunoti maraṇassa.
Maccuno (of death) means of maraṇa (death).
Maccuno là của cái chết.
Padanti upāyo maggo.
Padaṃ (path) means means, way.
Pada là phương tiện, con đường.
Pamatto hi jātiṃ nātivattati, jāto jīyati ceva mīyati cāti pamādo maccuno padaṃ nāma hoti, maraṇaṃ upeti.
For a heedless person does not transcend birth; one who is born ages and dies, thus heedlessness is the path to death, leading to death.
Thật vậy, người phóng dật không vượt qua được sự sinh, người đã sinh thì già và chết, do đó sự phóng dật là con đường của tử thần, dẫn đến cái chết.
Appamattā na mīyantīti satiyā samannāgatā hi appamattā na maranti.
Appamattā na mīyanti (the heedful do not die) means that the heedful, endowed with mindfulness, do not die.
Appamattā na mīyanti: Những người không phóng dật, có chánh niệm, không chết.
Ajarā amarā hontīti na sallakkhetabbaṃ.
It should not be understood that they become free from aging and death.
Không nên hiểu rằng họ trở nên không già không chết.
Na hi koci satto ajaro amaro nāma atthi, pamattassa pana vaṭṭaṃ nāma aparicchinnaṃ, appamattassa paricchinnaṃ.
Indeed, there is no being who is free from aging and death; but for the heedless, saṃsāra is endless, while for the heedful, it is limited.
Thật vậy, không có chúng sinh nào không già không chết, nhưng vòng luân hồi của người phóng dật là vô tận, còn của người không phóng dật là hữu hạn.
Tasmā pamattā jātiādīhi aparimuttattā jīvantāpi matāyeva nāma.
Therefore, the heedless, not being liberated from birth and so on, are considered as dead even while living.
Do đó, những người phóng dật, vì chưa thoát khỏi sự sinh và các khổ khác, dù đang sống cũng coi như đã chết.
Appamattā pana appamādalakkhaṇaṃ vaḍḍhetvā khippaṃ maggaphalāni sacchikatvā dutiyatatiyaattabhāvesu na nibbattanti.
But the heedful, by cultivating the characteristic of appamāda, quickly realize the paths and fruits, and are not reborn in a second or third existence.
Còn những người không phóng dật, sau khi phát triển đặc tính không phóng dật, nhanh chóng chứng đắc các Đạo và Quả, và không tái sinh trong các kiếp thứ hai, thứ ba.
Tasmā te jīvantāpi matāpi na mīyantiyeva nāma.
Therefore, whether living or dead, they are considered as not dying.
Vì vậy, dù họ đang sống hay đã chết, họ vẫn được coi là không chết.
Ye pamattā yathā matāti ye pana sattā pamattā, te pamādamaraṇena matattā, yathā hi jīvitindriyupacchedena matā dārukkhandhasadisā apagataviññāṇā, tatheva honti.
Ye pamattā yathā matā (those who are heedless are as if dead) means that those beings who are heedless, being dead through the death of heedlessness, are like those truly dead by the cutting off of the life-faculty, like blocks of wood, devoid of consciousness.
Ye pamattā yathā matā: Còn những chúng sinh phóng dật, vì đã chết bởi cái chết của sự phóng dật, họ giống như những người đã chết do sự đoạn tuyệt của sinh mạng, giống như khúc gỗ không còn tri giác.
Tesampi hi matānaṃ viya gahaṭṭhānaṃ tāva ‘‘dānaṃ dassāma, sīlaṃ rakkhissāma, uposathakammaṃ karissāmā’’ti ekacittampi na uppajjati, pabbajitānampi ‘‘ācariyupajjhāyavattādīni pūressāma, dhutaṅgāni samādiyissāma, bhāvanaṃ vaḍḍhessāmā’’ti na uppajjatīti matena te kiṃ nānākaraṇāva honti.
For even for these dead-like laypeople, not a single thought arises, "We will give dana, we will observe sila, we will perform uposatha duty"; and for monastics, not a thought arises, "We will fulfill the duties towards teachers and preceptors, we will undertake dhutaṅgas, we will cultivate bhavana." So how are they different from the dead?
Thật vậy, đối với những người đã chết như vậy, ngay cả một ý nghĩ như “Chúng ta sẽ bố thí, chúng ta sẽ giữ giới, chúng ta sẽ thực hành uposatha” cũng không khởi lên đối với những người tại gia, và đối với những người xuất gia, ý nghĩ như “Chúng ta sẽ hoàn thành các bổn phận đối với thầy và A-xà-lê, chúng ta sẽ thọ trì các pháp đầu đà, chúng ta sẽ phát triển thiền định” cũng không khởi lên. Vậy thì họ khác gì người đã chết?
Tena vuttaṃ – ‘‘ye pamattā yathā matā’’ti.
Therefore, it was said: "Those who are heedless are as if dead."
Do đó, đã được nói: “Những người phóng dật thì như đã chết.”
Te jhāyinoti te appamattā paṇḍitā aṭṭhasamāpattisaṅkhātena ārammaṇūpanijjhānena vipassanāmaggaphalasaṅkhātena lakkhaṇūpanijjhānena cāti duvidhenapi jhānena jhāyino.
Te jhāyino (they are meditators) means those heedful wise ones are meditators through both kinds of jhāna: through object-meditation, which consists of the eight attainments, and through characteristic-meditation, which consists of vipassanā, path, and fruit.
Te jhāyino: Những người trí tuệ không phóng dật ấy là những thiền giả nhờ cả hai loại thiền: thiền quán đối tượng (ārammaṇūpanijjhāna) bao gồm tám cấp thiền định (samāpatti), và thiền quán đặc tính (lakkhaṇūpanijjhāna) bao gồm các Đạo và Quả của thiền quán (vipassanā).
Sātatikāti abhinikkhamanakālato paṭṭhāya yāva arahattamaggā satataṃ pavattakāyikacetasikavīriyā.
Sātatikā (continual in practice) means those who continuously exert physical and mental effort from the time of their renunciation up to the Arahant Path.
Sātatikā: Từ khi xuất gia cho đến A-la-hán Đạo, họ luôn có tinh tấn thân và tâm không ngừng nghỉ.
Niccaṃ daḷhaparakkamāti yaṃ taṃ purisathāmena purisavīriyena purisaparakkamena pattabbaṃ, na taṃ apāpuṇitvā vīriyassa saṇṭhānaṃ bhavissatīti evarūpena vīriyena antarā anosakkitvā niccappavattena daḷhaparakkamena samannāgatā.
Niccaṃ daḷhaparakkamā (always firm in exertion) means those who are endowed with constant, firm exertion, not relenting halfway, with the determination that the goal to be attained by manly strength, manly energy, and manly effort will not cease until it is achieved.
Niccaṃ daḷhaparakkamā: Họ có tinh tấn vững chắc không ngừng, không bao giờ thoái chí giữa chừng, với ý chí rằng sẽ không dừng lại tinh tấn cho đến khi đạt được điều cần đạt bằng sức mạnh, tinh tấn, và nỗ lực của người nam.
Phusantīti ettha dve phusanā ñāṇaphusanā ca, vipākaphusanā ca.
Phusanti (they attain): Here there are two kinds of attainment: attainment by knowledge and attainment by fruition.
Phusanti: Ở đây có hai loại chạm đến (phusanā): chạm đến bằng trí tuệ (ñāṇaphusanā) và chạm đến bằng quả (vipākaphusanā).
Tattha cattāro maggā ñāṇaphusanā nāma, cattāri phalāni vipākaphusanā nāma.
Among these, the four paths are called attainment by knowledge, and the four fruits are called attainment by fruition.
Trong đó, bốn Đạo là chạm đến bằng trí tuệ, bốn Quả là chạm đến bằng quả.
Tesu idha vipākaphusanā adhippetā.
Here, attainment by fruition is intended.
Ở đây, chạm đến bằng quả được đề cập.
Ariyaphalena nibbānaṃ sacchikaronto dhīrā paṇḍitā tāya vipākaphusanāya phusanti, nibbānaṃ sacchikaronti.
The wise ones, realizing Nibbāna through the Noble Fruit, attain Nibbāna through that attainment by fruition, they realize Nibbāna.
Các bậc trí giả, hiền trí, khi chứng ngộ Niết Bàn bằng Thánh quả, thì chạm đến Niết Bàn bằng sự chạm đến quả dị thục đó, chứng ngộ Niết Bàn.
Yogakkhemaṃ anuttaranti ye cattāro yogā mahājanaṃ vaṭṭe osīdāpenti, tehi khemaṃ nibbhayaṃ sabbehi lokiyalokuttaradhammehi seṭṭhattā anuttaranti.
Yogakkhemaṃ anuttaraṃ (the unsurpassed safety from bondage) refers to that which is safe and fearless from the four bondages (yogā) that drag the multitude into saṃsāra; it is unsurpassed because it is supreme among all mundane and supramundane dhammas. This concludes the explanation of the verse.
Vô thượng sự an toàn khỏi ách buộc – là sự an toàn, không nguy hiểm khỏi bốn ách buộc đã nhấn chìm đại chúng trong vòng luân hồi, và do là tối thượng hơn tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, nên là vô thượng.