Te kira bhagavatā saddhiṃ janapadacārikaṃ caritvā jetavanaṃ āgantvā sāyanhasamaye upaṭṭhānasālāyaṃ sannisinnā attanā gatagataṭṭhānesu ‘‘asukagāmato asukagāmagamanaṭṭhāne samaṃ visamaṃ kaddamabahulaṃ sakkharabahulaṃ kāḷamattikaṃ tambamattika’’nti pathavikathaṃ kathesuṃ.
It is said that these monks, after wandering through the countryside with the Bhagavā and arriving at Jetavana, gathered in the service hall in the evening and spoke about the earth in the places they had visited: "In the journey from such-and-such a village to such-and-such a village, the ground was even, uneven, full of mud, full of gravel, with black clay, with red clay."
Chuyện kể rằng, các vị ấy sau khi du hành cùng Đức Thế Tôn qua các miền quê, đã trở về Jetavana. Vào buổi chiều, khi đang ngồi trong pháp đường, các vị ấy bàn luận về những nơi mình đã đi qua: “Trên đường từ làng này đến làng kia, chỗ thì bằng phẳng, chỗ thì gồ ghề, chỗ nhiều bùn lầy, chỗ nhiều sỏi đá, chỗ đất đen, chỗ đất đỏ.”
Satthā āgantvā, ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā, ‘‘bhante, amhehi vicaritaṭṭhāne pathavikathāyā’’ti vutte, ‘‘bhikkhave, esā bāhirapathavī nāma, tumhehi ajjhuttikapathaviyaṃ parikammaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā imā dve gāthā abhāsi –
The Teacher came and asked, "About what topic, monks, are you now gathered?" When told, "Venerable Sir, we are speaking about the earth in the places we visited," the Teacher said, "Monks, this is what is called the outer earth; you should practice diligently on the inner earth," and then spoke these two verses—
Đức Thế Tôn đến và hỏi: “Này các tỳ-khưu, các con đang ngồi đây bàn luận về chuyện gì vậy?” Khi được trả lời: “Bạch Thế Tôn, chúng con đang bàn về đất ở những nơi chúng con đã đi qua,” Ngài dạy: “Này các tỳ-khưu, đó chỉ là đất bên ngoài. Điều các con cần làm là thực hành trên mảnh đất bên trong.” Nói xong, Ngài đọc hai bài kệ này:
Tattha ko imanti ko imaṃ attabhāvasaṅkhātaṃ pathaviṃ.
In this connection, ko imaṃ means: who will investigate this earth, which is designated as the individual existence.
Trong đó, ko imaṃ (ai sẽ... này) có nghĩa là ai sẽ khám phá mảnh đất này, tức là tự thân này.
Vicessatīti attano ñāṇena vicinissati vijānissati, paṭivijjhissati, sacchikarissatīti attho.
Vicessati means: will investigate it with his own knowledge, will discern it, will penetrate it, will realize it.
Vicessati (sẽ khám phá) có nghĩa là sẽ khảo sát, sẽ biết rõ, sẽ thâm nhập, sẽ chứng ngộ bằng trí tuệ của chính mình.
Yamalokañcāti catubbidhaṃ apāyalokañca.
Yamalokañcā means: and the fourfold realm of woe.
Và cõi Diêm vương nghĩa là và bốn cõi khổ.
Imaṃ sadevakanti imaṃ manussalokañca devalokena saddhiṃ ko vicessati vicinissati vijānissati paṭivijjhissati sacchikarissatīti pucchi.
Imaṃ sadevaka means: who will investigate, discern, penetrate, and realize this human realm together with the deva realm? Thus he asked.
Thế gian này cùng với chư thiên nghĩa là ai sẽ khảo sát, sẽ tìm hiểu, sẽ biết, sẽ thấu triệt, sẽ chứng ngộ thế giới loài người này cùng với thế giới chư thiên? Ngài đã hỏi như vậy.
Ko dhammapadaṃ sudesitanti yathāsabhāvato kathitattā sudesitaṃ sattatiṃsabodhipakkhiyadhammasaṅkhātaṃ dhammapadaṃ kusalo mālākāro pupphaṃ vicinanto viya ko pacessati vicinissati vijānissati upaparikkhissati paṭivijjhissati, sacchikarissatīti attho.
Ko dhammapadaṃ sudesita means: who, like a kusala garland-maker gathering pupphaṃ (flowers), will gather, discern, examine, penetrate, and realize this Dhamma-pada, which consists of the thirty-seven factors of awakening, which is sudesita (well-taught) because it is taught according to its true nature?
Ai sẽ thấu triệt Pháp cú đã được khéo thuyết nghĩa là, ai sẽ khảo sát, sẽ tìm hiểu, sẽ xem xét, sẽ thấu triệt, sẽ chứng ngộ Pháp cú, được gọi là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đã được khéo thuyết vì đã được nói đúng theo bản chất, giống như người làm tràng hoa khéo léo lựa chọn hoa?
Sekhoti adhisīlasikkhā, adhicittasikkhā, adhipaññāsikkhāti imā tisso sikkhā sikkhanato sotāpattimaggaṭṭhaṃ ādiṃ katvā yāva arahattamaggaṭṭhā sattavidho sekho imaṃ attabhāvasaṅkhātaṃ pathaviṃ arahattamaggena tato chandarāgaṃ apakaḍḍhanto vicessati vicinissati vijānissati paṭivijjhissati sacchikarissati.
Sekho means: the seven types of Sekha, starting from the stream-enterer who stands on the path, up to the one standing on the path of Arahantship, who cultivates the three trainings—the training in higher morality (adhisīlasikkhā), the training in higher consciousness (adhicittasikkhā), and the training in higher wisdom (adhipaññāsikkhā)—will investigate, discern, penetrate, and realize this earth, which is designated as individual existence, by eradicating craving for it through the path of Arahantship.
Bậc hữu học, vì thực hành ba học xứ này là tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, và tăng thượng tuệ học, nên bảy loại hữu học, bắt đầu từ vị trú tại Tu-đà-hoàn đạo cho đến vị trú tại A-la-hán đạo, sẽ khảo sát, sẽ tìm hiểu, sẽ biết, sẽ thấu triệt, sẽ chứng ngộ mảnh đất này, tức là tự thân này, bằng A-la-hán đạo, trong khi loại bỏ dục tham khỏi đó.
Yamalokañcāti taṃ yathāvuttapakāraṃ yamalokañca imaṃ manussalokañca saha devehi sadevakaṃ sveva vicessati vicinissati vijānissati paṭivijjhissati sacchikarissati.
Yamalokañcā means: that same Sekha will investigate, discern, penetrate, and realize the aforementioned Yama realm and this human realm, together with the devas.
Và cõi Diêm vương nghĩa là, vị ấy sẽ khảo sát, sẽ tìm hiểu, sẽ biết, sẽ thấu triệt, sẽ chứng ngộ cõi Diêm vương theo cách đã nói, và thế giới loài người này cùng với chư thiên.
Sekhoti sveva sattavidho sekho, yathā nāma kusalo mālākāro pupphārāmaṃ pavisitvā taruṇamakuḷāni ca pāṇakaviddhāni ca milātāni ca gaṇṭhikajātāni ca pupphāni vajjetvā sobhanāni sujātasujātāneva pupphāni vicināti, evameva imaṃ sukathitaṃ suniddiṭṭhaṃ bodhipakkhiyadhammapadampi paññāya pacessati vicinissati upaparikkhissati paṭivijjhissati sacchikarissatīti satthā sayameva pañhaṃ vissajjesi.
Sekho means: that same sevenfold Sekha, just as a skillful garland-maker, entering a flower garden, rejects young buds, worm-eaten flowers, withered flowers, and knotted flowers, and selects only beautiful, perfectly formed flowers; even so, with wisdom, will he gather, investigate, examine, penetrate, and realize this well-taught, well-expounded Dhamma-pada consisting of the factors of awakening. Thus the Teacher himself answered the question.
Bậc hữu học nghĩa là, chính bảy loại hữu học ấy, cũng như người làm tràng hoa khéo léo vào vườn hoa, tránh những nụ hoa non, những hoa bị sâu đục, những hoa héo úa, và những hoa bị thắt nút, chỉ chọn những bông hoa đẹp, sinh trưởng tốt, cũng vậy, vị ấy sẽ khảo sát, sẽ tìm hiểu, sẽ xem xét, sẽ thấu triệt, sẽ chứng ngộ Pháp cú về các phẩm trợ đạo đã được khéo thuyết, khéo chỉ dẫn này bằng trí tuệ. Bậc Đạo Sư đã tự mình giải đáp câu hỏi như vậy.
So kira bhikkhu satthu santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā, ‘‘samaṇadhammaṃ karissāmī’’ti araññaṃ pavisitvā ghaṭetvā vāyamitvā arahattaṃ pattuṃ asakkonto ‘‘visesetvā kammaṭṭhānaṃ kathāpessāmī’’ti satthu santikaṃ āgacchanto antarāmagge marīciṃ disvā, ‘‘yathā ayaṃ gimhasamaye uṭṭhitā marīci dūre ṭhitānaṃ rūpagatā viya paññāyati, santikaṃ āgacchantānaṃ neva paññāyati, ayaṃ attabhāvopi uppādavayaṭṭhena evarūpo’’ti marīcikammaṭṭhānaṃ bhāvento āgantvā maggakilanto aciravatiyaṃ nhāyitvā ekasmiṃ caṇḍasotatīre rukkhachāyāya nisinno udakavegābhighātena uṭṭhahitvā mahante mahante pheṇapiṇḍe bhijjamāne disvā, ‘‘ayaṃ attabhāvopi uppajjitvā bhijjanaṭṭhena evarūpoyevā’’ti ārammaṇaṃ aggahesi.
It is said that this monk, having received a meditation subject from the Teacher, entered the forest, intending to practice the ascetic life (samaṇadhamma). After striving and exerting himself, he was unable to attain Arahantship. Thinking, "I will ask the Teacher to explain the meditation subject in more detail," he started on his way back. On the path, he saw a mirage and reflected, "Just as this mirage, which appears in the hot season, seems like a real form to those standing far away, but is not seen by those who come near, so too is this individual existence in terms of its arising and passing away." As he thus meditated on the mirage, he arrived, weary from his journey, bathed in the Aciravatī River, and sat under a tree on the bank of the swift current. There, he saw large foam-bubbles being broken up by the force of the water and grasped this as his meditation subject, thinking, "This individual existence, too, is just like this in terms of arising and breaking up."
Vị Tỳ-kheo ấy, sau khi thọ nhận đề mục thiền quán từ Đức Đạo Sư, đã vào rừng với ý định: “Ta sẽ thực hành pháp Sa-môn.” Nhưng dù đã tinh tấn nỗ lực, ngài không thể chứng A-la-hán. Ngài nghĩ: “Ta sẽ trở lại để Đức Đạo Sư thuyết giảng đề mục thiền quán một cách đặc biệt hơn.” Trên đường trở về, ngài nhìn thấy một ảo ảnh (marīci) và suy niệm về đề mục thiền quán ảo ảnh rằng: “Giống như ảo ảnh này, vào mùa hè, những người đứng xa thấy nó như có hình dáng, nhưng khi đến gần thì không thấy gì cả. Thân này cũng vậy, nó có bản chất như thế, chỉ là sự sinh diệt.” Sau khi đến nơi, vì mệt mỏi trên đường, ngài tắm rửa tại sông Aciravatī. Ngồi dưới bóng cây bên bờ sông có dòng chảy xiết, ngài thấy những khối bọt nước lớn nổi lên do sóng nước đánh vào và tan vỡ. Ngài liền nắm bắt đề mục thiền quán rằng: “Thân này cũng vậy, chỉ là sự sinh diệt, có bản chất như thế.”
Satthā gandhakuṭiyaṃ ṭhitova taṃ theraṃ disvā, ‘‘evameva, bhikkhu, evarūpovāyaṃ attabhāvo pheṇapiṇḍo viya marīci viya uppajjanabhijjanasabhāvoyevā’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
The Teacher, standing in the Perfumed Chamber (Gandhakuṭī), saw that elder and said, "Indeed, monk, this individual existence is truly like this, like a foam-bubble, like a mirage, having the nature of arising and breaking up," and then spoke this verse—
Đức Đạo Sư, trong khi đang ở trong Hương Thất (Gandhakuṭi), đã thấy vị Trưởng lão ấy và nói: “Này Tỳ-kheo, đúng vậy, thân này có bản chất như thế, giống như bọt nước, giống như ảo ảnh, chỉ có bản chất sinh và diệt.” Sau khi nói vậy, Ngài đã thuyết kệ ngôn này:
Tattha pheṇūpamanti imaṃ kesādisamūhasaṅkhātaṃ kāyaṃ abaladubbalaṭṭhena anaddhaniyatāvakālikaṭṭhena pheṇapiṇḍasarikkhakoti viditvā.
In this connection, pheṇūpamaṃ means: having known this body, which is composed of hair and other constituents, to be like a foam-bubble due to its being very weak and frail, and not lasting long, but only for a brief moment.
Trong đó, pheṇūpama (như bọt nước) nghĩa là: sau khi biết thân này, vốn là tập hợp của tóc và các phần khác, yếu ớt, mong manh, không bền vững, chỉ tồn tại trong chốc lát, giống như bọt nước.
Marīcidhammanti yathā marīci dūre ṭhitānaṃ rūpagatā viya gayhūpagā viya hoti, santike upagacchantānaṃ rittā tucchā agayhūpagā sampajjati, evameva khaṇikaittarapaccupaṭṭhānaṭṭhena ayaṃ kāyopi marīcidhammoti abhisambudhāno bujjhanto, jānantoti attho.
Marīcidhammaṃ means: just as a mirage appears as a form, as something graspable, to those standing far away, but becomes empty, void, and ungraspable to those who approach near, so too is this body of the nature of a mirage (marīcidhamma) because it manifests fleetingly and briefly. Abhisambudhāno means: understanding, knowing.
Marīcidhamma (bản chất ảo ảnh) nghĩa là: giống như ảo ảnh, những người đứng xa thấy nó như có hình dáng, như có thể nắm bắt được, nhưng khi đến gần thì nó trống rỗng, vô ích, không thể nắm bắt được. Cũng vậy, thân này có bản chất ảo ảnh vì nó chỉ hiện hữu tạm thời trong khoảnh khắc. Abhisambudhāno nghĩa là thấu hiểu, biết rõ điều đó.
Mārassa papupphakānīti mārassa papupphakasaṅkhātāni tebhūmakāni vaṭṭāni ariyamaggena chinditvā khīṇāsavo bhikkhu maccurājassa adassanaṃ avisayaṃ amatamahānibbānaṃ gaccheyyāti.
Mārassa papupphakāni means: having cut off the three cycles of existence, which are Māra's flowery darts, with the Noble Path, an Arahant monk goes to the unperceived realm of the King of Death, to the immortal great Nibbāna.
Mārassa papupphakāni (những chùm hoa của Ma vương) nghĩa là: một Tỳ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc (khīṇāsava), sau khi chặt đứt vòng luân hồi (vaṭṭa) ba cõi, vốn được gọi là những chùm hoa của Ma vương, bằng Thánh đạo, sẽ đi đến Niết-bàn vĩ đại bất tử, nơi mà Vua Tử Thần không thể thấy, không thể đến.
Tatrāyaṃ anupubbikathā – sāvatthiyañhi mahākosalarañño putto pasenadikumāro nāma.
Herein is the sequential narrative: In Sāvatthī, there was a prince named Pasenadi, son of King Mahākosala.
Đây là câu chuyện tuần tự về sự việc đó: Tại Sāvatthī, có một hoàng tử tên là Pasenadi, con trai của vua Mahākosala. Tại Vesālī, có một hoàng tử Licchavi tên là Mahāli, con trai của vua Licchavi. Và tại Kusinārā, có một hoàng tử Malla tên là Bandhula. Ba người này đã đến Taxila để học nghệ thuật từ một vị đạo sư nổi tiếng khắp các phương (disāpāmokkha). Họ gặp nhau tại một hội trường bên ngoài thành phố, hỏi về lý do đến, gia đình và tên của nhau, rồi trở thành bạn bè. Cùng nhau, họ đến gặp vị đạo sư và học nghệ thuật. Chẳng bao lâu, sau khi đã thành thạo nghệ thuật, họ xin phép đạo sư và cùng nhau rời đi, trở về nơi của mình.
Vesāliyaṃ licchavirañño putto licchavikumāro mahāli nāma, kusinārāyaṃ mallarājaputto bandhulo nāmāti ime tayo disāpāmokkhassācariyassa santike sippuggahaṇatthaṃ takkasilaṃ gantvā bahinagare sālāya samāgatā aññamaññassa āgatakāraṇañca kulañca nāmañca pucchitvā sahāyakā hutvā ekatova ācariyaṃ upasaṅkamitvā sippaṃ sikkhantā na cirasseva uggahitasippā ācariyaṃ āpucchitvā ekatova nikkhamitvā sakasakaṭṭhānāni agamaṃsu.
In Vesālī, there was a Licchavi prince named Mahāli, son of the Licchavi king; and in Kusinārā, a Mallā prince named Bandhula. These three went to Takkasilā to learn skills from the Disāpāmokkha teacher. They met in a hall outside the city, asked each other about the reason for their coming, their lineage, and their names, became friends, and together approached the teacher. Learning the skills, they mastered them in a short time, then took leave of the teacher, and together departed for their respective homes.
Trong số đó, Hoàng tử Pasenadi đã trình diễn nghệ thuật của mình cho phụ vương, và phụ vương, hài lòng, đã tấn phong ngài lên ngôi vua.
Tesu pasenadikumāro pitu sippaṃ dassetvā pasannena pitarā rajje abhisitto.
Among them, Prince Pasenadi, having demonstrated his skills to his father, was anointed king by his pleased father.
Hoàng tử Mahāli đã trình diễn nghệ thuật của mình cho các Licchavi. Ngài đã biểu diễn với sự nhiệt tình lớn, đến nỗi mắt ngài bị tổn thương.
Mahālikumāro licchavīnaṃ sippaṃ dassento mahantena ussāhena dassesi, tassa akkhīni bhijjitvā agamaṃsu.
Prince Mahāli, while demonstrating his skills to the Licchavis, did so with great exertion, and his eyes burst and were lost.
Các vua Licchavi nói: “Ôi! Vị đạo sư của chúng ta đã bị hỏng mắt. Chúng ta sẽ không bỏ rơi ngài, chúng ta sẽ phụng dưỡng ngài.” Họ đã ban cho ngài một cổng thành có thu nhập một trăm ngàn (tiền).
Licchavirājāno ‘‘aho vata amhākaṃ ācariyo akkhivināsaṃ patto, na naṃ pariccajissāma, upaṭṭhahissāma na’’nti tassa satasahassuṭṭhānakaṃ ekaṃ dvāraṃ adaṃsu.
The Licchavi kings, saying, "Alas, our teacher has suffered the loss of his eyes! We will not abandon him; we will attend to him," gave him a gate that yielded a hundred thousand (coins).
Dựa vào đó, ngài đã sống và dạy nghệ thuật cho năm trăm hoàng tử Licchavi.
So taṃ nissāya pañcasate licchavirājaputte sippaṃ sikkhāpento vasi.
Relying on that, he taught skills to five hundred Licchavi princes and resided there.
Hoàng tử Bandhula, khi được các vua Malla yêu cầu “Hãy chặt những bó tre này,” sau khi họ đã lấy sáu mươi cây tre, đặt một thanh sắt vào giữa, và dựng sáu mươi bó tre lên, ngài đã nhảy lên không trung cao tám mươi cubit và dùng kiếm chặt chúng.
Bandhulakumāro saṭṭhiṃ saṭṭhiṃ veḷū gahetvā majjhe ayasalākaṃ pakkhipitvā saṭṭhikalāpe ussāpetvā ṭhapite mallarājakulehi ‘‘ime kappetū’’ti vutto asītihatthaṃ ākāsaṃ ullaṅghitvā asinā kappento agamāsi.
Prince Bandhula, when told by the Mallā royal families to "cut these" sixty bundles of sixty bamboos each, with an iron rod inserted in the middle, leaped eighty cubits into the air and cut them with his sword as he went.
Khi ngài nghe tiếng “kiri” của thanh sắt trong bó tre cuối cùng, ngài hỏi: “Cái gì vậy?” Sau khi biết rằng các thanh sắt đã được đặt vào tất cả các bó tre, ngài liền vứt kiếm và khóc, nói: “Trong số rất nhiều bà con và bạn bè của ta, không một ai có lòng yêu thương mà nói cho ta biết điều này. Nếu ta biết, ta đã chặt mà không để thanh sắt phát ra tiếng động.” Rồi ngài nói với cha mẹ: “Ta sẽ giết tất cả những người này và cai trị vương quốc.”
So osānakalāpe ayasalākāya ‘‘kirī’’ti saddaṃ sutvā, ‘‘kiṃ eta’’nti pucchitvā sabbakalāpesu ayasalākānaṃ ṭhapitabhāvaṃ ñatvā asiṃ chaḍḍetvā rodamāno ‘‘mayhaṃ ettakesu ñātisuhajjesu ekopi sasineho hutvā imaṃ kāraṇaṃ nācikkhi.
When he heard the sound "kirī" from the iron rod in the last bundle, he asked, "What is this?" and realizing that iron rods had been placed in all the bundles, he threw down his sword and wept, saying, "Among so many relatives and friends of mine, not one, out of affection, told me this matter.
Cha mẹ ngài đã ngăn cản bằng nhiều cách, nói: “Này con, đây là một vương quốc truyền thống, con không thể làm như vậy.” Ngài liền nói: “Nếu vậy, ta sẽ đến chỗ bạn ta,” và ngài đến Sāvatthī.
Sace hi ahaṃ jāneyyaṃ, ayasalākāya saddaṃ anuṭṭhāpentova chindeyya’’nti vatvā, ‘‘sabbepime māretvā rajjaṃ kareyya’’nti mātāpitūnaṃ kathesi.
If I had known, I would have cut them without making the sound of the iron rod." Then he said to his parents, "I would kill all these and rule the kingdom."
Vua Pasenadi Kosala, nghe tin ngài đến, đã ra đón và đưa ngài vào thành với sự trọng thị lớn, rồi bổ nhiệm ngài vào vị trí tổng tư lệnh quân đội.
Tehi ‘‘paveṇirajjaṃ nāma, tāta, idaṃ na labbhā evaṃ kātu’’nti nānappakārena vārito ‘‘tena hi mama sahāyakassa santikaṃ gamissāmī’’ti sāvatthiṃ agamāsi.
His parents restrained him in various ways, saying, "My son, this is a hereditary kingdom; it cannot be done like that." Then he said, "In that case, I will go to my friend," and departed for Sāvatthī.
Ngài đã mời cha mẹ đến và ở lại đó.
Pasenadi kosalo rājā tassāgamanaṃ sutvā paccuggantvā mahantena sakkārena taṃ nagaraṃ pavesetvā senāpatiṭṭhāne ṭhapesi.
King Pasenadi of Kosala, hearing of his arrival, went forth to meet him, brought him into the city with great honor, and appointed him to the position of army general.
Một ngày nọ, nhà vua đứng trên lầu cao của cung điện, nhìn xuống con đường chính. Ngài thấy hàng ngàn Tỳ-kheo thường xuyên đi đến nhà của Anāthapiṇḍika, Cūḷa-Anāthapiṇḍika, Visākhā và Suppavāsā để thọ thực. Ngài hỏi: “Thưa các Tôn giả, quý vị đi đâu vậy?” Khi được trả lời: “Tâu Đại vương, hàng ngày hai ngàn Tỳ-kheo đến nhà Anāthapiṇḍika để thọ thực thường xuyên, thực phẩm theo phiếu, thực phẩm cho người bệnh, v.v. Năm trăm vị đến nhà Cūḷa-Anāthapiṇḍika, năm trăm vị đến nhà Visākhā, và năm trăm vị đến nhà Suppavāsā,” nhà vua cũng muốn cúng dường Tăng đoàn. Ngài đến tinh xá, thỉnh Đức Đạo Sư cùng với một ngàn Tỳ-kheo, tự tay cúng dường trong bảy ngày. Vào ngày thứ bảy, ngài đảnh lễ Đức Đạo Sư và nói: “Bạch Thế Tôn, xin Ngài và năm trăm Tỳ-kheo thọ nhận thực phẩm cúng dường thường xuyên của con.”
So mātāpitaro pakkosāpetvā tattheva vāsaṃ kappesi.
He sent for his parents and arranged for them to reside there as well.
Đức Đạo Sư đáp: “Đại vương, chư Phật không thọ nhận thực phẩm cúng dường thường xuyên tại một nơi duy nhất. Nhiều người đang mong đợi sự quang lâm của chư Phật.”
Athekadivasaṃ rājā uparipāsāde ṭhito antaravīthiṃ olokayamāno ‘‘anāthapiṇḍikassa cūḷaanāthapiṇḍikassa visākhāya suppavāsāyā’’ti etesaṃ gehe niccaṃ bhattakiccatthāya gacchante anekasahasse bhikkhū disvā, ‘‘kahaṃ, ayyā, gacchantī’’ti pucchitvā, ‘‘deva, anāthapiṇḍikassa gehe niccabhattasalākabhattagilānabhattādīnaṃ atthāya devasikaṃ dve bhikkhusahassāni gacchanti, cūḷaanāthapiṇḍikassa gehe pañcasatāni, tathā visākhāya tathā suppavāsāyā’’ti vutte sayampi bhikkhusaṅghaṃ upaṭṭhahitukāmo vihāraṃ gantvā bhikkhusahassena saddhiṃ satthāraṃ nimantetvā sattāhaṃ sahatthā dānaṃ datvā sattame divase satthāraṃ vanditvā, ‘‘bhante, pañcahi me bhikkhusatehi saddhiṃ nibaddhaṃ bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti āha.
Then one day, the king, standing on the upper palace, looking at the street, saw many thousands of bhikkhus going to the houses of Anāthapiṇḍika, Cūḷaanāthapiṇḍika, Visākhā, and Suppavāsā for their daily meal. He asked, "Where are you going, venerable sirs?" When told, "Your Majesty, two thousand bhikkhus go daily to Anāthapiṇḍika's house for regular meals, meal tickets, and sick-bhikkhu meals, etc. Five hundred go to Cūḷaanāthapiṇḍika's house, likewise to Visākhā's, and likewise to Suppavāsā's." Desiring to attend to the Saṅgha himself, he went to the monastery, invited the Teacher with a thousand bhikkhus, offered alms with his own hands for seven days, and on the seventh day, saluted the Teacher and said, "Venerable Sir, please accept regular alms from me with five hundred bhikkhus."
“Vậy thì, xin Ngài hãy cử một Tỳ-kheo đến thường xuyên,” nhà vua thưa.
‘‘Mahārāja buddhā nāma ekaṭṭhāne nibaddhaṃ bhikkhaṃ na gaṇhanti, bahū janā buddhānaṃ āgamanaṃ paccāsīsantī’’ti.
"Great King, Buddhas do not accept regular alms in one place; many people long for the coming of the Buddhas."
Đức Đạo Sư giao trách nhiệm cho Trưởng lão Ānanda.
‘‘Tena hi ekaṃ bhikkhuṃ nibaddhaṃ pesethā’’ti āha.
"Then please send one bhikkhu regularly," he said.
Khi Tăng đoàn đến, nhà vua cầm bát và, không suy nghĩ, nói: “Những vị này hãy phục vụ.” Ngài tự mình phục vụ trong bảy ngày. Vào ngày thứ tám, ngài lơ đễnh, tâm trí phân tán.
Satthā ānandattherassa bhāraṃ akāsi.
The Teacher assigned this duty to Venerable Ānanda.
Trong hoàng cung, những người không được lệnh không được phép sắp đặt chỗ ngồi cho các Tỳ-kheo và mời họ ngồi để phục vụ. Nhiều Tỳ-kheo đã rời đi, nói: “Chúng tôi không thể ở lại đây được.”
Rājā bhikkhusaṅghe āgate pattaṃ gahetvā, ‘‘ime nāma parivisantū’’ti avicāretvāva sattāhaṃ sayameva parivisitvā aṭṭhame divase vikkhittacitto pamajjamakāsi.
When the Saṅgha arrived, the king took the bowl and, without considering "these people should serve," he served himself for seven days. On the eighth day, with a distracted mind, he became negligent.
Ngày thứ hai, nhà vua cũng lơ đễnh. Ngày thứ hai cũng có nhiều Tỳ-kheo rời đi.
Rājakule nāma anāṇattā āsanāni paññāpetvā bhikkhū nisīdāpetvā parivisituṃ na labhanti ‘‘na mayaṃ idha ṭhātuṃ sakkhissāmā’’ti bahū bhikkhū pakkamiṃsu.
In a royal palace, without being commanded, one cannot arrange seats, seat bhikkhus, and serve them. Many bhikkhus departed, thinking, "We will not be able to stay here."
Ngày thứ ba, ngài cũng lơ đễnh. Lúc đó, tất cả các Tỳ-kheo khác đều rời đi, chỉ còn lại một mình Trưởng lão Ānanda.
Rājā dutiyadivasepi pamajji, dutiyadivasepi bahū bhikkhū pakkamiṃsu.
The king was negligent on the second day as well, and many bhikkhus departed on the second day too.
Những người có phước báu thường có những lý do đặc biệt và bảo vệ niềm tin của các gia đình.
Tatiyadivasepi pamajji, tadā ānandattheraṃ ekakameva ṭhapetvā avasesā pakkamiṃsu.
He was negligent on the third day as well, and then all the remaining bhikkhus departed, leaving only Venerable Ānanda.
Trưởng lão Ānanda, người đã hoàn thành ba-la-mật trong một trăm ngàn đại kiếp và có những lời nguyện đặc biệt, là một bậc đại trí. Ngài đã ở lại, bảo vệ niềm tin của gia đình nhà vua.
Puññavantā nāma kāraṇavasikā honti, kulānaṃ pasādaṃ rakkhanti.
Meritorious ones are dedicated to their purpose; they protect the faith of families.
Họ đã mời ngài Ānanda ngồi một mình và phục vụ ngài.
Tathāgatassa ca sāriputtatthero mahāmoggallānattheroti dve aggasāvakā, khemā uppalavaṇṇāti dve aggasāvikā, upāsakesu citto, gahapati, hatthako āḷavakoti dve aggaupāsakā, upāsikāsu veḷukaṇṭhakī nandamātā, khujjuttarāti dve aggaupāsikā, iti ime aṭṭha jane ādiṃ katvā ṭhānantarapattā sabbepi sāvakā ekadesena dasannaṃ pāramīnaṃ pūritattā mahāpuññā abhinīhārasampannā.
Thus, the Tathāgata had two chief disciples, Venerable Sāriputta and Venerable Mahāmoggallāna; two chief female disciples, Khemā and Uppalavaṇṇā; among the male lay followers, two chief lay followers, Citta the householder and Hatthaka of Āḷavī; among the female lay followers, two chief lay followers, Nandamātā of Veḷukaṇṭhakī and Khujjuttarā. Starting with these eight individuals, all the disciples who had attained positions were greatly meritorious, endowed with aspirations, having fulfilled the ten Pāramīs in part.
Và đối với Đức Như Lai, có hai vị Thượng thủ Thinh văn là Trưởng lão Sāriputta và Trưởng lão Mahāmoggallāna; hai vị Thượng thủ Thinh văn ni là Khemā và Uppalavaṇṇā; trong số các nam cư sĩ, có hai vị Thượng thủ nam cư sĩ là gia chủ Citta và Hatthaka người Āḷavaka; trong số các nữ cư sĩ, có hai vị Thượng thủ nữ cư sĩ là Nandamātā người Veḷukaṇṭakī và Khujjuttarā. Như vậy, tất cả các vị thinh văn đã đạt được địa vị, bắt đầu từ tám vị này, đều có đại phước, đầy đủ nguyện lực vì đã viên mãn mười ba-la-mật ở một mức độ nào đó.
Ānandattheropi kappasatasahassaṃ pūritapāramī abhinīhārasampanno mahāpuñño attano kāraṇavasikatāya kulassa pasādaṃ rakkhanto aṭṭhāsi.
Venerable Ānanda, too, was greatly meritorious, endowed with aspirations, having fulfilled the Pāramīs for one hundred thousand aeons. He remained, protecting the faith of the family due to his dedication to his purpose.
Trưởng lão Ānanda cũng là người có đại phước, đầy đủ nguyện lực, đã viên mãn ba-la-mật trong một trăm ngàn kiếp, ngài đã ở lại để bảo vệ niềm tin của gia đình do duyên sự của chính mình.
Taṃ ekakameva nisīdāpetvā parivisiṃsu.
They seated only him and served him.
Họ đã mời một mình ngài ngồi xuống và phục vụ.
Rājā bhikkhūnaṃ gatakāle āgantvā khādanīyabhojanīyāni tatheva ṭhitāni disvā, ‘‘kiṃ, ayyā, nāgamiṃsū’’ti pucchitvā, ‘‘ānandatthero ekakova āgato devā’’ti sutvā, ‘‘addhā ettakaṃ me bhattacchedanamakaṃsū’’ti bhikkhūnaṃ kuddho satthu santikaṃ gantvā, ‘‘bhante, mayā pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ bhikkhā paṭiyattā, ānandatthero kira ekakovāgato, paṭiyattā bhikkhā tatheva ṭhitā, pañcasatā bhikkhū mama gehe saññaṃ na kariṃsu, kiṃ nu kho kāraṇa’’nti āha.
When the bhikkhus had departed, the king arrived and, seeing the food and edibles remaining as they were, asked, "Why did the venerable sirs not come?" Hearing, "Only Venerable Ānanda came, Your Majesty," he became angry with the bhikkhus, thinking, "Indeed, they have caused such a cessation of my meal." He went to the Teacher and said, "Venerable Sir, I had prepared alms for five hundred bhikkhus, but it seems only Venerable Ānanda came. The prepared alms remain as they were. The five hundred bhikkhus did not acknowledge my house. What could be the reason?"
Khi các vị tỳ-khưu đã đi, nhà vua đến, thấy các món ăn và vật thực vẫn còn nguyên, liền hỏi: “Thưa các ngài, sao các ngài không đến?” Khi nghe tin: “Thưa Đại vương, chỉ có Trưởng lão Ānanda đến một mình”, nhà vua nổi giận với các vị tỳ-khưu, nghĩ rằng: “Chắc chắn họ đã làm cho ta mất đi cơ hội cúng dường này.” Ngài đến gặp Bậc Đạo Sư và thưa: “Bạch Thế Tôn, con đã chuẩn bị vật thực cho năm trăm vị tỳ-khưu, nhưng nghe nói chỉ có Trưởng lão Ānanda đến một mình. Vật thực đã chuẩn bị vẫn còn nguyên. Năm trăm vị tỳ-khưu đã không nhớ đến nhà của con. Nguyên nhân là gì vậy?”
Satthā bhikkhūnaṃ dosaṃ avatvā, ‘‘mahārāja, mama sāvakānaṃ tumhehi saddhiṃ vissāso natthi, tena na gatā bhavissantī’’ti vatvā kulānaṃ anupagamanakāraṇañca upagamanakāraṇañca pakāsento bhikkhū āmantetvā imaṃ suttamāha –
The Teacher, without faulting the bhikkhus, said, "Great King, my disciples do not have familiarity with you, that is why they might not have gone." Desiring to explain the reasons for not approaching and for approaching families, he addressed the bhikkhus and spoke this discourse:
Bậc Đạo Sư không nói lỗi của các vị tỳ-khưu, mà nói rằng: “Thưa Đại vương, các đệ tử của ta không có sự thân tín với ngài, vì vậy họ đã không đến.” Và để làm rõ nguyên nhân của việc không đến và đến các gia đình, Ngài đã gọi các vị tỳ-khưu và thuyết bài kinh này:
‘‘Navahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgataṃ kulaṃ anupagantvā vā nālaṃ upagantuṃ, upagantvā vā nālaṃ upanisīdituṃ.
"Bhikkhus, a family endowed with nine qualities is not fit to be approached if not approached before, nor fit to be sat with if approached.
“Này các Tỳ-khưu, một gia đình có đủ chín yếu tố, dù chưa từng đến cũng không nên đến, hoặc đã đến rồi cũng không nên ngồi lại gần.
Katamehi navahi?
Which nine?
Chín yếu tố đó là gì?
Na manāpena paccuṭṭhenti, na manāpena abhivādenti, na manāpena āsanaṃ denti, santamassa pariguhanti, bahukampi thokaṃ denti, paṇītampi lūkhaṃ denti, asakkaccaṃ denti no sakkaccaṃ, na upanisīdanti dhammassavanāya, bhāsitamassa na sussūsanti.
They do not rise to greet him pleasantly, nor do they salute him pleasantly, nor do they offer him a seat pleasantly; they conceal what they have, they give little even if they have much, they give inferior food even if they have excellent food, they give disrespectfully and not respectfully, they do not sit near for the hearing of the Dhamma, nor do they listen attentively to what he says.
Họ không đứng dậy chào đón một cách hoan hỷ, không đảnh lễ một cách hoan hỷ, không mời ngồi một cách hoan hỷ, họ che giấu những gì đang có, có nhiều nhưng lại cho ít, có đồ ngon nhưng lại cho đồ dở, cho một cách không cung kính chứ không phải cung kính, không ngồi lại gần để nghe pháp, không lắng nghe lời đã nói.
Imehi kho, bhikkhave, navahaṅgehi samannāgataṃ kulaṃ anupagantvā vā nālaṃ upagantuṃ, upagantvā vā nālaṃ upanisīdituṃ.
Monks, it is not fitting to approach a family endowed with these nine factors if one has not approached them before, nor is it fitting to sit near them if one has approached them.
Này các Tỳ-khưu, một gia đình có đủ chín yếu tố này, dù chưa từng đến cũng không nên đến, hoặc đã đến rồi cũng không nên ngồi lại gần.
‘‘Navahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgataṃ kulaṃ anupagantvā vā alaṃ upagantuṃ, upagantvā vā alaṃ upanisīdituṃ.
“Monks, a family endowed with nine factors is worthy of being approached even if one has not approached it before, and worthy of sitting near if one has approached it.
“Này các Tỳ-khưu, một gia đình có đủ chín yếu tố, dù chưa từng đến cũng nên đến, hoặc đã đến rồi cũng nên ngồi lại gần.
Katamehi navahi?
What are these nine?
Chín yếu tố đó là gì?
Manāpena paccuṭṭhenti, manāpena abhivādenti, manāpena āsanaṃ denti, santamassa na pariguhanti, bahukampi bahukaṃ denti, paṇītampi paṇītaṃ denti, sakkaccaṃ denti no asakkaccaṃ, upanisīdanti dhammassavanāya, bhāsitamassa sussūsanti.
They rise to greet him pleasantly, they salute him pleasantly, they offer him a seat pleasantly, they do not conceal what they have, they give much even if they have much, they give excellent food even if they have excellent food, they give respectfully and not disrespectfully, they sit near for the hearing of the Dhamma, and they listen attentively to what he says.
Họ đứng dậy chào đón một cách hoan hỷ, đảnh lễ một cách hoan hỷ, mời ngồi một cách hoan hỷ, họ không che giấu những gì đang có, có nhiều thì cho nhiều, có đồ ngon thì cho đồ ngon, cho một cách cung kính chứ không phải không cung kính, họ ngồi lại gần để nghe pháp, họ lắng nghe lời đã nói.
Imehi kho, bhikkhave, navahaṅgehi samannāgataṃ kulaṃ anupagantvā vā alaṃ upagantuṃ, upagantvā vā alaṃ upanisīditu’’nti (a. ni. 9.17).
Monks, a family endowed with these nine factors is worthy of being approached even if one has not approached it before, and worthy of sitting near if one has approached it.”
Này các Tỳ-khưu, một gia đình có đủ chín yếu tố này, dù chưa từng đến cũng nên đến, hoặc đã đến rồi cũng nên ngồi lại gần.”
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente kesavo nāma rājā rajjaṃ pahāya isipabbajjaṃ pabbaji.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, a king named Kesava renounced his kingdom and took up the ascetic life of a sage.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, có một vị vua tên là Kesava đã từ bỏ vương quốc và xuất gia làm đạo sĩ.
Taṃ pañca purisasatāni anupabbajiṃsu.
Five hundred men followed him into asceticism.
Năm trăm người đã xuất gia theo ngài.
So kesavatāpaso nāma ahosi.
He became known as the ascetic Kesava.
Ngài được gọi là đạo sĩ Kesava.
Pasādhanakappako panassa anupabbajitvā kappako nāma antevāsiko ahosi.
His barber, having also taken up asceticism, became a disciple named Kappaka.
Người thợ trang điểm của ngài cũng xuất gia theo và trở thành một đệ tử thân cận tên là Kappaka.
Kesavatāpaso parisāya saddhiṃ aṭṭha māse himavante vasitvā vassārattasamaye loṇambilasevanatthāya bārāṇasiṃ patvā bhikkhāya pāvisi.
The ascetic Kesava, with his company, resided in the Himalayas for eight months, and then, at the time of the rainy season, arrived in Bārāṇasī to partake of salt and sour flavors, and entered for alms.
Đạo sĩ Kesava cùng với đoàn tùy tùng đã sống tám tháng ở Himavanta, rồi vào mùa mưa, ngài đến Bārāṇasī để tìm muối và đồ chua, và đã vào thành khất thực.
Atha naṃ rājā disvā pasīditvā catumāsaṃ attano santike vasanatthāya paṭiññaṃ gahetvā uyyāneva vasāpento sayaṃ sāyaṃpātaṃ assa upaṭṭhānaṃ gacchati.
Then the king, seeing him, was pleased and, having obtained his promise to stay for four months, had him reside in the park, personally going to attend on him morning and evening.
Lúc ấy, nhà vua nhìn thấy ngài, phát sinh lòng tín thành, đã xin ngài hứa ở lại gần mình bốn tháng, và sắp xếp cho ngài ở trong vườn thượng uyển, còn chính nhà vua thì sáng chiều đến hầu hạ.
Avasesā tāpasā katipāhaṃ vasitvā hatthisaddādīhi ubbāḷhā hutvā ukkaṇṭhitvā, ‘‘ācariya, ukkaṇṭhitamhā, gacchāmā’’ti āhaṃsu.
The remaining ascetics, having stayed for a few days, became distressed by the sounds of elephants and so on, and feeling discontent, said, “Teacher, we are discontent, let us go.”
Các đạo sĩ còn lại, sau khi ở lại vài ngày, cảm thấy bị phiền nhiễu bởi tiếng voi và các âm thanh khác, nên đã chán nản và thưa rằng: “Thưa thầy, chúng con đã chán nản, chúng con xin đi.”
‘‘Kahaṃ, tātā’’ti?
“Where, my dears?”
“Đi đâu vậy, các con?”
‘‘Himavantaṃ, ācariyā’’ti.
“To the Himalayas, Teacher.”
“Thưa thầy, về Himavanta.”
Rājā amhākaṃ āgatadivaseyeva catumāsaṃ idha vasanatthāya paṭiññaṃ gaṇhi.
“The king obtained a promise from us to stay here for four months on the very day of our arrival.
“Nhà vua đã nhận lời hứa của chúng ta ngay ngày chúng ta đến rằng sẽ ở lại đây bốn tháng.”
‘‘Kathaṃ gamissatha, tātā’’ti?
How will you go, my dears?”
“Làm sao các con có thể đi được?”
‘‘Tumhehi amhākaṃ anācikkhitvāva paṭiññā dinnā, mayaṃ idha na sakkoma vasituṃ, ito avidūre tumhākaṃ pavattissavanaṭṭhāne vasissāmā’’ti vanditvā pakkamiṃsu.
They replied, “You made the promise without informing us; we cannot stay here. We will reside in a place not far from here where we can hear news of you,” and having paid homage, they departed.
“Thầy đã hứa mà không báo cho chúng con biết. Chúng con không thể ở lại đây được. Chúng con sẽ ở một nơi không xa đây, nơi có thể nghe tin tức của thầy.” Nói xong, họ đảnh lễ và ra đi.
Kappantevāsikena saddhiṃ ācariyo ohīyi.
The teacher was left behind with his disciple Kappaka.
Vị thầy ở lại cùng với đệ tử thân cận Kappaka.
Rājā upaṭṭhānaṃ āgato, ‘‘kahaṃ, ayyā’’ti pucchi.
The king came to attend and asked, “Where are the noble ones?”
Nhà vua đến hầu hạ và hỏi: “Thưa các ngài, các vị kia đâu rồi?”
‘‘Sabbe ukkaṇṭhitamhāti vatvā himavantaṃ gatā, mahārājā’’ti āha.
The ascetic replied, “They all said they were discontent and have gone to the Himalayas, great king.”
“Thưa Đại vương, tất cả đều nói rằng họ đã chán nản và đã đi về Himavanta.”
Kappakopi na cirasseva ukkaṇṭhitvā ācariyena punappunaṃ vāriyamānopi ‘‘na sakkomī’’ti vatvā pakkāmi.
Not long after, Kappaka also became discontent and, though repeatedly restrained by his teacher, said, “I cannot endure it,” and departed.
Kappaka cũng không lâu sau đó cảm thấy chán nản, dù được thầy ngăn cản nhiều lần, ông vẫn nói “Con không thể” rồi ra đi.
Itaresaṃ pana santikaṃ agantvā ācariyassa pavattiṃ suṇanto avidūre ṭhāne vasi.
However, instead of going to the others, he stayed in a nearby place, listening for news of his teacher.
Tuy nhiên, ông không đến chỗ những người khác mà ở lại một nơi không xa để nghe ngóng tin tức của thầy.
Aparabhāge ācariyassa antevāsike anussarantassa kucchirogo uppajji.
Later, as the teacher recollected his disciples, he developed a stomach ailment.
Sau đó, khi vị thầy nhớ đến các đệ tử, một cơn đau bụng đã phát sinh.
Rājā vejjehi tikicchāpesi, rogo na vūpasammati.
The king had him treated by physicians, but the illness did not subside.
Nhà vua cho các thầy thuốc chữa trị, nhưng bệnh không thuyên giảm.
Tāpaso āha – ‘‘kiṃ, mahārāja, icchasi me rogavūpasama’’nti?
The ascetic said, “Great king, do you wish for my illness to subside?”
Vị đạo sĩ hỏi: “Thưa Đại vương, ngài có muốn bệnh của ta thuyên giảm không?”
‘‘Bhante, sacāhaṃ sakkuṇeyyaṃ, idāneva vo phāsukaṃ kareyya’’nti.
“Venerable Sir, if I were able, I would immediately make you comfortable.”
“Bạch ngài, nếu con có thể, con sẽ làm cho ngài khỏe lại ngay bây giờ.”
‘‘Mahārāja, sace me phāsukaṃ icchasi, maṃ antevāsikānaṃ santikaṃ pesehī’’ti.
“Great king, if you wish for my comfort, send me to my disciples.”
“Thưa Đại vương, nếu ngài muốn ta khỏe lại, hãy đưa ta đến chỗ các đệ tử.”
Rājā ‘‘sādhu, bhante’’ti taṃ mañcake nipajjāpetvā nāradaamaccappamukhe cattāro amacce ‘‘mama ayyassa pavattiṃ ñatvā, mayhaṃ sāsanaṃ pahiṇeyyāthā’’ti uyyojesi.
The king said, “Very well, Venerable Sir,” and having laid him on a couch, he dispatched four ministers, led by the minister Nārada, saying, “After learning the news of my noble one, you should send a message to me.”
Nhà vua đáp: “Lành thay, thưa ngài.” Ngài cho vị đạo sĩ nằm trên giường, và cử bốn vị đại thần do đại thần Nārada dẫn đầu đi, dặn rằng: “Hãy tìm hiểu tình hình của tôn sư của ta rồi gửi tin về cho ta.”
Kappantevāsiko ācariyassa āgamanaṃ sutvā paccuggamanaṃ katvā itare ‘‘kaha’’nti vutte, ‘‘asukaṭṭhāne kira vasantī’’ti āha.
The disciple Kappaka, hearing of his teacher’s arrival, went forth to meet him, and when asked, “Where are the others?” he replied, “They are said to be residing in such and such a place.”
Vị đệ tử thân cận tên Kappa, nghe tin thầy đến, đã ra đón. Khi được hỏi “Những người khác đâu?”, ông nói: “Nghe nói họ đang ở tại nơi kia.”
Tepi ācariyassāgamanabhāvaṃ sutvā tattheva samosaritvā ācariyassa uṇhodakaṃ datvā phalāphalaṃ adaṃsu.
Those others also, hearing of the teacher’s arrival, gathered there and offered hot water and fruits to the teacher.
Các vị đệ tử kia cũng nghe tin thầy đến, liền tụ họp lại ngay tại đó, dâng nước nóng và trái cây cho thầy.
Taṃ khaṇaññeva rogo vūpasammati.
At that very moment, the illness subsided.
Ngay lúc đó, căn bệnh liền thuyên giảm.
So katipāheneva suvaṇṇavaṇṇo ahosi.
In just a few days, he became golden-complexioned.
Chỉ trong vài ngày, vị ấy đã có nước da vàng óng.
Atha naṃ nārado pucchi –
Then Nārada asked him:
Bấy giờ, Nārada hỏi vị ấy rằng:
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānento ‘‘tadā rājā moggallāno ahosi, nārado sāriputto, kappantevāsiko ānando, kesavatāpaso ahamevā’’ti vatvā, ‘‘evaṃ, mahārāja, pubbepi paṇḍitā māraṇantikaṃ vedanaṃ patvā vissāsikaṭṭhānaṃ gamiṃsu, mama sāvakā tumhākaṃ santike vissāsaṃ na labhanti maññe’’ti āha.
The Teacher, having given this Dhamma discourse and connected the Jātaka, said, “At that time, the king was Moggallāna, Nārada was Sāriputta, the disciple Kappaka was Ānanda, and the ascetic Kesava was I myself.” He then added, “Thus, great king, even wise ones of old, when afflicted by mortal pain, went to a familiar place. I suppose my disciples do not find intimacy with you.”
Bậc Đạo Sư, sau khi thuyết giảng bài pháp này và kết nối câu chuyện tiền thân, đã nói: “Khi ấy, vị vua là Moggallāna, Nārada là Sāriputta, vị đệ tử thân cận Kappa là Ānanda, còn đạo sĩ Kesava chính là ta vậy.” Rồi Ngài nói tiếp: “Thưa Đại vương, cũng vậy, trong quá khứ, các bậc hiền trí dù phải chịu đựng cơn đau đớn đến chết cũng đã tìm đến nơi tin cậy. Ta nghĩ rằng các đệ tử của ta không nhận được sự tin cậy nơi ngài.”
Rājā ‘‘bhikkhusaṅghena saddhiṃ mayā vissāsaṃ kātuṃ vaṭṭati, kathaṃ nu kho karissāmīti sammāsambuddhassa ñātidhītaraṃ mama gehe kātuṃ vaṭṭati, evaṃ sante ‘daharā ca sāmaṇerā ca sammāsambuddhassa ñātirājā’ti mama santikaṃ vissatthā nibaddhaṃ āgamissantī’’ti cintetvā – ‘‘ekaṃ me dhītaraṃ dentū’’ti sākiyānaṃ santikaṃ sāsanaṃ pesesi.
The king pondered, “It is fitting for me to create intimacy with the Sangha. How then shall I do it? It is fitting to take a daughter from the relatives of the Sammāsambuddha into my house. If this happens, young bhikkhus and novices, thinking, ‘This is a relative king of the Sammāsambuddha,’ will come to me constantly and with confidence.” So he thought, and sent a message to the Sākiyans, saying, “Give me a daughter.”
Vua suy nghĩ: "Ta nên tạo sự thân mật với Tăng đoàn. Ta phải làm gì đây? Ta nên đưa một người con gái trong dòng tộc của Đức Chánh Đẳng Giác về cung điện của ta. Như vậy, các tỳ khưu trẻ và các Sa-di sẽ nghĩ: 'Đây là vị vua bà con của Đức Chánh Đẳng Giác,' và họ sẽ thường xuyên đến với ta một cách thân mật." Sau khi suy nghĩ như vậy, vua đã gửi sứ giả đến dòng Sakya, nói: "Hãy gả cho ta một người con gái."
‘‘Katarassa sakyassa dhītā’’ti ca pucchitvā, ‘‘ñatvā āgaccheyyāthā’’ti vatvā dūte āṇāpesi.
He also asked, “Whose daughter is she?” and instructed the messengers, “Find out and then return.”
Vua cũng hỏi: "Là con gái của vị Sakya nào?" và dặn các sứ giả: "Hãy tìm hiểu rồi trở về."
Dūtā gantvā sākiye dārikaṃ yāciṃsu.
The messengers went and asked the Sākiyans for a maiden.
Các sứ giả đi đến và cầu hôn một người con gái của dòng Sakya.
Te sannipatitvā, ‘‘pakkhantariko rājā, sace na dassāma, vināsessati no, na kho pana amhehi kulena sadiso, kiṃ nu kho kātabba’’nti mantayiṃsu.
They assembled and deliberated, “The king is an adversary. If we do not give her, he will destroy us. Yet, he is not equal to us in family. What should be done?”
Họ nhóm họp và bàn bạc: "Vua là người có nhiều phe phái. Nếu chúng ta không gả, ông ta sẽ hủy diệt chúng ta. Nhưng ông ta không cùng đẳng cấp với chúng ta. Chúng ta phải làm gì đây?"
Mahānāmo ‘‘mama dāsiyā kucchimhi jātā vāsabhakhattiyā nāma dhītā rūpasobhaggappattā atthi, taṃ dassāmā’’ti vatvā dūte āha – ‘‘sādhu, rañño dārikaṃ dassāmā’’ti.
Mahānāma said, “I have a daughter named Vāsabhakhattiyā, born from my slave woman, who has attained beauty of form. We will give her.” Having said this, he told the messengers, “Very well, we will give a maiden to the king.”
Đại danh (Mahānāma) nói: "Ta có một người con gái tên là Vāsabhakhattiyā, sinh ra từ bụng của tớ gái ta, nàng có sắc đẹp tuyệt vời. Chúng ta sẽ gả nàng." Rồi ông nói với các sứ giả: "Được, chúng tôi sẽ gả người con gái cho vua."
‘‘Sā kassa, dhītā’’ti?
“Whose daughter is she?”
"Nàng là con gái của ai?"
‘‘Sammāsambuddhassa cūḷapituputtassa mahānāmassa sakkassa dhītā vāsabhakhattiyā nāmā’’ti.
“She is Vāsabhakhattiyā, the daughter of Mahānāma the Sākiyan, who is the son of the Sammāsambuddha’s paternal uncle.”
"Nàng là Vāsabhakhattiyā, con gái của Sakya Mahānāma, con trai của chú Đức Chánh Đẳng Giác."
Te gantvā rañño ārocayiṃsu.
They went and informed the king.
Họ trở về và tâu lại với vua.
Rājā ‘‘yadi evaṃ, sādhu, sīghaṃ ānetha, khattiyā ca nāma bahumāyā, dāsidhītarampi pahiṇeyyuṃ, pitarā saddhiṃ ekabhājane bhuñjantiṃ āneyyāthā’’ti pesesi.
The king said, “If so, good. Bring her quickly. For khattiyā are indeed full of tricks; they might even send a slave girl. Bring one who eats from the same dish with her father.” So he sent them.
Vua nói: "Nếu vậy thì tốt, hãy mau chóng đưa nàng về. Các dòng Sát-đế-lỵ thường có nhiều mưu mẹo, họ có thể gả con gái của tớ gái. Hãy đưa về một người con gái mà có thể cùng ăn trong một bát với cha nàng."
Te gantvā, ‘‘deva, tumhehi saddhiṃ ekato bhuñjantiṃ rājā icchatī’’ti āhaṃsu.
They went and said, “Your Majesty, the king desires a maiden who eats together with you.”
Họ trở về và nói: "Tâu Đại vương, vua muốn một người con gái cùng ăn với ngài trong một bát."
Mahānāmo ‘‘sādhu, tātā’’ti taṃ alaṅkārāpetvā attano bhojanakāle pakkosāpetvā tāya saddhiṃ ekato bhuñjanākāraṃ dassetvā dūtānaṃ niyyādesi.
Mahānāma said, "Good, my sons," and having had her adorned, he had her called at his mealtime, showed them the manner of eating together with her, and then entrusted her to the messengers.
Mahānāma nói: "Được, các con." Rồi ông cho trang điểm nàng, gọi nàng đến vào bữa ăn của mình, và sau khi cho các sứ giả thấy cảnh ông cùng ăn với nàng, ông đã giao nàng cho họ.
Te taṃ ādāya sāvatthiṃ gantvā taṃ pavattiṃ rañño ārocesuṃ.
They took her, went to Sāvatthī, and reported the matter to the king.
Họ đưa nàng về Sāvatthī và tâu lại sự việc đó với vua.
Rājā tuṭṭhamānaso taṃ pañcannaṃ itthisatānaṃ jeṭṭhikaṃ katvā aggamahesiṭṭhāne abhisiñci.
The king, with a joyful mind, made her chief of five hundred women and consecrated her in the position of Chief Queen.
Vua rất hài lòng, đã phong nàng làm trưởng của năm trăm người nữ và tấn phong nàng lên ngôi vị Hoàng hậu.
Sā na cirasseva suvaṇṇavaṇṇaṃ puttaṃ vijāyi.
She, not long after, gave birth to a son with a golden complexion.
Không lâu sau, nàng sinh một người con trai có màu da vàng óng.
Athassa nāmaggahaṇadivase rājā dārakassa ayyakassa santikaṃ pesesi ‘‘sakyarājadhītā vāsabhakhattiyā puttaṃ vijātā, kimassa nāmaṃ karomā’’ti?
Then, on the day of his naming ceremony, the king sent word to the child's grandfather, "The Sakya king's daughter, Vāsabhakhattiyā, has given birth to a son. What name should we give him?"
Vào ngày đặt tên cho đứa bé, vua đã gửi sứ giả đến ông ngoại của đứa bé, hỏi: "Vāsabhakhattiyā, con gái của vua Sakya, đã sinh con trai. Chúng ta nên đặt tên gì cho nó?"
Taṃ pana sāsanaṃ gahetvā gato amacco thokaṃ badhiradhātuko, so gantvā rañño ayyakassa ārocesi, so taṃ sutvā ‘‘vāsabhakhattiyā puttaṃ avijāyitvāpi sabbajanaṃ abhibhavi, idāni pana rañño ativiya vallabhā bhavissatī’’ti āha.
However, the minister who took that message was somewhat hard of hearing. He went and reported it to the king's grandfather, who, on hearing it, said, "Vāsabhakhattiyā, even without having given birth to a son, has overcome all people; now she will be exceedingly dear to the king."
Vị đại thần mang tin đó đi là người hơi nặng tai. Ông ta đến và tâu lại với ông ngoại của vua. Nghe xong, ông ngoại nói: "Vāsabhakhattiyā, dù chưa sinh con, đã vượt trội hơn mọi người, giờ đây nàng sẽ càng được vua yêu quý hơn nữa."
Badhiro amacco ‘‘vallabhā’’ti vacanaṃ dussutaṃ sutvā ‘‘viṭaṭūbho’’ti sallakkhetvā rājānaṃ upagantvā, ‘‘deva, kumārassa kira ‘viṭaṭūbho’ti nāmaṃ karothā’’ti āha.
The deaf minister, having misheard the word "dear" (vallabhā) as "Viṭaṭūbha", approached the king and said, "Your Majesty, they say the prince's name should be 'Viṭaṭūbha'."
Vị đại thần nặng tai nghe nhầm từ "vallabhā" (được yêu quý) thành "Viṭaṭūbho". Ông ta đến gặp vua và nói: "Tâu Đại vương, hình như nên đặt tên cho hoàng tử là 'Viṭaṭūbho'."
Rājā ‘‘porāṇakaṃ no kulasantakaṃ nāmaṃ bhavissatī’’ti cintetvā taṃ nāmaṃ akāsi.
The king, thinking, "It will be an ancient family name of ours," gave him that name.
Vua nghĩ: "Đây sẽ là một cái tên cổ xưa của dòng tộc chúng ta," và đã đặt tên đó.
Athassa daharakāleyeva rājā ‘‘satthu piyaṃ karomī’’ti senāpatiṭṭhānaṃ adāsi.
Then, while he was still young, the king gave him the position of commander-in-chief, thinking, "I will please the Teacher."
Khi hoàng tử còn nhỏ, vua đã phong cho ông ta chức Senāpati (Tổng tư lệnh) để "làm hài lòng Đức Đạo Sư."
So kumāraparihārena vaḍḍhanto sattavassikakāle aññesaṃ kumārānaṃ mātāmahakulato hatthirūpakaassarūpakādīni āhariyamānāni disvā mātaraṃ pucchi – ‘‘amma, aññesaṃ mātāmahakulato paṇṇākāro āharīyati, mayhaṃ koci kiñci na pesesi, kiṃ tvaṃ nimātā nipitā’’ti?
Growing up with princely care, when he was seven years old, he saw other princes receiving gifts like elephant figures and horse figures from their maternal grandparents' families, and he asked his mother, "Mother, others receive presents from their maternal grandparents' families, but no one sends me anything. Are you without a mother or a father?"
Lớn lên trong sự chăm sóc của hoàng tử, khi lên bảy tuổi, thấy các hoàng tử khác được nhận quà như tượng voi, tượng ngựa, v.v., từ dòng tộc bên ngoại, ông ta hỏi mẹ: "Mẹ ơi, các hoàng tử khác được nhận quà từ dòng tộc bên ngoại, còn con thì không ai gửi gì cả. Mẹ không có mẹ hay không có cha sao?"
Atha naṃ sā, ‘‘tāta, tava sakyarājāno mātāmahā dūre pana vasanti, tena te kiñci na pesentī’’ti vañcesi.
Then she deceived him, "My son, your maternal grandfathers, the Sakya kings, live far away, that is why they do not send you anything."
Nàng lừa ông ta: "Con trai, ông ngoại của con, các vua Sakya, ở xa lắm, nên họ không gửi gì cho con."
Soḷasavassikakāle, ‘‘amma, tava mātāmahakulaṃ passitukāmomhī’’ti vatvā, ‘‘alaṃ, tāta, kiṃ tattha gantvā karissatī’’ti vāriyamānopi punappunaṃ yāci.
When he was sixteen years old, he said, "Mother, I wish to see your maternal grandparents' family," and though he was restrained with "Enough, my son, what will you do by going there?", he repeatedly pleaded.
Khi lên mười sáu tuổi, ông ta nói: "Mẹ ơi, con muốn thăm dòng tộc bên ngoại của mẹ." Dù bị ngăn cản: "Thôi đi con, đến đó làm gì?", ông ta vẫn nài nỉ hết lần này đến lần khác.
Athassa mātā ‘‘tena hi gacchā’’ti sampaṭicchi.
Then his mother assented, saying, "Then go."
Cuối cùng, mẹ ông ta đồng ý: "Vậy thì con đi đi."
So pitu ārocetvā mahantena parivārena nikkhami.
He informed his father and set out with a large retinue.
Ông ta báo cho cha và khởi hành với một đoàn tùy tùng lớn.
Vāsabhakhattiyā puretaraṃ paṇṇaṃ pesesi – ‘‘ahaṃ idha sukhaṃ vasāmi, māssa kiñci sāmino antaraṃ dassayiṃsū’’ti.
Vāsabhakhattiyā had previously sent a letter: "I live here happily; may they not reveal any secret of mine to my son."
Vāsabhakhattiyā đã gửi thư trước, nói: "Con đang sống hạnh phúc ở đây, xin đừng để Phu quân của con biết bất kỳ điều gì không hay về con."
Sākiyā viṭaṭūbhassa āgamanaṃ ñatvā, ‘‘vandituṃ na sakkomā’’ti tassa daharadahare kumāre janapadaṃ pahiṇitvā tasmiṃ kapilapuraṃ sampatte santhāgāre sannipatiṃsu.
The Sakyas, knowing of Viṭaṭūbha's arrival and thinking, "We cannot pay homage to him," sent the younger princes out of the city and assembled in the assembly hall when he reached Kapilavatthu.
Các Sakya biết Viṭaṭūbha sắp đến, nghĩ: "Chúng ta không thể cúi lạy ông ta." Họ đã gửi các hoàng tử trẻ hơn ông ta đi ra vùng quê, và khi ông ta đến Kapilapura, họ nhóm họp trong hội trường.
Kumāro tattha gantvā aṭṭhāsi.
The prince went there and stood.
Hoàng tử đến đó và đứng đợi.
Atha naṃ ‘‘ayaṃ te, tāta, mātāmaho, ayaṃ mātulo’’ti vatvā vandāpesuṃ.
Then they said to him, "My son, this is your maternal grandfather, this is your maternal uncle," and made him pay homage.
Sau đó, họ nói: "Con trai, đây là ông ngoại của con, đây là cậu của con," và bảo ông ta lạy.
So sabbe vandamāno vicaritvā ekampi attānaṃ vandantaṃ adisvā ‘‘kiṃ nu kho maṃ vandantā natthī’’ti pucchi.
As he went around paying homage to everyone, he saw no one paying homage to him and asked, "Is there no one who pays homage to me?"
Ông ta đi khắp nơi lạy mọi người, nhưng không thấy ai lạy mình. Ông ta hỏi: "Tại sao không có ai lạy ta vậy?"
Sākiyā, ‘‘tāta, te kaniṭṭhakumārā janapadaṃ gatā’’ti vatvā tassa mahantaṃ sakkāraṃ kariṃsu.
The Sakyas said, "My son, those younger princes have gone to the countryside," and paid him great respect.
Các Sakya nói: "Con trai, các hoàng tử nhỏ hơn đã đi ra vùng quê rồi," và đã tiếp đãi ông ta rất trọng thể.
So katipāhaṃ vasitvā mahantena parivārena nikkhami.
He stayed for a few days and then departed with a large retinue.
Ông ta ở lại vài ngày rồi khởi hành với đoàn tùy tùng lớn.
Athekā dāsī santhāgāre tena nisinnaphalakaṃ ‘‘idaṃ vāsabhakhattiyāya dāsiyā puttassa nisinnaphalaka’’nti akkositvā paribhāsitvā khīrodakena dhovi.
Then, a female slave in the assembly hall, calling out and reproaching the plank on which he had sat, "This is the sitting plank of the son of Vāsabhakhattiyā, the slave-woman," washed it with milk-water.
Sau đó, một người tớ gái đã mắng nhiếc và chửi rủa tấm ván mà ông ta đã ngồi trong hội trường, nói: "Đây là tấm ván mà con trai của tớ gái Vāsabhakhattiyā đã ngồi," rồi rửa nó bằng sữa.
Eko puriso attano āvudhaṃ pamussitvā nivatto taṃ gaṇhanto viṭaṭūbhakumārassa akkosanasaddaṃ sutvā taṃ kāraṇaṃ pucchitvā, ‘‘vāsabhakhattiyā dāsiyā kucchimhi mahānāmasakkaṃ paṭicca jātā’’ti ñatvā balakāyassa kathesi.
A man who had forgotten his weapon returned to retrieve it, heard the sound of abuse directed at Prince Viṭaṭūbha, asked the reason, and having learned, "Vāsabhakhattiyā was born in the womb of a slave-woman on account of Mahānāma Sakka," he told the army.
Một người đàn ông đã quên vũ khí của mình và quay lại lấy nó. Nghe tiếng mắng nhiếc hoàng tử Viṭaṭūbha, ông ta hỏi nguyên nhân và biết rằng "Vāsabhakhattiyā được sinh ra từ bụng của tớ gái của Sakya Mahānāma." Ông ta đã kể lại cho quân đội.
‘‘Vāsabhakhattiyā kira dāsidhītā’’ti mahākolāhalaṃ ahosi.
"Vāsabhakhattiyā is said to be the daughter of a slave-woman!" A great clamor arose.
Có một sự ồn ào lớn: "Vāsabhakhattiyā hóa ra là con gái của tớ gái!"
Taṃ sutvā viṭaṭūbho ‘‘ete tāva mama nisinnaphalakaṃ khīrodakena dhovantu, ahaṃ pana rajje patiṭṭhitakāle etesaṃ galalohitaṃ gahetvā mama nisinnaphalakaṃ dhovissāmī’’ti cittaṃ paṭṭhapesi.
Hearing that, Viṭaṭūbha resolved, "Let them wash my sitting plank with milk-water now, but when I am established in the kingdom, I will take their throat-blood and wash my sitting plank."
Nghe vậy, Viṭaṭūbha quyết tâm: "Cứ để họ rửa tấm ván ta đã ngồi bằng sữa, nhưng khi ta lên ngôi, ta sẽ dùng máu ở cổ họng của họ để rửa tấm ván ta đã ngồi."
Tasmiṃ sāvatthiṃ gate amaccā taṃ pavattiṃ rañño ārocayiṃsu.
When he had returned to Sāvatthī, the ministers reported that matter to the king.
Khi ông ta trở về Sāvatthī, các đại thần đã tâu lại sự việc đó với vua.
Rājā ‘‘mayhaṃ dāsidhītaraṃ adaṃsū’’ti sākiyānaṃ kujjhitvā vāsabhakhattiyāya ca puttassa ca dinnaparihāraṃ acchinditvā dāsadāsīhi laddhabbamattameva dāpesi.
The king, angered at the Sakyas for giving him a slave-woman's daughter, revoked the privileges given to Vāsabhakhattiyā and her son, allowing them only what slaves and maidservants received.
Vua tức giận với các Sakya vì đã gả con gái của tớ gái cho mình. Ông đã tước bỏ quyền lợi của Vāsabhakhattiyā và con trai nàng, chỉ cho họ nhận những gì mà tớ gái và nô lệ được nhận.
Tato katipāhaccayena satthā rājanivesanaṃ gantvā paññattāsane nisīdi.
After a few days, the Teacher went to the royal palace and sat on the prepared seat.
Vài ngày sau, Đức Đạo Sư đến cung điện của vua và ngồi trên chỗ đã được sắp đặt.
Rājā āgantvā vanditvā, ‘‘bhante, tumhākaṃ kira ñātakehi dāsidhītā mayhaṃ dinnā, tenassā ahaṃ saputtāya parihāraṃ acchinditvā dāsadāsīhi laddhabbamattameva dāpesi’’nti āha.
The king came, paid homage, and said, "Bhante, my relatives have apparently given me a slave-woman's daughter. Therefore, I have revoked her privileges and her son's, allowing them only what slaves and maidservants receive."
Vua đến, đảnh lễ và nói: "Bạch Đức Thế Tôn, con nghe nói bà con của Ngài đã gả con gái của tớ gái cho con. Vì vậy, con đã tước bỏ quyền lợi của nàng và con trai nàng, chỉ cho họ nhận những gì mà tớ gái và nô lệ được nhận."
Satthā ‘‘ayuttaṃ, mahārāja, sākiyehi kataṃ, dadantehi nāma samānajātikā dātabbā assa, taṃ pana, mahārāja, vadāmi, vāsabhakhattiyā khattiyarājadhītā khattiyarañño gehe abhisekaṃ labhi.
The Teacher said, "What the Sakyas did was inappropriate, Mahārāja; those who give should give one of equal caste. However, Mahārāja, I say this: Vāsabhakhattiyā, a Khattiya king's daughter, received consecration in the house of a Khattiya king.
Đức Đạo Sư nói: "Đại vương, việc các Sakya làm là không đúng. Khi gả con gái, nên gả người cùng đẳng cấp. Nhưng, Đại vương, tôi nói rằng Vāsabhakhattiyā là con gái của một vị vua Sát-đế-lỵ, và nàng đã được tấn phong trong cung điện của một vị vua Sát-đế-lỵ.
Viṭaṭūbhopi khattiyarājānameva paṭicca jāto, mātugottaṃ nāma kiṃ karissati, pitugottameva pamāṇanti.
Viṭaṭūbha also was born solely through a Khattiya king; what will the mother's lineage do? The father's lineage alone is paramount."
Viṭaṭūbha cũng được sinh ra từ một vị vua Sát-đế-lỵ. Dòng họ bên mẹ thì có thể làm gì? Dòng họ bên cha mới là quan trọng."
Porāṇakapaṇḍitā dalidditthiyā kaṭṭhahārikāya aggamahesiṭṭhānaṃ adaṃsu, tassā ca kucchimhi jātakumāro dvādasayojanikāya bārāṇasiyā rajjaṃ patvā kaṭṭhavāhanarājā nāma jāto’’ti kaṭṭhahārijātakaṃ (jā. 1.1.7) kathesi.
"Ancient wise men gave the position of chief queen to a poor woman, a wood-gatherer, and the prince born in her womb became known as King Kaṭṭhavāhana, having attained sovereignty over the twelve-yojana Bārāṇasī," thus he related the Kaṭṭhahāri Jātaka.
"Các bậc hiền triết thời xưa đã phong cho một người phụ nữ nghèo hái củi làm Hoàng hậu. Hoàng tử sinh ra từ bụng của nàng đã trở thành vua của Bārāṇasī rộng mười hai dojana, và được gọi là vua Kaṭṭhavāhana." Ngài đã kể câu chuyện Jātaka về người hái củi (Kaṭṭhahārijātaka).
Rājā dhammakathaṃ sutvā ‘‘pitugottameva kira pamāṇa’’nti tussitvā vāsabhakhattiyāya ca puttassa ca pakatiparihārameva dāpesi.
The king, having heard the Dhamma talk, rejoiced, thinking, "The father's lineage is indeed paramount," and restored Vāsabhakhattiyā and her son to their former privileges.
Nghe pháp thoại, vua nghĩ: "Dòng họ bên cha mới là quan trọng," và hài lòng, đã trả lại quyền lợi như cũ cho Vāsabhakhattiyā và con trai nàng.
Bandhulasenāpatissapi kho kusinārāyaṃ mallarājadhītā mallikā nāma bhariyā dīgharattaṃ puttaṃ na vijāyi.
Bandhula, the general, also had a wife named Mallikā, a daughter of the Malla king in Kusinārā, who for a long time did not give birth to a son.
Vợ của Tướng quân Bandhula, tên là Mallikā, con gái của vua Mallā ở Kusinārā, đã không sinh con trong một thời gian dài.
Atha naṃ bandhulo ‘‘attano kulagharameva gacchā’’ti uyyojesi.
Then Bandhula sent her away, saying, "Go back to your own family home."
Sau đó, Bandhula đã bảo nàng: "Hãy về nhà cha mẹ của nàng đi."
Sā ‘‘satthāraṃ disvāva gamissāmī’’ti jetavanaṃ pavisitvā tathāgataṃ vanditvā ṭhitā, ‘‘kahaṃ gacchasī’’ti vuttā ‘‘sāmiko maṃ bhante, kulagharaṃ pesetī’’ āha.
She, saying, "I will go only after seeing the Teacher," entered Jetavana, paid homage to the Tathāgata, and stood. When asked, "Where are you going?", she replied, "My husband, Bhante, is sending me to my family home."
Nàng nghĩ: "Ta sẽ về sau khi đã gặp Đức Đạo Sư." Nàng đi vào Jetavana, đảnh lễ Đức Như Lai và đứng đó. Khi được hỏi: "Nàng đi đâu?", nàng đáp: "Bạch Đức Thế Tôn, phu quân con bảo con về nhà cha mẹ."
‘‘Kiṃ kāraṇā’’ti?
"For what reason?"
"Vì lý do gì?"
‘‘Vañjhā kirasmi aputtikā’’ti.
"I am barren, they say, childless."
"Bạch Đức Thế Tôn, con bị vô sinh, không có con."
‘‘Yadi evaṃ, gamanakiccaṃ natthi, nivattassū’’ti.
"If so, there is no need to go; turn back."
"Nếu vậy, không cần phải đi đâu cả, hãy quay về đi."
Sā tuṭṭhamānasā satthāraṃ vanditvā nivesanaṃ gantvā ‘‘kasmā nivattāsī’’ti vuttā ‘‘dasabalena nivattitāmhī’’ti āha bandhulo ‘‘diṭṭhaṃ bhavissati dīghadassinā kāraṇa’’nti sampaṭicchi.
She, with a joyful mind, paid homage to the Teacher and went to the mansion. When asked, "Why have you returned?", she said, "I was turned back by the Ten-Powered One." Bandhula consented, thinking, "The far-sighted Buddha must have seen the reason."
Với tâm hoan hỷ, nàng đảnh lễ Đức Đạo Sư rồi trở về nhà. Khi được Bandhula hỏi: “Tại sao nàng lại trở về?”, nàng đáp: “Đức Thập Lực đã khiến tôi trở về.” Bandhula chấp nhận, nghĩ rằng: “Đấng Nhãn Kiến Viễn Ly sẽ thấy được lý do (của việc có con).”
Sā na cirasseva gabbhaṃ paṭilabhitvā uppannadāhaḷā ‘‘dohaḷo me uppanno’’ti ārocesi.
Not long after, she conceived and experienced a pregnancy craving, which she reported: "I have a craving."
Chẳng bao lâu sau, nàng thụ thai và phát sinh chứng nghén. Nàng báo cho chồng biết: “Thiếp đã có chứng nghén.”
‘‘Kiṃ dohaḷo’’ti?
"What is the craving?"
“Chứng nghén gì?”
‘‘Vesālinagare gaṇarājakulānaṃ abhisekamaṅgalapokkharaṇiyaṃ otaritvā nhatvā pānīyaṃ pātukāmāmhi, sāmī’’ti.
"My lord, I wish to descend into the anointing ceremonial pond of the republican royal families in Vesāli city, bathe, and drink water."
“Thưa phu quân, thiếp muốn xuống tắm trong ao hồ dùng cho lễ quán đảnh của các gia tộc vương giả ở thành Vesāli, sau khi tắm xong thì uống nước.”
Bandhulo ‘‘sādhū’’ti vatvā sahassathāmadhanuṃ gahetvā taṃ rathaṃ āropetvā sāvatthito nikkhamitvā rathaṃ pājento mahālilicchavino dinnadvārena vesāliṃ pāvisi.
Bandhula, saying, "Good," took his thousand-strength bow, seated her in a chariot, departed from Sāvatthī, and driving the chariot, entered Vesāli through the gate given by Mahāli Licchavī.
Bandhula nói: “Được thôi,” rồi cầm cây cung có sức mạnh ngàn người, đặt nàng lên xe, rời Sāvatthī, và lái xe vào Vesāli qua cánh cổng mà Mahāli Licchavi đã mở.
Mahālilicchavino ca dvārasamīpe eva nivesanaṃ hoti.
Mahāli Licchavī's residence was near the city gate.
Và nhà của Mahāli Licchavi nằm ngay gần cổng thành.
So rathassa ummāre panighātasaddaṃ sutvāva ‘‘bandhulassa rathasaddo eso, ajja licchavīnaṃ bhayaṃ uppajjissatī’’ti āha.
Hearing the sound of the chariot striking the threshold, he immediately said, "That is Bandhula's chariot sound; today, fear will arise for the Licchavis."
Ông ta vừa nghe tiếng bánh xe va vào ngưỡng cửa đã nói: “Đó là tiếng xe của Bandhula. Hôm nay, một nỗi sợ hãi sẽ phát sinh cho các Licchavi.”
Pokkharaṇiyā anto ca bahi ca ārakkhā balavatī, upari lohajālaṃ patthaṭaṃ, sakuṇānampi okāso natthi.
Inside and outside the pond, the guard was strong, and an iron net was spread above; there was no space even for birds.
Bên trong và bên ngoài hồ đều có lực lượng bảo vệ mạnh mẽ, phía trên có giăng lưới sắt, ngay cả chim cũng không có lối vào.
Bandhulasenāpati pana rathā otaritvā ārakkhake manusse vettena paharanto palāpetvā lohajālaṃ chinditvā antopokkharaṇīyaṃ bhariyaṃ nhāpetvā sayampi nhatvā puna taṃ rathaṃ āropetvā nagarā nikkhamitvā āgatamaggeneva pāyāsi.
But General Bandhula, alighting from the chariot, striking the guards with a whip, put them to flight, cut the iron net, had his wife bathe in the inner pond, and he himself bathed, then put her back into the chariot, left the city, and departed by the same road he had come.
Nhưng Tướng quân Bandhula xuống xe, dùng roi đánh đuổi những người bảo vệ, cắt lưới sắt, cho vợ tắm trong hồ, tự mình cũng tắm, rồi lại đưa nàng lên xe, rời thành và đi theo con đường đã đến.
Te ārakkhamanussā licchavirājūnaṃ ārocesuṃ.
Those guards reported to the Licchavi kings.
Những người bảo vệ đó đã báo cáo cho các vị vua Licchavi.
Licchavirājāno kujjhitvā pañca rathasatāni āruyha ‘‘bandhulamallaṃ gaṇhissāmā’’ti nikkhamiṃsu.
The Licchavi kings, enraged, mounted five hundred chariots and set out, saying, "We will capture Bandhula the Malla."
Các vị vua Licchavi nổi giận, cưỡi năm trăm cỗ xe và xuất phát, nói: “Chúng ta sẽ bắt Bandhula Malla.”
Taṃ pavattiṃ mahālissa ārocesuṃ.
They reported that event to Mahāli.
Họ đã báo cáo sự việc đó cho Mahāli.
Mahāli, ‘‘mā gamittha, so hi vo sabbe ghotessatī’’ti āha.
Mahāli said, "Do not go; he will surely kill all of you."
Mahāli nói: “Đừng đi, vì ông ấy sẽ giết chết tất cả các người.”
Tepi ‘‘mayaṃ gamissāma evā’’ti vadiṃsu.
But they said, "We will certainly go."
Nhưng họ nói: “Chúng tôi nhất định sẽ đi.”
‘‘Tena hi tassa rathacakkassa yāva nābhito pathaviṃ paviṭṭhaṭṭhānaṃ disvā nivatteyyātha, tato anivattantā purato asanisaddaṃ viya suṇissatha, tamhā ṭhānā nivatteyyātha.
"Then, when you see the place where his chariot wheel has sunk into the earth up to its hub, turn back; if you do not turn back from there, you will hear a sound like thunder in front of you; turn back from that place.
“Vậy thì, khi thấy chỗ bánh xe của ông ấy lún sâu xuống đất đến trục, các người hãy quay lại. Nếu không quay lại từ chỗ đó, các người sẽ nghe thấy tiếng như sấm sét phía trước, hãy quay lại từ chỗ đó.
Tato anivattantā tumhākaṃ rathadhuresu chiddaṃ passissatha, tamhā ṭhānā nivatteyyātha, purato mā gamitthā’’ti.
If you do not turn back from there, you will see a hole in the front of your chariots; turn back from that place, do not go further."
Nếu không quay lại từ chỗ đó, các người sẽ thấy một lỗ thủng trên đầu xe của mình, hãy quay lại từ chỗ đó, đừng đi xa hơn nữa.”
Te tassa vacanena anivattitvā taṃ anubandhiṃsu eva.
They did not turn back at his words, but pursued him.
Họ không nghe lời ông ta mà vẫn tiếp tục đuổi theo.
Mallikā disvā, ‘‘rathā, sāmi, paññāyantī’’ti āha.
Mallikā saw and said, "My lord, chariots are visible."
Mallikā thấy và nói: “Thưa phu quân, những cỗ xe đang xuất hiện.”
‘‘Tena hi ekasseva rathassa paññāyanakāle maṃ āroceyyāsī’’ti.
"Then, when only one chariot is visible, inform me," he said.
“Vậy thì, khi chỉ thấy một cỗ xe xuất hiện, nàng hãy báo cho ta biết.”
Sā yadā sabbe rathā eko viya hutvā paññāyiṃsu, tadā ‘‘ekameva, sāmi, rathasīsaṃ paññāyatī’’ti āha.
When all the chariots appeared as one, she said, "My lord, only one chariot front is visible."
Khi tất cả các cỗ xe xuất hiện như một, nàng nói: “Thưa phu quân, chỉ có một đầu xe xuất hiện.”
Bandhulo ‘‘tena hi imā rasmiyo gaṇhāhī’’ti tassā rasmiyo datvā rathe ṭhitova dhanuṃ āropesi, rathacakkaṃ yāva nābhito pathaviṃ pāvisi.
Bandhula then said, "Take these reins," and giving her the reins, he stood in the chariot and strung his bow, and the chariot wheel sank into the earth up to its hub.
Bandhula nói: “Vậy thì, nàng hãy cầm những sợi dây cương này,” rồi trao dây cương cho nàng, và ngay khi ông đứng trên xe giương cung, bánh xe lún sâu xuống đất đến trục.
Licchavino taṃ ṭhānaṃ disvāpi na nivattiṃsu.
The Licchavis, even seeing that place, did not turn back.
Các Licchavi dù thấy cảnh đó cũng không quay lại.
Itaro thokaṃ gantvā jiyaṃ pothesi, asanisaddo viya ahosi.
The other, going a short distance, twanged the bowstring, and it was like the sound of thunder.
Người kia đi thêm một đoạn rồi gảy dây cung, tiếng vang lên như sấm sét.
Te tatopi na nivattiṃsu, anubandhantā gacchanteva.
They did not turn back even from there, but continued to follow.
Họ cũng không quay lại từ đó, mà vẫn tiếp tục đuổi theo.
Bandhulo rathe ṭhitakova ekasaraṃ khipi, so pañcannaṃ rathasatānaṃ rathasīse chiddaṃ katvā pañca rājasatāni parikarabandhanaṭṭhāne vinivijjhitvā pathaviṃ pāvisi.
Bandhula, standing in the chariot, shot a single arrow; it made a hole in the front of the five hundred chariots, pierced the five hundred kings at the waist-band, and entered the earth.
Bandhula đứng trên xe bắn một mũi tên, mũi tên đó xuyên qua đầu của năm trăm cỗ xe, xuyên qua chỗ thắt lưng của năm trăm vị vua, và cắm xuống đất.
Te attano paviddhabhāvaṃ ajānitvā, ‘‘tiṭṭha, re, tiṭṭha, re’’ti vadantā anubandhiṃsu eva.
Not knowing that they had been pierced, they continued to pursue, shouting, "Stop, hey! Stop, hey!"
Họ không biết mình đã bị bắn xuyên qua, vẫn tiếp tục đuổi theo, la lớn: “Đứng lại, này, đứng lại, này!”
Bandhulo rathaṃ ṭhapetvā ‘‘tumhe matakā, matakehi saddhiṃ mayhaṃ yuddhaṃ nāma natthī’’ti āha.
Bandhula stopped his chariot and said, "You are dead men; I have no battle with dead men."
Bandhula dừng xe lại và nói: “Các người đã chết rồi. Ta không có chiến đấu với người chết.”
‘‘Matakā nāma amhādisā na hontī’’ti.
"Dead men are not like us," they said.
“Những người chết không thể giống như chúng ta.”
‘‘Tena hi sabbapacchimassa parikaraṃ mocethā’’ti.
"Then untie the girdle of the very last one."
“Vậy thì, hãy cởi thắt lưng của người cuối cùng.”
Te mocayiṃsu.
They untied it.
Họ đã cởi.
So muttamatte eva maritvā patito.
As soon as it was untied, he died and fell.
Vừa cởi ra, người đó liền chết và ngã xuống.
Atha te sabbepi ‘‘tumhe evarūpā, attano gharāni gantvā saṃvidhātabbaṃ saṃvidahitvā puttadāraṃ anusāsitvā sannāhaṃ mocethā’’ti āha.
Then he said to all of them, "You are like this; go to your homes, arrange what needs to be arranged, instruct your children and wives, and then remove your armor."
Sau đó, ông nói với tất cả họ: “Các người như vậy đó. Hãy về nhà, sắp xếp những gì cần sắp xếp, khuyên dạy vợ con, rồi cởi bỏ áo giáp.”
Te tathā katvā sabbepi jīvitakkhayaṃ pattā.
They did so, and all of them met their end of life.
Họ làm theo lời đó và tất cả đều mất mạng.
Bandhulopi mallikaṃ sāvatthiṃ ānesi.
Bandhula also brought Mallikā to Sāvatthi.
Bandhula cũng đưa Mallikā về Sāvatthī.
Sā soḷasakkhattuṃ yamake yamake putte vijāyi.
She gave birth to twin sons sixteen times.
Nàng đã sinh ra mười sáu cặp con trai sinh đôi.
Sabbepi sūrā thāmasampannā ahesuṃ, sabbasippānaṃ nipphattiṃ pāpuṇiṃsu.
All of them were brave and strong, and they achieved mastery in all arts.
Tất cả đều dũng mãnh, đầy sức mạnh, và thành thạo mọi nghề.
Ekekassa purisasahassaṃ parivāro ahosi.
Each one had a retinue of a thousand men.
Mỗi người trong số họ đều có một ngàn người tùy tùng.
Pitarā saddhiṃ rājanivesanaṃ gacchantehi teheva rājaṅgaṇaṃ paripūri.
When they went to the royal palace with their father, the royal courtyard was filled by them alone.
Khi họ cùng cha đến cung điện của vua, sân cung điện đã đầy ắp bởi chính họ.
Athekadivasaṃ vinicchaye kūṭaṭṭaparājitā manussā bandhulaṃ āgacchantaṃ disvā mahāviravaṃ viravantā vinicchayaamaccānaṃ kūṭaṭṭakaraṇaṃ tassa ārocesuṃ.
Then one day, people who had been unfairly defeated in judgment, seeing Bandhula approaching, cried out loudly and reported to him the corrupt practices of the judicial ministers.
Một ngày nọ, những người bị thua kiện bởi sự gian lận trong việc xét xử, thấy Bandhula đang đến, liền la lớn và báo cho ông biết về sự gian lận của các quan tòa.
So vinicchayaṃ gantvā taṃ aṭṭaṃ vicāretvā sāmikameva sāmikaṃ akāsi.
He went to the court, investigated the case, and restored the property to its rightful owner.
Ông đến nơi xét xử, xem xét vụ án đó và trả lại tài sản cho chủ nhân đích thực.
Mahājano mahāsaddena sādhukāraṃ pavatteti.
The great crowd applauded loudly.
Đại chúng vang lên tiếng hoan hô lớn.
Rājā ‘‘kiṃ ida’’nti pucchitvā tamatthaṃ sutvā tussitvā sabbepi te amacce hāretvā bandhulasseva vinicchayaṃ niyyādesi.
The king, asking "What is this?" and hearing the matter, was pleased and removed all those ministers, entrusting the judiciary to Bandhula alone.
Vua hỏi: “Chuyện gì vậy?” Nghe xong, vua rất vui mừng, bãi miễn tất cả các quan đó và giao việc xét xử cho Bandhula.
So tato paṭṭhāya sammā vinicchayi.
From that time onwards, he judged fairly.
Từ đó trở đi, ông đã xét xử một cách công bằng.
Tato te porāṇakavinicchayikā amaccā kiñci lañjaṃ alabhantā appalābhā hutvā ‘‘bandhulo rajjaṃ patthetī’’ti rājakule paribhindiṃsu.
Then those former judicial ministers, receiving no bribes and having little gain, slandered Bandhula in the royal court, saying, "Bandhula seeks the kingdom."
Sau đó, các quan tòa cũ không nhận được hối lộ, trở nên ít lợi lộc, liền vu cáo trong cung vua rằng: “Bandhula đang mưu cầu vương quốc.”
Rājā tesaṃ kathaṃ saddahitvā cittaṃ niggahetuṃ nāsakkhi.
The king believed their words and could not restrain his mind.
Vua tin lời họ và không thể kiềm chế được tâm mình.
‘‘Imasmiṃ idheva ghātiyamāne garahā me uppajjissatī’’ti puna cintetvā payuttapurisehi paccantaṃ pahārāpetvā bandhulaṃ pakkosāpetvā, ‘‘paccanto kira kupito, tava puttehi saddhiṃ gantvā, core gaṇhāhī’’ti pahiṇitvā, ‘‘etthevassa dvattiṃsāya puttehi saddhiṃ sīsaṃ chinditvā āharathā’’ti tehi saddhiṃ aññepi samatthe mahāyodhe pesesi.
Thinking again, “If he is killed right here, blame will arise for me,” he had the border region attacked by spies, summoned Bandhula, and sent him, saying, “The border region is said to be troubled by rebels; go with your sons and seize the thieves.” Then, he commanded, “Cut off his head along with his thirty-two sons right here and bring it,” and sent other capable great warriors along with them.
Vua lại nghĩ: “Nếu giết ông ta ngay tại đây, ta sẽ bị chỉ trích,” rồi sai người gây rối ở vùng biên giới, triệu Bandhula đến và phái ông đi, nói: “Nghe nói vùng biên giới đang nổi loạn. Ngươi hãy cùng các con đi bắt bọn cướp.” Sau đó, vua sai thêm những chiến binh hùng mạnh khác đi cùng họ, dặn: “Hãy chặt đầu ông ta cùng ba mươi hai người con của ông ta ngay tại đó và mang về.”
Tasmiṃ paccantaṃ gacchanteyeva ‘‘senāpati kira āgacchatī’’ti payuttacorā palāyiṃsu.
As soon as he went to the border, the spies and robbers, hearing, "The general is coming," fled.
Khi ông đang trên đường đến vùng biên giới, bọn cướp được phái đi nghe nói: “Tướng quân đang đến,” liền bỏ trốn.
So taṃ padesaṃ āvāsāpetvā saṇṭhāpetvā nivatti.
He settled the people in that region, established order, and returned.
Ông đã ổn định và thiết lập lại vùng đất đó rồi trở về.
Athassa nagarato avidūre ṭhāne te yodhā puttehi saddhiṃ sīsaṃ chindiṃsu.
Then, at a place not far from the city, those warriors cut off his head along with his sons.
Sau đó, tại một nơi không xa thành phố, những chiến binh đó đã chặt đầu ông cùng các con trai của ông.
Taṃ divasaṃ mallikāya pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ dve aggasāvakā nimantitā honti.
On that day, Mallikā had invited the two chief disciples along with five hundred bhikkhus.
Ngày hôm đó, Mallikā đã thỉnh hai vị Đại đệ tử cùng năm trăm vị Tỳ khưu.
Athassā pubbaṇhe eva ‘‘sāmikassa te saddhiṃ puttehi sīsaṃ chinna’’nti paṇṇaṃ āharitvā adaṃsu.
Then, early in the morning, they brought her a letter saying, “Your husband’s head has been cut off along with your sons.”
Vào buổi sáng hôm đó, họ mang một bức thư đến cho nàng, nói: “Đầu của phu quân bà cùng các con trai đã bị chặt.”
Sā taṃ pavattiṃ ñatvā kassaci kiñci avatvā paṇṇaṃ ucchaṅge ṭhapetvā bhikkhusaṅghameva parivisi.
Knowing this news, she said nothing to anyone, placed the letter in her lap, and served the community of bhikkhus.
Nàng biết chuyện đó, không nói gì với ai, đặt bức thư vào lòng và vẫn tiếp tục cúng dường chư Tăng.
Athassā paricārikāyo bhikkhūnaṃ bhattaṃ datvā sappicāṭiṃ āharantiyo therānaṃ purato sappicāṭiṃ bhindiṃsu.
Then, after her maids had served the bhikkhus their meal, as they were bringing a pot of ghee, they broke the pot of ghee in front of the elders.
Sau đó, các nữ tỳ của nàng, sau khi cúng dường cơm cho chư Tăng, mang một vại bơ lỏng đến và làm vỡ vại bơ đó trước mặt các vị Trưởng lão.
Dhammasenāpati ‘‘bhedanadhammaṃ bhinnaṃ, na cintitabba’’nti āha.
The General of the Dhamma said, “That which is subject to breaking has broken; it should not be worried about.”
Đức Pháp Tướng quân (Sāriputta) nói: “Cái gì có tính chất vỡ thì đã vỡ, không cần phải lo lắng.”
Sā ucchaṅgato paṇṇaṃ nīharitvā ‘‘dvattiṃsāya puttehi saddhiṃ pitusīsaṃ chinnanti me imaṃ paṇṇaṃ āhariṃsu, ahaṃ idaṃ sutvāpi na cintemi, sappicāṭiyā bhinnāya kiṃ cintayissāmi, bhante’’ti āha.
She took out the letter from her lap and said, “They brought me this letter saying, ‘My husband’s head has been cut off along with his thirty-two sons.’ Even having heard this, I do not worry. Why should I worry, venerable sir, when a pot of ghee has broken?”
Nàng lấy bức thư từ lòng ra và nói: “Họ đã mang bức thư này đến cho tôi, nói rằng đầu của cha tôi cùng ba mươi hai người con trai đã bị chặt. Tôi nghe điều này mà còn không lo lắng, vậy thì vại bơ lỏng bị vỡ thì có gì mà lo lắng, bạch Đại đức?”
Dhammasenāpati ‘‘animittamanaññātaṃ, maccānaṃ idha jīvita’’ntiādīni (su. ni. 579) vatvā dhammaṃ desetvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ agamāsi.
The General of the Dhamma, having spoken words such as, “The life of mortals here is without sign, unknown,” taught the Dhamma and rose from his seat to go to the monastery.
Đức Pháp Tướng quân nói những lời như: “Mạng sống của chúng sinh ở đời này là vô thường, không có dấu hiệu, không thể biết trước,” rồi thuyết pháp, đứng dậy khỏi chỗ ngồi và trở về tịnh xá.
Sāpi dvattiṃsa suṇisāyo pakkosāpetvā, ‘‘tumhākaṃ sāmikā niraparādhā attano purimakammaphalaṃ labhiṃsu, tumhe mā socayittha, mā paridevittha, rañño upari manopadosaṃ mā karitthā’’ti ovadi.
She also summoned her thirty-two daughters-in-law and advised them, “Your husbands, being innocent, received the fruit of their former kamma. Do not grieve, do not lament, and do not bear ill will towards the king.”
Nàng cũng triệu ba mươi hai người con dâu đến và khuyên dạy: “Các phu quân của các con không có tội lỗi, họ đã nhận quả báo của nghiệp quá khứ của chính mình. Các con đừng đau buồn, đừng than khóc, đừng nuôi lòng oán hận nhà vua.”
Rañño carapurisā taṃ kathaṃ sutvā gantvā tesaṃ niddosabhāvaṃ rañño kathayiṃsu.
The king’s spies, hearing that speech, went and informed the king of their innocence.
Các mật thám của vua nghe chuyện đó, đi báo cáo cho vua về sự vô tội của họ.
Rājā saṃvegappatto tassā nivesanaṃ gantvā mallikañca suṇisāyo cassā khamāpetvā mallikāya varaṃ adāsi.
The king, filled with emotion, went to her residence, begged forgiveness from Mallikā and her daughters-in-law, and granted Mallikā a boon.
Vua cảm động, đến nhà nàng, xin lỗi Mallikā và các con dâu của nàng, rồi ban cho Mallikā một điều ước.
Sā ‘‘varo gahito me hotū’’ti vatvā tasmiṃ gate matakabhattaṃ datvā nhatvā rājānaṃ upasaṅkamitvā vanditvā, ‘‘deva, tumhehi mayhaṃ varo dinno, mayhañca aññena attho natthi, dvattiṃsāya me suṇisānaṃ mamañca kulagharagamanaṃ anujānāthā’’ti āha.
She said, “Let my boon be taken,” and after he had left, she offered a meal for the deceased, bathed, approached the king, paid homage, and said, “Your Majesty, you have granted me a boon, and I have no other need. Please allow my thirty-two daughters-in-law and me to return to our family homes.”
Bà ấy nói: “Nguyện cho điều ước của tôi được chấp nhận!” Sau khi vua Kosala đi rồi, bà bố thí thức ăn cúng dường người chết, rồi tắm rửa, đến gần nhà vua, đảnh lễ và thưa: “Thưa Đại vương, ngài đã ban cho tôi một điều ước. Tôi không cần gì khác, xin ngài cho phép ba mươi hai người con dâu của tôi và cả tôi được về nhà cha mẹ.”
Rājā sampaṭicchi.
The king assented.
Nhà vua chấp thuận.
Sā dvattiṃsa suṇisāyo yathāsakāni kulāni pesesi, sayampi kusinārānagare attano kulagharaṃ agamāsi.
She sent her thirty-two daughters-in-law to their respective families, and she herself went to her own family home in the city of Kusinara.
Bà ấy đã gửi ba mươi hai người con dâu về nhà cha mẹ của họ, và chính bà cũng về nhà cha mẹ mình ở thành Kusinārā.
Rājāpi bandhulasenāpatino bhāgineyyassa dīghakārāyanassa nāma senāpatiṭṭhānaṃ adāsi.
The king also gave the position of general to General Bandhula's nephew, Dīghakārāyana by name.
Nhà vua cũng trao chức tổng tư lệnh cho Dīghakārāyana, cháu trai của tổng tư lệnh Bandhula.
So pana ‘‘mātulo me iminā mārito’’ti rañño otāraṃ gavesanto vicarati.
But he, thinking, "This king killed my uncle," roamed about searching for an opportunity against the king.
Tuy nhiên, người này đi khắp nơi tìm cơ hội trả thù nhà vua, vì ông ta nghĩ: “Chú của ta đã bị nhà vua giết.”
Rājāpi niraparādhassa bandhulassa māritakālato paṭṭhāya vippaṭisārī hutvā cittassādaṃ na labhati, rajjasukhaṃ nānubhoti.
From the time of innocent Bandhula's killing, the king was filled with remorse and did not experience joy of mind nor the pleasure of kingship.
Nhà vua cũng hối hận từ khi giết Bandhula vô tội, không còn tìm thấy niềm vui trong tâm trí, không còn hưởng thụ hạnh phúc vương quyền.
Tadā satthā sakyānaṃ medāḷupaṃ nāma nigamaṃ upanissāya viharati.
At that time, the Teacher was residing near a Sakyan market town named Medāḷupa.
Lúc đó, Đức Đạo Sư đang trú ngụ gần thị trấn Medāḷupa của dòng tộc Sakya.
Rājā tattha gantvā ārāmato avidūre khandhāvāraṃ nivāsetvā, ‘‘mandena parivārena satthāraṃ vandissāmī’’ti vihāraṃ gantvā pañcarājākakudhabhaṇḍāni dīghakārāyanassa datvā ekakova gandhakuṭiṃ pāvisi.
The king went there, set up camp not far from the monastery, and, thinking, "I will pay homage to the Teacher with a small retinue," he went to the monastery, gave the five royal insignia to Dīghakārāyana, and entered the Perfumed Chamber alone.
Nhà vua đến đó, đóng quân không xa tinh xá, rồi nghĩ: “Ta sẽ đảnh lễ Đức Đạo Sư với ít tùy tùng,” và đi đến tinh xá, trao năm vật báu vương quyền cho Dīghakārāyana, rồi một mình bước vào hương thất.
Sabbaṃ dhammacetiyasuttaniyāmena (ma. ni. 2.364 ādayo) dīpetabbaṃ.
Everything should be explained according to the method of the Dhammacetiya Sutta.
Tất cả nên được trình bày theo cách của Dhammacetiya Sutta.
Tasmiṃ gandhakuṭiṃ paviṭṭhe dīghakārāyano tāni pañca rājakakudhabhaṇḍāni gahetvā viṭaṭūbhaṃ rājānaṃ katvā rañño ekaṃ assaṃ ekañca upaṭṭhānakārikaṃ mātugāmaṃ ṭhapetvā nivattetvā sāvatthiṃ agamāsi.
When the king had entered the Perfumed Chamber, Dīghakārāyana took the five royal insignia, made Viṭaṭūbha the king, and leaving one horse and one female attendant for the king, he turned back and went to Sāvatthi.
Khi nhà vua đã vào hương thất, Dīghakārāyana lấy năm vật báu vương quyền đó, phong Viṭaṭūbha làm vua, rồi để lại một con ngựa và một nữ hầu cận cho nhà vua, quay trở lại Sāvatthī.
Rājā satthārā saddhiṃ piyakathaṃ kathetvā satthāraṃ vanditvā nikkhanto senaṃ adisvā taṃ mātugāmaṃ pucchitvā taṃ pavattiṃ sutvā, ‘‘ahaṃ bhāgineyyaṃ ādāya gantvā, viṭaṭūbhaṃ gahessāmī’’ti rājagahanagaraṃ gacchanto vikāle dvāresu pidahitesu nagaraṃ patvā ekissā sālāya nipajjitvā vātātapehi kilanto rattibhāge tattheva kālamakāsi.
The king conversed pleasantly with the Teacher, paid homage to him, and upon exiting, seeing no army, he questioned the female attendant, heard the news, and thinking, "I will take my nephew and go to seize Viṭaṭūbha," he departed for Rājagaha. Arriving at the city when the gates were shut late in the evening, he lay down in a certain hall, exhausted by the wind and sun, and passed away there during the night.
Nhà vua nói những lời thân ái với Đức Đạo Sư, rồi đảnh lễ Đức Đạo Sư và ra đi, không thấy quân đội của mình. Sau khi hỏi người nữ hầu cận và nghe câu chuyện, nhà vua nghĩ: “Ta sẽ đi cùng cháu trai và bắt Viṭaṭūbha,” rồi đi về thành Rājagaha. Khi đến thành vào lúc đêm khuya, các cổng đã đóng, nhà vua nằm xuống một hội trường, mệt mỏi vì gió và nắng, và qua đời ngay tại đó vào ban đêm.
Vibhātāya rattiyā, ‘‘deva, kosalanarinda anātho jātosī’’ti vippalapantiyā tassā itthiyā saddaṃ sutvā rañño ārocesuṃ.
When the night broke, hearing the cry of that woman wailing, "My Lord, O King of Kosala, you have become helpless!" they informed King Ajātasattu.
Khi trời sáng, người phụ nữ đó than khóc: “Thưa Đại vương, vua Kosala, ngài đã trở thành kẻ không nơi nương tựa!” Nghe tiếng bà, họ báo cho nhà vua (Ajātasattu).
So mātulassa mahantena sakkārena sarīrakiccaṃ kāresi.
He performed the funerary rites for his uncle with great honor.
Vua Ajātasattu đã thực hiện nghi thức tang lễ cho chú mình với sự tôn kính lớn.
Viṭaṭūbhopi rajjaṃ labhitvā taṃ veraṃ saritvā ‘‘sabbepi sākiye māressāmī’’ti mahatiyā senāya nikkhami.
Viṭaṭūbha, having gained the kingdom, recalled that enmity and set out with a large army, saying, "I will kill all the Sakyans."
Viṭaṭūbha, sau khi giành được vương quyền, nhớ lại mối thù đó và nói: “Ta sẽ giết tất cả dòng tộc Sakya!” rồi xuất quân với một đội quân lớn.
Taṃ divasaṃ satthā paccūsakāle lokaṃ volokento ñātisaṅghassa vināsaṃ disvā, ‘‘ñātisaṅgahaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā pubbaṇhasamaye piṇḍāya caritvā, piṇḍapātapaṭikkanto gandhakuṭiyaṃ sīhaseyyaṃ kappetvā, sāyanhasamaye ākāsena gantvā, kapilavatthusāmante ekasmiṃ kabaracchāye rukkhamūle nisīdi.
That day, the Teacher, surveying the world at dawn, saw the destruction of his relatives and, thinking, "It is proper to show favor to relatives," he went for alms in the morning. After returning from his alms round, he lay down in the lion's posture in the Perfumed Chamber. In the evening, he went through the air and sat at the foot of a tree with patchy shade near Kapilavatthu.
Vào ngày đó, Đức Đạo Sư vào buổi sáng sớm, quán xét thế gian, thấy sự hủy diệt của dòng tộc mình, nghĩ: “Nên giúp đỡ dòng tộc,” rồi đi khất thực vào buổi sáng, sau khi thọ thực xong, Ngài nằm nghỉ theo tư thế sư tử trong hương thất. Vào buổi chiều, Ngài đi bằng đường không, đến ngồi dưới gốc cây có bóng râm lốm đốm gần Kapilavatthu.
Tato viṭaṭūbhassa rajjasīmāya mahanto sandacchāyo nigrodho atthi.
Not far from there, on the border of Viṭaṭūbha's kingdom, there was a large banyan tree with dense shade.
Cách đó không xa, trong lãnh thổ của Viṭaṭūbha, có một cây bàng lớn với bóng râm dày đặc.
Viṭaṭūbho satthāraṃ disvā upasaṅkamitvā vanditvā, ‘‘bhante, kiṃ kāraṇā evarūpāya uṇhavelāya imasmiṃ kabaracchāye rukkhamūle nisīdatha, etasmiṃ sandacchāye nigrodhamūle nisīdatha, bhante’’ti vatvā, ‘‘hotu, mahārāja, ñātakānaṃ chāyā nāma sītalā’’ti vutte, ‘‘ñātakānurakkhanatthāya satthā āgato bhavissatī’’ti cintetvā satthāraṃ vanditvā nivattitvā sāvatthiṃyeva paccāgami.
Viṭaṭūbha saw the Teacher, approached him, and paid homage, saying, "Bhante, for what reason do you sit at the foot of this tree with patchy shade in such a hot time? Bhante, please sit at the foot of that banyan tree with dense shade." When told, "Let it be, Great King, the shade of one's relatives is cool," he thought, "The Teacher must have come to protect his relatives," and after paying homage to the Teacher, he turned back and returned to Sāvatthi.
Viṭaṭūbha thấy Đức Đạo Sư, đến gần, đảnh lễ và thưa: “Bạch Thế Tôn, vì lý do gì mà ngài lại ngồi dưới gốc cây có bóng râm lốm đốm này vào giữa lúc trời nắng nóng như vậy? Bạch Thế Tôn, xin ngài hãy ngồi dưới gốc cây bàng có bóng râm dày đặc kia.” Khi Đức Đạo Sư đáp: “Được thôi, Đại vương, bóng râm của bà con thì mát mẻ,” Viṭaṭūbha nghĩ: “Đức Đạo Sư chắc hẳn đã đến để bảo vệ bà con,” rồi đảnh lễ Đức Đạo Sư, quay lại và trở về Sāvatthī.
Satthāpi uppatitvā jetavanameva gato.
The Teacher also flew up and went to Jetavana.
Đức Đạo Sư cũng bay lên và trở về Jetavana.
Rājā sākiyānaṃ dosaṃ saritvā dutiyampi nikkhamitvā tatheva satthāraṃ passitvā puna nivatti.
The king, recalling the offense of the Sakyans, set out a second time, saw the Teacher there, and again turned back.
Nhà vua (Viṭaṭūbha) nhớ lại lỗi lầm của dòng tộc Sakya, lần thứ hai xuất quân, và lại thấy Đức Đạo Sư ở đó, rồi quay về.
Tatiyavārepi nikkhamitvā tatheva satthāraṃ passitvā puna nivatti.
He also set out a third time, saw the Teacher there, and again turned back.
Lần thứ ba, ông ta cũng xuất quân, thấy Đức Đạo Sư ở đó, rồi lại quay về.
Catutthavāre pana tasmiṃ nikkhante satthā sākiyānaṃ pubbakammaṃ oloketvā tesaṃ ekadivasaṃ nadiyaṃ visapakkhipanapāpakammassa appaṭibāhiyabhāvaṃ ñatvā catutthavāre nāgamāsi.
However, when he set out for the fourth time, the Teacher, having seen the previous deed of the Sakyans and knowing that their evil deed of poisoning the river one day was unavoidable, did not come the fourth time.
Nhưng đến lần thứ tư, khi ông ta xuất quân, Đức Đạo Sư quán xét nghiệp quá khứ của dòng tộc Sakya, biết rằng nghiệp ác bỏ thuốc độc xuống sông của họ vào một ngày nọ là không thể ngăn cản, nên lần thứ tư Ngài không đến.
Viṭaṭūbho ‘‘sākiye ghātessāmī’’ti mahantena balakāyena nikkhami.
Viṭaṭūbha set out with a mighty army, saying, "I will kill the Sakyans!"
Viṭaṭūbha nói: “Ta sẽ giết dòng tộc Sakya!” rồi xuất quân với một lực lượng lớn.
Sammāsambuddhassa pana ñātakā asattaghātakā nāma, attanā marantāpi paresaṃ jīvitaṃ na voropenti.
But the relatives of the Perfectly Self-Enlightened One are non-slayers of beings; even if they themselves die, they do not take the lives of others.
Tuy nhiên, bà con của Đức Chánh Đẳng Giác là những người không sát sinh, dù có chết đi chăng nữa, họ cũng không cướp đoạt sinh mạng của người khác.
Te cintayiṃsu – ‘‘mayaṃ susikkhitā katahatthā katūpāsanā mahissāsā, na kho pana sakkā amhehi paraṃ jīvitā voropetuṃ, attano kammaṃ dassetvā palāpessāmā’’ti te katasannāhā nikkhamitvā yuddhaṃ ārabhiṃsu.
They thought, "We are well-trained, skilled, practiced archers, great bowmen. However, we cannot take the lives of others. We will demonstrate our skill and make them flee." Thus, having prepared their armor, they set out and began to fight.
Họ nghĩ: “Chúng ta là những người được huấn luyện kỹ lưỡng, thành thạo, tinh thông bắn cung, là những cung thủ vĩ đại. Nhưng chúng ta không thể cướp đoạt sinh mạng của người khác. Chúng ta sẽ thể hiện tài năng của mình và khiến chúng bỏ chạy.” Thế là họ mặc giáp trụ và bắt đầu chiến đấu.
Tehi khittā sarā viṭaṭūbhassa purisānaṃ antarantarena gacchanti, phalakantarakaṇṇachiddantarādīhi nikkhamanti.
The arrows shot by them passed through the gaps between Viṭaṭūbha's men, emerging through the spaces between their shields and the holes in their ears and so forth.
Những mũi tên họ bắn ra bay xuyên qua giữa các binh lính của Viṭaṭūbha, xuyên qua các khe hở của khiên, các lỗ tai, v.v.
Viṭaṭūbho disvā nanu bhaṇe ‘‘sākiyā asattaghātakāmhā’’ti vadanti, atha ca pana me purise nāsentīti.
Viṭaṭūbha saw this and said, "Do not the Sakyans say, 'We are non-slayers of beings'? Yet, they are destroying my men!"
Viṭaṭūbha thấy vậy và nói: “Này các ngươi, dòng tộc Sakya không phải là những kẻ sát sinh, vậy mà chúng lại hủy diệt binh lính của ta!”
Atha naṃ eko puriso āha – ‘‘kiṃ sāmi, nivattitvā olokesī’’ti?
Then a certain man said to him, "My Lord, why do you turn back and look?"
Bấy giờ, một người lính thưa với ông ta: “Thưa Đại vương, ngài quay lại nhìn gì vậy?”
‘‘Sākiyā me purise nāsentī’’ti.
"The Sakyans are destroying my men," he replied.
“Dòng tộc Sakya đang hủy diệt binh lính của ta!”
‘‘Tumhākaṃ koci puriso mato nāma natthi.
"None of your men are dead."
“Không có người lính nào của ngài bị chết cả.”
Iṅgha te gaṇāpethā’’ti.
"Please, count them."
“Hãy bảo họ đếm xem.”
Gaṇāpento ekassapi khayaṃ na passi.
Counting, he found no loss of even a single man.
Khi cho đếm, ông ta không thấy ai bị mất mạng.
So tato nivattitvā ‘‘ye ye pana bhaṇe ‘sākiyamhā’ti bhaṇanti, sabbe māretha, mātāmahassa pana mahānāmasakkassa santike ṭhitānaṃ jīvitaṃ dethā’’ti āha.
Thereupon, he turned back and said, "Men, kill everyone who says, 'We are Sakyans,' but spare the lives of those who are with my grandfather, Mahānāma the Sakyan."
Sau đó, ông ta quay lại và nói: “Này các ngươi, ai nói mình là Sakya thì hãy giết hết, nhưng những người đang ở với ông ngoại Mahānāma Sakya thì hãy tha mạng.”
Sākiyā gahetabbagahaṇaṃ apassantā ekacce tiṇaṃ ḍaṃsitvā, ekacce naḷaṃ gahetvā aṭṭhaṃsu.
The Sakyans, seeing no suitable object to grasp, some bit on grass, while others took reeds and stood firm.
Dòng tộc Sakya, không thấy nơi nào để ẩn náu, một số cắn cỏ, một số cầm cây sậy đứng đó.
‘‘Tumhe sākiyā, no’’ti pucchitā yasmā te marantāpi musāvādaṃ na bhaṇanti, tasmā tiṇaṃ ḍaṃsitvā ṭhitā ‘‘no sāko, tiṇa’’nti vadanti.
When asked, "Are you Sakyans or not?" because they do not speak falsehood even if they die, those who bit on grass said, "We are not Sakyans, it is grass."
Khi được hỏi: “Các ngươi có phải là Sakya không?”, vì họ thà chết chứ không nói dối, nên những người cắn cỏ nói: “Không phải Sakya, là cỏ.”
Naḷaṃ gahetvā ṭhitā ‘‘no sāko, naḷo’’ti vadanti.
Those who held reeds said, "We are not Sakyans, it is a reed."
Những người cầm cây sậy nói: “Không phải Sakya, là sậy.”
Ye ca mahānāmassa santike ṭhitā, te ca jīvitaṃ labhiṃsu.
And those who were with Mahānāma, they also received their lives.
Những người đang ở với Mahānāma thì được tha mạng.
Tesu tiṇaṃ ḍaṃsitvā ṭhitā tiṇasākiyā nāma, naḷaṃ gahetvā ṭhitā naḷasākiyā nāma jātāti, viṭaṭūbho avasese khīrapakepi dārake avissajjetvā ghātāpento lohitanadiṃ pavattetvā tesaṃ galalohitena phalakaṃ dhovāpesi.
Among them, those who bit on grass became known as Tiṇasakyans, and those who held reeds became Naḷasakyans. Viṭaṭūbha, without sparing even the remaining infant children, had them killed, causing a river of blood to flow, and washed a plank with the blood from their throats.
Trong số đó, những người cắn cỏ được gọi là Tiṇasākiyā (Sakya cỏ), và những người cầm cây sậy được gọi là Naḷasākiyā (Sakya sậy). Viṭaṭūbha không tha cho những đứa trẻ còn bú sữa, mà ra lệnh giết chúng, tạo thành một dòng sông máu, và dùng máu ở cổ chúng để rửa tấm ván.
Evaṃ sākiyavaṃso viṭaṭūbhena upacchinno.
Thus, the Sakyan lineage was extinguished by Viṭaṭūbha.
Như vậy, dòng tộc Sakya đã bị Viṭaṭūbha tiêu diệt.
So mahānāmasakkaṃ gāhāpetvā nivatto ‘‘pātarāsavelāya pātarāsaṃ karissāmī’’ti ekasmiṃ ṭhāne otaritvā bhojane upanīte ‘‘ekatova bhuñjissāmā’’ti ayyakaṃ pakkosāpesi.
He had Mahānāma the Sakyan taken along and returned, saying, "I will have breakfast at breakfast time." Having dismounted in a certain place, when food was served, he sent for his grandfather, saying, "We will eat together."
Sau khi bắt Mahānāma Sakya và quay về, Viṭaṭūbha dừng lại ở một nơi và nói: “Ta sẽ ăn sáng vào giờ ăn sáng.” Khi thức ăn được dọn ra, ông ta cho gọi ông ngoại và nói: “Chúng ta sẽ ăn cùng nhau.”
Khattiyā pana jīvitaṃ cajantāpi dāsiputtehi saddhiṃ na bhuñjanti.
But khattiyas do not eat with the sons of slave women, even if they must give up their lives.
Tuy nhiên, các Khattiya dù phải hy sinh mạng sống cũng không ăn cùng con của người hầu gái.
Tasmā mahānāmo ekaṃ saraṃ oloketvā ‘‘kiliṭṭhagattomhi, nhāyissāmi, tātā’’ti āha.
Therefore, Mahānāma looked at a certain pond and said, "Grandson, my body is dirty; I will bathe."
Vì vậy, Mahānāma nhìn một cái hồ và nói: “Ta bị dơ bẩn, cháu à, ta sẽ tắm.”
‘‘Sādhu, ayyaka, nhāyathā’’ti.
"Very well, Grandfather, please bathe."
“Vâng, ông ngoại, xin ông hãy tắm.”
So ‘‘ayaṃ maṃ ekato abhuñjantaṃ ghātessati, sayameva me mataṃ seyyo’’ti kese muñcitvā agge gaṇṭhiṃ katvā kesesu pādaṅguṭṭhake pavesetvā udake nimujji.
He, thinking, "If I don't eat with him, he will kill me. It is better for me to die by myself," untied his hair, made a knot at the end, inserted his big toes into his hair, and plunged into the water.
Ông nghĩ: “Nếu ta không ăn cùng hắn, hắn sẽ giết ta. Tự mình chết thì tốt hơn.” Thế là ông tháo tóc, thắt nút ở ngọn, luồn các ngón chân cái vào tóc và lặn xuống nước.
Tassa guṇatejena nāgabhavanaṃ uṇhākāraṃ dassesi.
By the power of his virtue, the Nāga realm showed signs of heat.
Do uy lực của đức hạnh của ông, cung điện của chúa rắn hiện ra dấu hiệu nóng bức.
Nāgarājā ‘‘kiṃ nu kho’’ti upadhārento taṃ ñatvā tassa santikaṃ āgantvā taṃ attano phaṇe nisīdāpetvā nāgabhavanaṃ pavesesi.
The Nāga king, investigating "What could it be?", understood the matter, came to him, seated him on his hood, and led him into the Nāga realm.
Chúa rắn nghĩ: “Chuyện gì vậy?” Khi biết chuyện, ông đến chỗ Mahānāma, đặt ông lên đầu mình và đưa ông vào cung điện rắn.
So dvādassa vassāni tattheva vasi.
He lived there for twelve years.
Ông đã sống ở đó mười hai năm.
Viṭaṭūbhopi ‘‘mayhaṃ ayyako idāni āgamissati, idāni āgamissatī’’ti āgamayamānova nisīdi.
Viṭaṭūbha also sat waiting, thinking, "My grandfather will come now, he will come now."
Viṭaṭūbha cũng ngồi chờ đợi, nghĩ: “Ông ngoại của ta bây giờ sẽ đến, bây giờ sẽ đến.”
Tasmiṃ aticirāyante saraṃ vicināpetvā dīpālokena purisabbhantarānipi oloketvā adisvā ‘‘gato bhavissatī’’ti pakkāmi.
When he was excessively delayed, Viṭaṭūbha had the pond searched and even had the interiors of the men examined with lamp light. Not seeing him, he thought, "He must be gone," and departed.
Khi Mahānāma đã vắng mặt quá lâu, Viṭaṭūbha cho người tìm kiếm hồ, và dùng đèn để nhìn vào giữa các binh lính nhưng không thấy, ông ta nghĩ: “Ông ấy chắc đã đi rồi,” rồi bỏ đi.
So rattibhāge aciravatiṃ patvā khandhāvāraṃ nivāsesi.
So, in the night, having reached the Aciravatī River, he set up camp.
Vào ban đêm, ông ta đến sông Aciravatī và đóng quân.
Ekacce antonadiyaṃ vālukāpuline nipajjiṃsu, ekacce bahithale, antonipannesupi pubbe akatapāpakammā atthi, bahinipannesupi pubbe katapāpakammā atthi, tesaṃ nipannaṭṭhānesu kipillikā uṭṭhahiṃsu.
Some lay down on the sandbank in the river, others on the dry ground outside. Among those lying inside, there were some who had not done evil deeds in the past; among those lying outside, there were some who had done evil deeds in the past. Ants arose from their sleeping places.
Một số binh lính nằm trên bãi cát trong lòng sông, một số nằm trên bờ. Trong số những người nằm trong lòng sông, có những người chưa từng làm điều ác trong quá khứ; trong số những người nằm trên bờ, cũng có những người đã từng làm điều ác trong quá khứ. Kiến đã nổi lên ở những nơi họ nằm.
Te ‘‘mayhaṃ nipannaṭṭhāne kipillikā, mayhaṃ nipannaṭṭhāne kipillikā’’ti uṭṭhahitvā akatapāpakammā uttaritvā thale nipajjiṃsu, katapāpakammā otaritvā vālukāpuline nipajjiṃsu.
Saying, "There are ants in my sleeping place, there are ants in my sleeping place," those who had not done evil deeds rose and lay down on the dry ground, while those who had done evil deeds descended and lay down on the sandbank.
Những người đó, nói: "Trong chỗ tôi nằm có kiến, trong chỗ tôi nằm có kiến," rồi đứng dậy. Những người chưa từng làm ác thì lên bờ cao mà nằm; những người đã từng làm ác thì xuống bãi cát mà nằm.
Tasmiṃ khaṇe mahāmegho uṭṭhahitvā ghanavassaṃ vassi.
At that moment, a great cloud arose and poured down heavy rain.
Ngay lúc đó, một trận mưa lớn nổi lên và trút xuống như thác lũ.
Nadiyā ogho āgantvā viṭaṭūbhaṃ saddhiṃ parisāya samuddameva pāpesi.
A flood came down the river and carried Vitataṭūbha along with his retinue to the very ocean.
Dòng nước lũ từ sông chảy đến, cuốn Viṭaṭūbha cùng với tùy tùng của hắn ra biển.
Sabbe tattha macchakacchapabhakkhā ahesuṃ.
All there became food for fish and tortoises.
Tất cả bọn họ ở đó đều trở thành mồi cho cá và rùa.
Mahājano kathaṃ samuṭṭhāpesi ‘‘sākiyānaṃ maraṇaṃ ayuttaṃ, ‘evaṃ nāma koṭṭetvā koṭṭetvā sākiyā māretabbā’ti ananucchavikameta’’nti.
The great multitude raised the topic: "The death of the Sakyas is unfitting. 'In this way, the Sakyas should be slaughtered by cutting and cutting.' This is unseemly!"
Đại chúng đã khởi lên câu chuyện: "Cái chết của dòng Sakya là không xứng đáng, 'dòng Sakya bị giết bằng cách nghiền nát, nghiền nát như vậy' là điều không phù hợp."
Satthā taṃ kathaṃ sutvā, ‘‘bhikkhave, imasmiṃ attabhāve kiñcāpi sākiyānaṃ evaṃ maraṇaṃ ayuttaṃ, pubbe katapāpakammavasena pana yuttamevetehi laddha’’nti āha.
The Teacher, hearing that talk, said, "Monks, although such a death for the Sakyas in this existence is unfitting, it was indeed fitting that they received it due to evil deeds done in the past."
Đức Bổn Sư nghe câu chuyện đó, nói: "Này các Tỳ-khưu, mặc dù trong kiếp hiện tại này, cái chết như vậy của dòng Sakya là không xứng đáng, nhưng do nghiệp ác đã tạo trong quá khứ, họ đã nhận lấy điều xứng đáng."
‘‘Kiṃ pana, bhante, ete pubbe akaṃsū’’ti?
"But what, Venerable Sir, did they do in the past?"
"Bạch Thế Tôn, họ đã làm gì trong quá khứ?"
Sabbe ekato hutvā nadiyaṃ visaṃ pakkhipiṃsūti.
All together they put poison into the river.
Tất cả đã cùng nhau đổ thuốc độc xuống sông.
Punekadivasaṃ dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘viṭaṭūbho ettake sākiye māretvā āgacchanto attano manorathe matthakaṃ appatteyeva ettakaṃ janaṃ ādāya mahāsamudde macchakacchapabhakkho jāto’’ti.
Another day, in the Dhamma hall, the monks raised the topic: "Vitataṭūbha, having killed so many Sakyas, came back and, without achieving the fulfillment of his desires, was consumed by fish and tortoises in the great ocean, taking so many people with him."
Một ngày khác, tại Pháp đường, các Tỳ-khưu đã khởi lên câu chuyện: "Viṭaṭūbha đã giết chừng ấy người Sakya, và khi trở về, chưa đạt được ước nguyện của mình, đã cùng với chừng ấy người bị cuốn ra biển lớn, trở thành mồi cho cá và rùa."
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte, ‘‘imesaṃ sattānaṃ manorathe matthakaṃ appatteyeva maccurājā suttaṃ gāmaṃ ajjhottharanto mahogho viya jīvitindriyaṃ chinditvā catūsu apāyasamuddesu nimujjāpetī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
The Teacher came and asked, "What talk, monks, are you sitting here engaged in now?" When told, "This talk," he said, "For these beings, even before their desires are fulfilled, the king of death, like a great flood overflowing a sleeping village, cuts off their life-faculty and submerges them in the four woeful states," and then spoke this verse:
Đức Bổn Sư đến hỏi: "Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn về câu chuyện gì?", khi được thưa: "Về câu chuyện này, bạch Thế Tôn," Ngài nói: "Đối với những chúng sanh này, khi ước nguyện chưa đạt đến đỉnh điểm, Vua Tử Thần (Maccu-rāja) như dòng nước lũ lớn tràn ngập làng đang ngủ say, cắt đứt sinh mạng của họ và nhấn chìm họ vào bốn biển khổ của các cõi đọa lạc (apāya-samudda)," rồi Ngài đọc bài kệ này:
Tattha byāsattamanasaṃ naranti sampatte vā asampatte vā laggamānasaṃ.
Here, the man whose mind is attached means one whose mind is clinging to sense objects, whether they are obtained or not obtained.
Ở đây, người có tâm vướng mắc (byāsattamanasaṃ naraṃ) là người có tâm dính mắc vào những điều đã đạt được hoặc chưa đạt được.
Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā mālākāro pupphārāmaṃ pavisitvā ‘‘pupphāni pacinissāmī’’ti tato pupphāni gahetvā aññamaññaṃ vā gacchaṃ patthento sakale pupphārāme manaṃ peseti, ‘‘ito cito ca pupphāni pacinissāmī’’ti tato pupphāni aggahetvā aññattha manaṃ pesesi, tameva gacchaṃ pacinanto pamādamāpajjati, evameva ekacco pupphārāmasadisaṃ pañcakāmaguṇamajjhaṃ otaritvā manoramaṃ rūpaṃ labhitvā manoramānaṃ saddagandharasaphoṭṭhabbānaṃ aññataraṃ pattheti.
This is what is meant: Just as a garland-maker enters a flower garden, thinking "I will pick flowers," and having taken flowers from there, desires other shrubs and directs his mind to the entire flower garden, thinking "I will pick flowers from here and there," and not taking flowers from that shrub, directs his mind elsewhere, and thus becomes negligent while picking from that very shrub; in the same way, some person enters the midst of the five sense-pleasures, which are like a flower garden, and having obtained a delightful form, desires another delightful sound, scent, taste, or touch.
Điều này có nghĩa là: Cũng như người làm vòng hoa đi vào vườn hoa, nghĩ "Ta sẽ hái hoa," rồi lấy hoa từ đó, hoặc mong muốn một bụi cây khác, anh ta hướng tâm đến toàn bộ vườn hoa, nghĩ "Ta sẽ hái hoa từ đây và từ kia," nhưng không lấy hoa từ bụi cây đó mà lại hướng tâm đến nơi khác, và khi hái hoa từ chính bụi cây đó, anh ta trở nên phóng dật. Cũng vậy, một số người đi vào giữa năm dục lạc (pañcakāmaguṇa) giống như vườn hoa, đạt được sắc khả ái, rồi mong muốn một trong những thinh, hương, vị, xúc khả ái.
Añño tesu vā aññataraṃ labhitvā aññataraṃ pattheti, rūpameva vā labhitvā aññaṃ apatthento tameva assādeti, saddādīsu vā aññataraṃ.
Another, having obtained one of these, desires another, or having obtained form, does not desire another, but simply enjoys that form, or one of the sounds, etc.
Một người khác, đạt được một trong số đó, lại mong muốn một điều khác; hoặc chỉ đạt được sắc mà không mong muốn điều gì khác, anh ta tận hưởng chính sắc đó; hoặc một trong những thinh, v.v.
Eseva nayo gomahiṃsadāsidāsakhettavatthugāmanigamajanapadādīsu, pabbajitānampi pariveṇavihārapattacīvarādīsūti evaṃ pañcakāmaguṇasaṅkhātāni pupphāni eva pacinantaṃ sampatte vā asampatte vā kāmaguṇe byāsattamanasaṃ naraṃ.
The same method applies to cattle, buffaloes, female and male slaves, fields, plots of land, villages, market towns, and districts; and also for renunciants, regarding their monasteries, dwellings, bowls, robes, etc. In this way, the man picking the flowers, which are the five sense-pleasures, is one whose mind is attached to sense-pleasures, whether obtained or not obtained.
Cũng theo cách này đối với bò, trâu, tớ gái, tớ trai, ruộng đất, làng mạc, thị trấn, quận huyện, v.v.; và đối với những người xuất gia (pabbajita) cũng vậy, đối với tu viện, tịnh xá, bát, y, v.v. Như vậy, người hái những bông hoa được gọi là năm dục lạc, người có tâm vướng mắc vào các dục lạc đã đạt được hoặc chưa đạt được.
Suttaṃ gāmanti gāmassa gehabhittiādīnaṃ pana supanavasena supanaṃ nāma natthi, sattānaṃ pana suttapamattataṃ upādāya sutto nāma hoti.
A sleeping village means that there is no such thing as a village's houses, walls, etc., sleeping in the sense of sleeping. But it is called "sleeping" by taking into account the sleeping and heedless state of the inhabitants.
Làng đang ngủ say (suttaṃ gāmaṃ): Không có sự ngủ say của tường nhà, v.v., của làng; nhưng do sự ngủ say, phóng dật của chúng sanh, nên gọi là làng đang ngủ say.
Evaṃ suttaṃ gāmaṃ dve tīṇi yojanāni āyatagambhīro mahoghova maccu ādāya gacchati.
Thus, Death carries away such a sleeping village, like a great flood two or three leagues long and deep.
Như vậy, Tử thần (Maccu) cuốn đi làng đang ngủ say, giống như dòng nước lũ lớn, rộng và sâu hai ba dojana.
Yathā so mahogho itthipurisagomahiṃsakukkuṭādīsu kiñci anavasesetvā sabbaṃ taṃ gāmaṃ samuddaṃ pāpetvā macchakacchapabhakkhaṃ karoti, evameva byāsattamanasaṃ naraṃ maccu ādāya jīvitindriyamassa chinditvā catūsu apāyasamuddesu nimujjāpetīti.
Just as that great flood, without leaving anything—men, women, cattle, buffaloes, chickens, etc.—carries the entire village to the ocean and makes it food for fish and tortoises, even so, Death carries away a man whose mind is attached, cuts off his life-faculty, and submerges him in the four oceans of the woeful states.
Cũng như dòng nước lũ lớn đó không để sót bất cứ thứ gì, dù là đàn bà, đàn ông, bò, trâu, gà, v.v., mà cuốn tất cả làng đó ra biển, biến chúng thành mồi cho cá và rùa, thì cũng vậy, Tử thần cuốn đi người có tâm vướng mắc, cắt đứt sinh mạng của người đó và nhấn chìm người đó vào bốn biển khổ của các cõi đọa lạc.
Tattha kira mālabhārī nāma devaputto accharāsahassaparivuto uyyānaṃ pāvisi.
It is said that a deva-son named Mālabhārī, surrounded by a thousand nymphs, entered a pleasure garden.
Nghe nói, ở đó có một vị thiên tử tên là Mālabhārī, được một ngàn tiên nữ vây quanh, đi vào vườn.
Pañcasatā devadhītaro rukkhaṃ āruyha pupphāni pātenti, pañcasatā patitāni pupphāni gahetvā devaputtaṃ alaṅkaronti.
Five hundred deva-daughters climbed trees and dropped flowers, and five hundred gathered the fallen flowers and adorned the deva-son.
Năm trăm thiên nữ leo lên cây và hái hoa, năm trăm thiên nữ khác nhặt những bông hoa đã rụng và trang điểm cho vị thiên tử.
Tāsu ekā devadhītā rukkhasākhāyameva cutā, sarīraṃ dīpasikhā viya nibbāyi.
Among them, one deva-daughter passed away right on a tree branch, her body extinguished like a lamp flame.
Trong số đó, một thiên nữ đã mệnh chung ngay trên cành cây, thân thể cô ấy tắt lịm như ngọn đèn.
Sā sāvatthiyaṃ ekasmiṃ kulagehe paṭisandhiṃ gahetvā jātakāle jātissarā hutvā ‘‘mālabhārīdevaputtassa bhariyāmhī’’ti anussarantī vuḍḍhimanvāya gandhamālādīhi pūjaṃ katvā sāmikassa santike abhinibbattiṃ patthesi.
She was reborn in a house of a family in Sāvatthī, and at birth, being endowed with recollection of past lives, she remembered, "I was the wife of the deva-son Mālabhārī." As she grew up, she made offerings of perfumes, garlands, and so forth, desiring to be reborn with her husband.
Cô ấy tái sanh vào một gia đình ở Sāvatthī, và khi sinh ra, cô ấy có khả năng nhớ lại các kiếp trước, nhớ rằng mình là vợ của thiên tử Mālabhārī. Khi trưởng thành, cô ấy đã dâng cúng hương hoa, v.v., và nguyện được tái sanh bên cạnh chồng mình.
Sā soḷasavassakāle parakulaṃ gatāpi salākabhattapakkhikabhattavassāvāsikādīni datvā, ‘‘ayaṃ me sāmikassa santike nibbattanatthāya paccayo hotū’’ti vadati.
Even after she went to another family (to be married) at sixteen years old, she offered ticket-meals, fortnightly meals, Vassāvāsika robes, and so forth, saying, "May this be a condition for my rebirth with my husband."
Khi được mười sáu tuổi, dù đã về nhà chồng, cô ấy vẫn dâng cúng các bữa ăn theo phiếu (salākabhatta), các bữa ăn hai tuần (pakkikabhatta), y phục mùa an cư (vassāvāsika), v.v., và nói: "Nguyện cho việc làm phước này là nhân duyên để con được tái sanh bên cạnh chồng con."
Athassā bhikkhū ‘‘ayaṃ kumārikā uṭṭhāya samuṭṭhāya patimeva patthetīti patipūjikā’’ti nāmaṃ kariṃsu.
Then the monks gave her the name "Paṭipūjikā" (the worshipper of her husband), saying, "This maiden constantly yearns for her husband."
Sau đó, các Tỳ-khưu đã đặt tên cho cô ấy là Patipūjikā (người cúng dường cho chồng) vì cô ấy luôn luôn mong muốn chồng mình.
Sāpi nibaddhaṃ āsanasālaṃ paṭijaggati, pānīyaṃ upaṭṭhapeti, āsanāni paññapeti.
She also regularly cleaned the assembly hall, provided drinking water, and arranged seats.
Cô ấy cũng thường xuyên chăm sóc giảng đường (āsanasālā), chuẩn bị nước uống, và sắp đặt chỗ ngồi.
Aññepi manussā salākabhattādīni dātukāmā, ‘‘amma, imānipi bhikkhusaṅghassa paṭipādeyyāsī’’ti vatvā āharitvā denti.
Other people, wishing to make offerings like ticket-meals, would bring them and give them to her, saying, "Mother, please arrange these also for the Saṅgha of bhikkhus."
Những người khác muốn dâng cúng các bữa ăn theo phiếu, v.v., cũng mang đến và trao cho cô ấy, nói: "Này cô, xin cô hãy dâng cúng những thứ này cho Tăng đoàn."
Sāpi etena niyāmena āgacchantī gacchantī ekapadavāre chapaññāsa kusaladhamme (dha. sa. 1; dha. sa. aṭṭha. 1 yevāpanakavaṇṇanā) paṭilabhati.
In this manner, by coming and going, she acquired fifty-six wholesome dhammas with each step.
Theo cách này, mỗi khi cô ấy đi lại, cô ấy đạt được năm mươi sáu pháp thiện (kusaladhamma) trong mỗi bước chân.
Tassā kucchiyaṃ gabbho patiṭṭhahi.
A foetus was conceived in her womb.
Một bào thai đã hình thành trong bụng cô ấy.
Sā dasamāsaccayena puttaṃ vijāyi.
After ten months, she gave birth to a son.
Sau mười tháng, cô ấy sinh một đứa con trai.
Tassa padasā gamanakāle aññampi aññampīti cattāro putte paṭilabhi.
By the time he could walk, she had given birth to four other sons, one after another.
Khi đứa con đó có thể đi bộ, cô ấy lại sinh thêm ba đứa con nữa, tổng cộng là bốn người con.
Sā ekadivasaṃ dānaṃ datvā pūjaṃ katvā dhammaṃ sutvā sikkhāpadāni rakkhitvā divasapariyosāne taṃ khaṇaṃ nibbattena kenaci rogena kālaṃ katvā attano sāmikasseva santike nibbatti.
One day, having made offerings and worshipped, listened to the Dhamma, and observed the precepts, at the end of the day, she passed away due to some illness that arose at that moment and was reborn with her very husband.
Một ngày nọ, sau khi bố thí, cúng dường, nghe pháp và giữ giới, vào cuối ngày, cô ấy đã qua đời do một căn bệnh bất ngờ phát sinh vào lúc đó, và tái sanh ngay bên cạnh chồng mình.
Itarāpi ettakaṃ kālaṃ devaputtaṃ alaṅkaronti eva.
The other nymphs continued to adorn the deva-son for all that time.
Những thiên nữ khác vẫn đang trang điểm cho vị thiên tử trong suốt thời gian đó.
Devaputto taṃ disvā ‘‘tvaṃ pātova paṭṭhāya na dissasi, kuhiṃ gatāsī’’ti āha.
The deva-son, seeing her, said, "You have not been seen since morning; where have you been?"
Vị thiên tử nhìn thấy cô ấy và nói: "Ngươi không thấy từ sáng sớm, ngươi đã đi đâu?"
‘‘Cutāmhi sāmī’’ti.
"I passed away, my lord."
"Thưa chủ nhân, con đã mệnh chung."
‘‘Kiṃ vadesī’’ti?
"What are you saying?"
"Ngươi nói gì vậy?"
‘‘Evametaṃ, sāmī’’ti.
"It is so, my lord."
"Thưa chủ nhân, đúng là như vậy."
‘‘Kuhiṃ nibbattāsī’’ti?
"Where were you reborn?"
"Ngươi đã tái sanh ở đâu?"
‘‘Sāvatthiyaṃ kulagehe’’ti.
"In a family house in Sāvatthī."
"Ở một gia đình tại Sāvatthī."
‘‘Kittakaṃ kālaṃ tattha ṭhitāsī’’ti?
"How long did you stay there?"
"Ngươi đã ở đó bao lâu?"
‘‘Dasamāsaccayena mātu kucchito nikkhamitvā soḷasavassakāle parakulaṃ gantvā cattāro putte vijāyitvā dānādīni puññāni katvā tumhe patthetvā āgantvā tumhākameva santike nibbattāmhi, sāmī’’ti.
"After ten months, I emerged from my mother's womb, went to another family (to be married) at sixteen years old, gave birth to four sons, performed merits such as donations, yearned for you, and came back to be reborn with you, my lord."
"Thưa chủ nhân, sau mười tháng, con ra khỏi bụng mẹ, đến mười sáu tuổi thì về nhà chồng, sinh bốn người con, đã làm các việc phước như bố thí, và nguyện được tái sanh bên cạnh ngài, nên con đã đến và tái sanh ngay bên cạnh ngài."
‘‘Manussānaṃ kittakaṃ āyū’’ti?
“What is the lifespan of humans?”
"Tuổi thọ của loài người là bao nhiêu?"
‘‘Vassasatamatta’’nti.
“About a hundred years.”
"Khoảng một trăm năm."
‘‘Ettakamevā’’ti?
“Only that much?”
"Chỉ có bấy nhiêu thôi sao?"
‘‘Āma, sāmī’’ti.
“Yes, my lord.”
"Vâng, thưa chủ nhân."
‘‘Ettakaṃ āyuṃ gahetvā nibbattamanussā kiṃ nu kho suttapamattā kālaṃ atikkāmenti, udāhu dānādīni puññāni karontī’’ti.
“Do humans, having gained such a lifespan, pass their time sleeping and heedless, or do they perform meritorious deeds such as giving?”
"Vậy những người tái sanh với tuổi thọ bấy nhiêu có phải sống trong sự ngủ say và phóng dật, hay họ làm các việc phước như bố thí?"
‘‘Kiṃ vadetha, sāmi’’?
“What are you saying, my lord?”
"Ngài nói gì vậy, thưa chủ nhân?"
‘‘Asaṅkhyeyyaṃ āyuṃ gahetvā nibbattā viya ajarāmarā viya ca niccaṃ pamattā, manussā’’ti.
“Humans are constantly heedless, as if they had gained an immeasurable lifespan, as if they were ageless and deathless.”
"Loài người luôn luôn phóng dật, như thể họ tái sanh với tuổi thọ vô lượng, như thể họ không già không chết."
Mālabhārīdevaputtassa mahāsaṃvego udapādi ‘‘vassasatamattamāyuṃ gahetvā nibbattamanussā kira pamattā nipajjitvā niddāyanti, kadā nu kho dukkhā muccissantī’’ti?
Great alarm arose in Mālabhārīdevaputta: “Humans, having gained a lifespan of only about a hundred years, lie down heedlessly and sleep. When will they be freed from suffering?”
Vị thiên tử Mālabhārī đã khởi lên sự xúc động lớn: "Nghe nói, loài người tái sanh với tuổi thọ khoảng một trăm năm mà lại phóng dật, nằm ngủ say. Khi nào họ mới thoát khỏi khổ đau đây?"
Manussānaṃ pana vassasataṃ tāvatiṃsānaṃ devānaṃ eko rattindivo, tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso, tena māsena dvādasamāsiko saṃvaccharo, tena saṃvaccharena dibbavassasahassaṃ āyuppamāṇaṃ, taṃ manussagaṇanāya tisso vassakoṭiyo, saṭṭhi ca vassasatasahassāni honti.
A hundred human years are one day and night for the Tāvatiṃsa devas. Thirty such days make a month, twelve such months make a year. Their lifespan is a thousand divine years, which amounts to three crores and sixty hundred thousand human years.
Một trăm năm của loài người là một ngày đêm của chư thiên cõi Tāvatiṃsa. Ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng. Mười hai tháng như vậy là một năm. Một ngàn năm cõi trời như vậy là tuổi thọ của chư thiên, mà theo cách tính của loài người thì đó là ba mươi triệu sáu trăm ngàn năm.
Tasmā tassa devaputtassa ekadivasopi nātikkanto muhuttasadisova kālo ahosi.
Therefore, not even one day had passed for that devaputta; it was a moment’s time.
Do đó, đối với vị thiên tử ấy, ngay cả một ngày cũng không trôi qua, thời gian chỉ như một khoảnh khắc.
Evaṃ appāyukamanussānaṃ pamādo nāma ativiya ayuttoti.
Thus, heedlessness in humans, whose lifespan is so short, is exceedingly inappropriate.
Như vậy, đối với những người có tuổi thọ ngắn ngủi, sự phóng dật là điều vô cùng không thích hợp.
Punadivase bhikkhū gāmaṃ paviṭṭhā āsanasālaṃ apaṭijaggitaṃ, āsanāni apaññattāni, pānīyaṃ anuṭṭhapitaṃ disvā, ‘‘kahaṃ patipūjikā’’ti āhaṃsu.
The next day, the bhikkhus entered the village and saw the assembly hall unprepared, the seats not arranged, and no drinking water provided. They asked, “Where is the female attendant?”
Ngày hôm sau, các Tỳ-kheo vào làng, thấy phòng khách không được dọn dẹp, chỗ ngồi không được sắp đặt, nước uống không được chuẩn bị, liền hỏi: “Người hộ độ đâu rồi?”
‘‘Bhante, kahaṃ tumhe taṃ dakkhissatha, hiyyo ayyesu bhuñjitvā gatesu sāyanhasamaye matā’’ti.
“Venerable sirs, where will you see her? Yesterday, after the noble ones had eaten and departed, she died in the evening.”
“Bạch chư Tôn giả, làm sao chư Tôn giả có thể thấy cô ấy được nữa? Hôm qua, sau khi chư Tôn giả thọ thực xong và đã đi, cô ấy đã chết vào buổi chiều.”
Taṃ sutvā puthujjanā bhikkhū tassā upakāraṃ sarantā assūni sandhāretuṃ nāsakkhiṃsu.
Hearing that, the ordinary bhikkhus, remembering her kindness, could not hold back their tears.
Nghe vậy, những Tỳ-kheo phàm phu, nhớ đến ân đức của cô ấy, không thể cầm được nước mắt.
Khīṇāsavānaṃ dhammasaṃvego udapādi.
The bhikkhus who were Arahants experienced spiritual urgency.
Đối với các vị A-la-hán, sự cảm động về Pháp khởi lên.
Te bhattakiccaṃ katvā vihāraṃ gantvā satthāraṃ vanditvā pucchiṃsu – ‘‘bhante, patipūjikā nāma upāsikā uṭṭhāya samuṭṭhāya nānappakārāni puññāni katvā sāmikameva patthesi, sā idāni matā, kahaṃ nu kho nibbattā’’ti?
After their meal, they went to the monastery, paid respects to the Teacher, and asked, “Venerable sir, the female lay follower named Patipūjikā diligently performed various meritorious deeds and wished only for her husband. She has now died. Where has she been reborn?”
Sau khi thọ thực xong, các vị ấy đến tịnh xá, đảnh lễ Đức Đạo Sư và hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, nữ cư sĩ tên Patipūjikā đã cố gắng hết sức làm các việc phước thiện khác nhau và chỉ mong ước được ở bên chồng mình. Giờ đây cô ấy đã chết, vậy cô ấy tái sinh ở đâu ạ?”
‘‘Attano sāmikasseva santike, bhikkhave’’ti.
“Right with her husband, bhikkhus.”
“Ở bên chồng của cô ấy, này các Tỳ-kheo.”
‘‘Natthi, bhante, sāmikassa santike’’ti.
“There is no husband, venerable sir.”
“Bạch Đức Thế Tôn, cô ấy không ở bên chồng của mình ạ.”
‘‘Na sā, bhikkhave, etaṃ sāmikaṃ pattheti, tāvatiṃsabhavane tassā mālabhārīdevaputto nāma sāmiko, sā tassa pupphapilandhanaṭṭhānato cavitvā puna gantvā tasseva santike nibbattā’’ti.
“That one, bhikkhus, did not wish for this husband. In the Tāvatiṃsa realm, her husband is a devaputta named Mālabhārī. She passed away from his flower-adornment place and, having gone there again, was reborn right with him.”
“Này các Tỳ-kheo, cô ấy không mong ước người chồng này. Ở cõi trời Ba Mươi Ba, chồng của cô ấy là vị thiên tử tên Mālabhārī. Cô ấy đã chuyển sinh từ nơi trang điểm hoa của vị ấy, rồi tái sinh trở lại bên cạnh chính vị ấy.”
‘‘Evaṃ kira, bhante’’ti.
“Is that so, venerable sir?”
“Bạch Đức Thế Tôn, đúng là như vậy ạ?”
‘‘Āma, bhikkhave’’ti.
“Yes, bhikkhus.”
“Đúng vậy, này các Tỳ-kheo.”
‘‘Aho parittaṃ, bhante, sattānaṃ jīvitaṃ, pātova amhe parivisitvā sāyaṃ uppannabyādhinā matā’’ti.
“Alas, venerable sir, how short is the life of beings! She served us in the morning and died in the evening from an illness that arose.”
“Ôi, bạch Đức Thế Tôn, mạng sống của chúng sinh thật ngắn ngủi! Sáng sớm cô ấy còn phục vụ chúng con, chiều tối đã chết vì bệnh phát sinh.”
Satthā ‘‘āma, bhikkhave, parittaṃ sattānaṃ jīvitaṃ nāma, teneva ime satte vatthukāmehi ceva kilesakāmehi ca atitte eva antako attano vase vattetvā kandante paridevante gahetvā gacchatī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
The Teacher said, “Indeed, bhikkhus, the life of beings is short. Therefore, Death takes these beings, who are still unsatisfied with both material pleasures and defilement-pleasures, making them subservient to him, weeping and lamenting,” and then he uttered this verse:
Đức Đạo Sư nói: “Đúng vậy, này các Tỳ-kheo, mạng sống của chúng sinh thật ngắn ngủi. Chính vì thế, thần chết (Antaka) đã nắm giữ những chúng sinh này khi họ vẫn còn chưa thỏa mãn với các dục cảnh (vatthukāma) và dục nhiễm (kilesakāma), khi họ đang than khóc và rên rỉ, và đưa họ theo ý mình.” Rồi Ngài đọc bài kệ này:
Tattha pupphāni heva pacinantanti pupphārāme mālākāro nānāpupphāni viya attabhāvapaṭibaddhāni ceva upakaraṇapaṭibaddhāni ca kāmaguṇapupphāni ocinantameva.
Here, ‘plucking flowers, as it were’ means gathering the flowers of sensual pleasures, which are connected to one's own existence and to possessions, just as a garland-maker gathers various flowers in a flower garden.
Ở đây, hái hoa (pupphāni heva pacinantaṃ) có nghĩa là: giống như người làm vòng hoa trong vườn hoa hái các loại hoa khác nhau, người ấy cũng đang hái các loại hoa dục lạc, bao gồm những dục lạc liên quan đến tự thân và những dục lạc liên quan đến vật chất.
Byāsattamanasaṃ naranti asampattesu patthanāvasena, sampattesu gedhavasena vividhenākārena āsattacittaṃ.
‘A man whose mind is distracted’ means one whose mind is attached in various ways, through craving for things not yet obtained, and through greed for things already obtained.
Người có tâm tham đắm (byāsattamanasaṃ naraṃ) có nghĩa là: người có tâm dính mắc theo nhiều cách khác nhau, do ước muốn đối với những gì chưa đạt được và do tham lam đối với những gì đã đạt được.
Atittaṃyeva kāmesūti vatthukāmakilesakāmesu pariyesanenapi paṭilābhenapi paribhogenapi nidhānenapi atittaṃ eva samānaṃ.
‘Who is not yet sated with sensual pleasures’ means being unsatisfied with material pleasures and defilement-pleasures, whether through seeking, obtaining, enjoying, or accumulating them.
Chưa thỏa mãn dục lạc (atittaṃyeva kāmesu) có nghĩa là: vẫn chưa thỏa mãn với các dục cảnh (vatthukāma) và dục nhiễm (kilesakāma), dù là trong việc tìm kiếm, đạt được, hưởng thụ hay cất giữ.
Antako kurute vasanti maraṇasaṅkhāto antako kandantaṃ paridevantaṃ gahetvā gacchanto attano vasaṃ pāpetīti attho.
‘Death makes him his own’ means that Death, so-called, takes him, while he is crying and lamenting, and brings him under its sway; this is the meaning.
Thần chết nắm giữ (antako kurute vasa) có nghĩa là: thần chết, tức là cái chết, nắm giữ người đang than khóc và rên rỉ, đưa người ấy vào quyền lực của mình.
Rājagahanagarassa kira avidūre sakkāraṃ nāma nigamo ahosi.
Not far from the city of Rājagaha, there was a market town called Sakkāra.
Nghe nói, không xa thành Rājagaha có một thị trấn tên là Sakkāra.
Tattheko macchariyakosiyo nāma seṭṭhi asītikoṭivibhavo paṭivasati.
In it lived a householder named Miserly Kosiya, who had a fortune of eighty crores.
Ở đó, có một trưởng giả tên Macchariyakosiya, người có tám mươi triệu tài sản, đang cư trú.
So tiṇaggena telabindumpi paresaṃ na deti, na attanā paribhuñjati.
He would not give even a drop of oil on a blade of grass to others, nor did he enjoy it himself.
Ông ta không bao giờ cho người khác dù chỉ một giọt dầu trên đầu ngọn cỏ, và cũng không tự mình hưởng thụ.
Itissa taṃ vibhavajātaṃ neva puttadārādīnaṃ, na samaṇabrāhmaṇānaṃ atthaṃ anubhoti, rakkhasapariggahitā pokkharaṇī viya aparibhogaṃ tiṭṭhati.
Thus, that amassed wealth was of no benefit to his children, wife, etc., nor to recluses and brahmins; it remained unused like a pond possessed by a rākṣasa.
Vì vậy, tài sản của ông ta không mang lại lợi ích cho con cái, vợ con, hay các sa-môn, bà-la-môn; nó vẫn nằm đó không được sử dụng, giống như một cái ao bị quỷ dữ chiếm giữ.
Satthā ekadivasaṃ paccūsasamaye mahākaruṇāsamāpattito vuṭṭhāya sakalalokadhātuyaṃ bodhaneyyabandhave olokento pañcacattālīsayojanamatthake vasantassa seṭṭhino sapajāpatikassa sotāpattiphalassa upanissayaṃ addasa.
One day, at dawn, the Teacher, having emerged from the attainment of great compassion, surveyed the entire world-system for those ripe for awakening, and saw the potential for the fruit of stream-entry in the householder and his wife, who lived forty-five yojanas away.
Một ngày nọ, Đức Đạo Sư vào buổi sáng sớm, sau khi xuất khỏi đại bi định, nhìn khắp toàn bộ thế giới để tìm kiếm những người có duyên giác ngộ, và Ngài thấy duyên lành để đạt quả Dự Lưu của vị trưởng giả cùng vợ, đang sống cách đó bốn mươi lăm dojana.
Tato purimadivase pana so rājānaṃ upaṭṭhātuṃ rājagehaṃ gantvā rājūpaṭṭhānaṃ katvā āgacchanto ekaṃ chātajjhattaṃ janapadamanussaṃ kummāsapūraṃ kapallakapūvaṃ khādantaṃ disvā tattha pipāsaṃ uppādetvā attano gharaṃ gantvā cintesi – ‘‘sacāhaṃ kapallakapūvaṃ khāditukāmomhīti vakkhāmi, bahū manussā mayā saddhiṃ khāditukāmā bhavissanti, evaṃ me bahūni tilataṇḍulasappiphāṇitādīni parikkhayaṃ gamissanti, na kassaci kathessāmī’’ti taṇhaṃ adhivāsento carati.
However, the day before, that householder had gone to Rājagaha to attend upon the king, and after attending upon the king, as he was returning, he saw a hungry man from the countryside eating a pan-cake filled with barley meal, and developed a craving for it. Upon returning home, he thought, “If I say I want to eat a pan-cake, many people will want to eat with me. In this way, much of my sesame, rice, ghee, treacle, etc., will be consumed. I will not tell anyone.” He continued to suppress his craving.
Vào ngày trước đó, vị trưởng giả này đã đi đến Rājagaha để phục vụ vua, sau khi phục vụ vua xong, trên đường trở về, ông thấy một người dân quê đang đói bụng ăn một chiếc bánh nướng bằng bột lúa mạch trong chảo, liền nảy sinh lòng thèm muốn đối với chiếc bánh đó. Khi về đến nhà, ông nghĩ: “Nếu ta nói rằng ta muốn ăn bánh nướng bằng chảo, nhiều người sẽ muốn ăn cùng ta, như vậy sẽ tốn rất nhiều mè, gạo, bơ, mật đường, v.v. Ta sẽ không nói với ai cả.” Ông ta cứ thế chịu đựng lòng tham.
So gacchante gacchante kāle uppaṇḍuppaṇḍukajāto dhamanisanthatagatto jāto.
As time passed, he became very pale and yellow, with his body covered in a network of veins.
Thời gian trôi qua, ông ta trở nên xanh xao, vàng vọt, và cơ thể gầy gò đến nỗi gân xanh nổi rõ.
Tato taṇhaṃ adhivāsetuṃ asakkonto gabbhaṃ pavisitvā mañcake upagūhitvā nipajji.
Then, unable to suppress his craving, he entered a room, covered himself on the bed, and lay down.
Sau đó, không thể chịu đựng lòng tham được nữa, ông ta vào phòng, trùm chăn nằm trên giường.
Evaṃ gatopi dhanahānibhayena na kassaci kiñci kathesi.
Even in this state, due to fear of losing wealth, he said nothing to anyone.
Dù đã đến mức đó, vì sợ mất của, ông ta không nói gì với ai.
Atha naṃ bhariyā upasaṅkamitvā piṭṭhiṃ parimajjitvā, ‘‘kiṃ te, sāmi, aphāsukaṃ jāta’’nti pucchi.
Then his wife approached him, massaged his back, and asked, “My lord, what is wrong with you?”
Sau đó, vợ ông đến gần, xoa lưng ông và hỏi: “Chàng ơi, chàng bị khó chịu ở đâu vậy?”
‘‘Na me kiñci aphāsukaṃ atthī’’ti.
“Nothing is wrong with me.”
“Ta không có gì khó chịu cả.”
‘‘Kiṃ nu kho te rājā kupito’’ti?
“Has the king perhaps become angry with you?”
“Có phải nhà vua giận chàng không?”
‘‘Rājāpi me na kuppatī’’ti.
“The king is not angry with me.”
“Nhà vua cũng không giận ta.”
‘‘Atha kiṃ te puttadhītāhi vā dāsakammakarādīhi vā kiñci amanāpaṃ kataṃ atthī’’ti?
“Then have your children, daughters, servants, or workers done anything displeasing?”
“Vậy có phải con cái hay nô bộc, người làm công đã làm điều gì không vừa ý chàng không?”
‘‘Evarūpampi natthī’’ti.
“Nothing of that sort either.”
“Cũng không có chuyện như vậy.”
‘‘Kismiñci pana te taṇhā atthī’’ti?
“Do you perhaps have a craving for something?”
“Vậy chàng có thèm muốn điều gì không?”
Evaṃ vuttepi dhanahānibhayena kiñci avatvā nissaddova nipajji, atha naṃ bhariyā ‘‘kathehi, sāmi kismiñci te taṇhā atthī’’ti āha.
Even when asked this, he remained silent, saying nothing due to fear of losing wealth. Then his wife said, “Tell me, my lord, do you have a craving for anything?”
Dù được hỏi như vậy, vì sợ mất của, ông ta không nói gì mà chỉ nằm im lặng. Sau đó, vợ ông nói: “Chàng ơi, hãy nói đi, chàng có thèm muốn điều gì không?”
So vacanaṃ parigilanto viya ‘‘atthi me taṇhā’’ti āha.
He said, as if with difficulty, “I do have a craving.”
Ông ta, như thể đang nuốt lời, nói: “Ta có thèm muốn.”
‘‘Kiṃ taṇhā, sāmī’’ti?
“What is that craving, my lord?”
“Chàng thèm muốn gì vậy?”
‘‘Kapallakapūvaṃ khāditukāmomhī’’ti.
“I wish to eat a pan-cake.”
“Ta muốn ăn bánh nướng bằng chảo.”
‘‘Atha kimatthaṃ me na kathesi, kiṃ tvaṃ daliddosi, idāni sakalanigamavāsīnaṃ pahonake kapallakapūve pacissāmī’’ti.
“Then why did you not tell me? Are you poor? Now I will make enough pan-cakes for all the residents of the market town.”
“Vậy tại sao chàng không nói với thiếp? Chàng nghèo sao? Bây giờ thiếp sẽ làm đủ bánh nướng bằng chảo cho tất cả dân làng.”
‘‘Kiṃ te etehi, attano kammaṃ katvā khādissantī’’ti?
“What good are they to you? Let them do their own work and eat.”
“Những người đó thì có ích gì cho chàng? Họ sẽ làm việc của họ rồi ăn.”
‘‘Tena hi ekaracchavāsīnaṃ pahonake pacissāmī’’ti.
“Then I will make enough for the residents of one street.”
“Vậy thì thiếp sẽ làm đủ cho những người sống trên một con đường.”
‘‘Jānāmahaṃ tava mahaddhanabhāva’’nti.
“I know your great wealth!”
“Ta biết lòng giàu có của nàng.”
‘‘Imasmiṃ gehasāmante sabbesaṃ pahonakaṃ katvā pacāmī’’ti.
“I will cook enough for everyone in the vicinity of this house.”
“Thiếp sẽ làm đủ cho tất cả mọi người trong khu vực gần nhà này.”
‘‘Jānāmahaṃ tava mahajjhāsayabhāva’’nti.
“I know your magnanimous nature.”
“Ta biết lòng quảng đại của nàng.”
‘‘Tena hi te puttadāramattasseva pahonakaṃ katvā pacāmī’’ti.
“Then I will cook enough just for your wife and children.”
“Vậy thì thiếp sẽ làm đủ cho riêng con cái và vợ chồng mình thôi.”
‘‘Kiṃ te etehī’’ti?
“What use are they to you?”
“Những người đó thì có ích gì cho chàng?”
‘‘Kiṃ pana tuyhañca mayhañca pahonakaṃ katvā pacāmī’’ti?
“Then shall I cook enough for just you and me?”
“Vậy thiếp sẽ làm đủ cho riêng chàng và thiếp thôi nhé?”
‘‘Tvaṃ kiṃ karissasī’’ti?
“What will you do?”
“Nàng sẽ làm gì?”
‘‘Tena hi ekakasseva te pahonakaṃ katvā pacāmī’’ti.
“Then I will cook enough just for you alone.”
“Vậy thì thiếp sẽ làm đủ cho riêng chàng thôi.”
‘‘Imasmiṃ ṭhāne pacamāne bahū paccāsīsanti.
“If you cook in this place, many will yearn for it.
“Nếu làm ở đây, nhiều người sẽ mong đợi.
Sakalataṇḍule ṭhapetvā bhinnataṇḍule ca uddhanakapallāni ca ādāya thokaṃ khīrasappimadhuphāṇitañca gahetvā sattabhūmikassa pāsādassa uparimatalaṃ āruyha paca, tatthāhaṃ ekakova nisīditvā khādissāmī’’ti.
Leaving aside the whole rice, take broken rice, an oven, and pans, and a little milk, ghee, honey, and treacle, ascend to the uppermost floor of the seven-storied palace, and cook there. There, I will sit alone and eat.”
Hãy bỏ lại tất cả gạo nguyên, chỉ lấy gạo tấm và bếp lò, chảo, cùng một ít sữa, bơ, mật ong, mật đường, rồi lên tầng trên cùng của tòa lâu đài bảy tầng mà nướng bánh. Ở đó ta sẽ ngồi một mình mà ăn.”
Sā ‘‘sādhū’’ti paṭissuṇitvā gahetabbaṃ gāhāpetvā pāsādaṃ abhiruyha dāsiyo vissajjetvā seṭṭhiṃ pakkosāpesi, so ādito paṭṭhāya dvārāni pidahanto sabbadvāresu sūcighaṭikaṃ datvā sattamatalaṃ abhiruhitvā tatthapi dvāraṃ pidahitvā nisīdi.
She said, “Very well,” assented, had the necessary items taken, ascended the palace, dismissed the maids, and sent for the rich man. He, closing the doors from the beginning, placed bolts on all the doors, ascended to the seventh floor, closed the door there too, and sat down.
Cô ấy đáp “Vâng”, rồi bảo người lấy những thứ cần lấy, sau đó lên lầu, cho các tỳ nữ về, rồi sai người gọi trưởng giả. Ông ta bắt đầu từ cửa ra vào, đóng tất cả các cửa, cài chốt ở mỗi cửa, rồi lên đến tầng thứ bảy, ở đó cũng đóng cửa lại và ngồi xuống.
Bhariyāpissa uddhane aggiṃ jāletvā kapallaṃ āropetvā pūve pacituṃ ārabhi.
His wife also lit a fire in the oven, placed a pan on it, and began to cook cakes.
Vợ ông ta cũng nhóm lửa trong bếp, đặt chảo lên và bắt đầu nướng bánh.
Atha satthā pātova mahāmoggallānattheraṃ āmantesi – ‘‘eso, moggallāna, rājagahassa avidūre sakkāranigame macchariyaseṭṭhi ‘kapallakapūve khādissāmī’ti aññesaṃ dassanabhayena sattabhūmike pāsāde kapallakapūve pacāpeti, tvaṃ tattha gantvā seṭṭhiṃ dametvā nibbisevanaṃ katvā ubhopi jāyampatike pūve ca khīrasappimadhuphāṇitāni ca gāhāpetvā attano balena jetavanaṃ ānehi, ajjāhaṃ pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ vihāre eva nisīdissāmi, pūveheva bhattakiccaṃ karissāmī’’ti.
Then, early in the morning, the Teacher addressed Mahāmoggallāna Thera: “Moggallāna, not far from Rājagaha, in the village of Sakkāra, the miserly rich man, intending to eat pan-cakes, has them cooked in his seven-storied palace, fearing that others might see him. Go there, tame the rich man, and without being served, make both husband and wife take the cakes, milk, ghee, honey, and treacle, and by your power, bring them to Jetavana. Today I will sit in the monastery with five hundred monks, and we will perform our meal with only these cakes.”
Bấy giờ, Đức Bổn Sư vào sáng sớm đã gọi Đại Trưởng lão Mahāmoggallāna và nói: “Này Moggallāna, ở làng Sakkāra, không xa Rājagaha, có một trưởng giả keo kiệt tên là Macchariya. Vì sợ người khác thấy, ông ta đã cho làm bánh kapallaka trong cung điện bảy tầng của mình để ăn. Con hãy đến đó, điều phục trưởng giả, khiến ông ta không còn tham lam, rồi bảo cả hai vợ chồng mang bánh kapallaka, sữa, bơ, mật ong và đường thốt nốt đến đây. Bằng thần lực của con, hãy đưa họ đến Jetavana. Hôm nay, Ta sẽ ngồi trong tinh xá cùng với năm trăm Tỳ-kheo và sẽ dùng bánh kapallaka để thọ thực.”
Thero ‘‘sādhu, bhante’’ti satthu vacanaṃ sampaṭicchitvā tāvadeva iddhibalena taṃ nigamaṃ gantvā tassa pāsādassa sīhapañjaradvāre sunivattho supāruto ākāse eva maṇirūpakaṃ viya aṭṭhāsi.
The Thera, saying “Very well, Venerable Sir,” accepted the Teacher’s word and immediately, by his psychic power, went to that village and stood in the air at the lion-panel window of that palace, well-robed and well-clad, like a jewel image.
Trưởng lão đáp: “Bạch Thế Tôn, lành thay!” Ngài chấp nhận lời của Đức Bổn Sư, ngay lập tức dùng thần thông đến ngôi làng đó, đứng lơ lửng trên không trung ở cửa sổ sư tử của cung điện, như một pho tượng ngọc quý, trong tư thế y phục chỉnh tề.
Mahāseṭṭhino theraṃ disvāva hadayamaṃsaṃ kampi.
As soon as the great rich man saw the Thera, his heart trembled.
Vị đại trưởng giả vừa thấy Trưởng lão thì tim đập thình thịch.
So ahaṃ evarūpānaṃyeva dassanabhayena imaṃ ṭhānamāgato, ayañca bhikkhu ākāsenāgantvā vātapānadvāre ṭhitoti.
“I came to this place precisely out of fear of being seen by such people, and this monk has come through the air and is standing at the window!”
Ông ta nghĩ: “Ta đến nơi này vì sợ bị những người như thế này nhìn thấy, mà vị Tỳ-kheo này lại từ trên không trung đến đứng ở cửa sổ.”
So gahetabbagahaṇaṃ apassanto aggimhi pakkhittaloṇasakkharā viya dosena taṭataṭāyanto evamāha – ‘‘samaṇa, ākāse ṭhatvāpi kiṃ labhissasi, ākāse apade padaṃ dassetvā caṅkamantopi neva labhissasī’’ti.
Unable to find any way to deal with him, he hissed with anger like salt crystals thrown into a fire and said: “Ascetic, what will you gain by standing in the air? Even if you walk in the air, leaving no footprint, you will gain nothing!”
Không thấy có cách nào để đuổi đi, ông ta tức giận sôi sục như muối và đường bị ném vào lửa, nói: “Này Sa-môn, đứng trên không trung thì được gì? Dù có đi kinh hành trên không trung không dấu vết cũng chẳng được gì đâu!”
Thero tasmiṃ eva ṭhāne aparāparaṃ caṅkami.
The Thera walked back and forth in that very spot.
Trưởng lão liền đi kinh hành tới lui ngay tại chỗ đó.
Seṭṭhi ‘‘caṅkamanto kiṃ labhissasi, ākāse pallaṅkena nisīdantopi na labhissasiyevā’’ti āha.
The rich man said: “What will you gain by walking? Even if you sit cross-legged in the air, you will gain nothing!”
Trưởng giả nói: “Đi kinh hành thì được gì? Ngồi kiết già trên không trung cũng chẳng được gì đâu!”
Thero pallaṅkaṃ ābhujitvā nisīdi.
The Thera sat cross-legged.
Trưởng lão liền xếp chân kiết già ngồi.
Atha naṃ ‘‘ākāse nisinno kiṃ labhissasi, āgantvā vātapānassa ummāre ṭhitopi na labhissasī’’ti āha.
Then he said to him: “What will you gain by sitting in the air? Even if you come and stand on the window sill, you will gain nothing!”
Bấy giờ, ông ta nói: “Ngồi trên không trung thì được gì? Đến đứng ở ngưỡng cửa sổ cũng chẳng được gì đâu!”
Thero ummāre ṭhito.
The Thera stood on the sill.
Trưởng lão liền đứng ở ngưỡng cửa.
‘‘Ummāre ṭhitopi kiṃ labhissasi, dhūmāyantopi na labhissasi evā’’ti āha.
“What will you gain by standing on the sill? Even if you emit smoke, you will gain nothing!” he said.
Ông ta nói: “Đứng ở ngưỡng cửa cũng được gì? Dù có bốc khói cũng chẳng được gì đâu!”
Theropi dhūmāyi.
The Thera also emitted smoke.
Trưởng lão liền bốc khói.
Sakalapāsādo ekadhūmo ahosi.
The entire palace became filled with a single cloud of smoke.
Toàn bộ cung điện đều bốc khói.
Seṭṭhino akkhīnaṃ sūciyā vijjhanakālo viya ahosi, gehajjhāyanabhayena pana ‘‘tvaṃ pajjalantopi na labhissasī’’ti avatvā ‘‘ayaṃ samaṇo suṭṭhu laggo, aladdhā na gamissati, ekamassa pūvaṃ dāpessāmī’’ti bhariyaṃ āha – ‘‘bhadde ekaṃ khuddakapūvaṃ pacitvā samaṇassa datvā uyyojehi na’’nti.
It was as if the rich man’s eyes were being pricked with needles, but out of fear that the house would catch fire, he did not say, “Even if you blaze, you will gain nothing,” but instead thought, “This ascetic is very persistent; he will not leave without getting something. I will have one cake given to him.” So he said to his wife: “My dear, cook one small cake, give it to the ascetic, and send him away.”
Đối với trưởng giả, lúc đó như bị kim châm vào mắt. Nhưng vì sợ cung điện bị cháy, ông ta không nói: “Dù ông có bốc cháy cũng chẳng được gì đâu!” mà nói: “Vị Sa-môn này thật cố chấp, không được thì sẽ không đi. Ta sẽ cho ông ta một cái bánh.” Rồi ông ta nói với vợ: “Này hiền thê, hãy làm một cái bánh nhỏ, đưa cho vị Sa-môn rồi tiễn ông ta đi.”
Sā thokaṃ eva piṭṭhaṃ kapallapātiyaṃ pakkhipi, mahāpūvo hutvā sakalapātiṃ pūretvā uddhumāto hutvā aṭṭhāsi.
She put only a little flour into the pan, but it became a large cake, filled the entire pan, and swelled up.
Bà ta chỉ cho một ít bột vào chảo, nhưng cái bánh trở nên to lớn, đầy cả chảo và phồng lên.
Seṭṭhi taṃ disvā ‘‘bahuṃ tayā piṭṭhaṃ gahitaṃ bhavissatī’’ti sayameva dabbikaṇṇena thokaṃ piṭṭhaṃ gahetvā pakkhipi, pūvo purimapūvato mahantataro jāto.
Seeing that, the rich man thought, “You must have taken a lot of flour,” and he himself took a little flour with the tip of a ladle and put it in. The cake became even larger than the previous one.
Trưởng giả thấy vậy, nghĩ: “Chắc bà đã lấy nhiều bột,” rồi tự mình dùng đầu vá lấy một ít bột cho vào. Cái bánh lại càng to hơn cái bánh trước.
Evaṃ yaṃ yaṃ pacati, so so mahantamahantova hoti.
Thus, whatever he cooked, it became larger and larger.
Cứ thế, mỗi cái bánh ông ta làm ra đều trở nên to lớn hơn.
So nibbinno bhariyaṃ āha – ‘‘bhadde, imassa ekaṃ pūvaṃ dehī’’ti.
Disgusted, he said to his wife: “My dear, give him one cake.”
Ông ta chán nản, nói với vợ: “Này hiền thê, hãy đưa cho vị này một cái bánh.”
Tassā pacchito ekaṃ pūvaṃ gaṇhantiyā sabbe ekābaddhā allīyiṃsu.
As she tried to take one cake from the basket, all the cakes stuck together.
Khi bà ta lấy một cái bánh từ trong giỏ, tất cả các cái bánh đều dính chặt vào nhau.
Sā seṭṭhiṃ āha – ‘‘sāmi, sabbe pūvā ekato laggā, visuṃ kātuṃ na sakkomī’’ti.
She said to the rich man: “Master, all the cakes are stuck together; I cannot separate them.”
Bà ta nói với trưởng giả: “Thưa chủ nhân, tất cả các cái bánh đều dính vào nhau, con không thể tách rời chúng ra được.”
‘‘Ahaṃ karissāmī’’ti sopi kātuṃ nāsakkhi.
“I will do it,” he said, but he also could not separate them.
“Để ta làm,” ông ta nói, nhưng ông ta cũng không thể tách ra được.
Ubhopi janā koṭiyaṃ gahetvā kaḍḍhantāpi viyojetuṃ nāsakkhiṃsu eva.
Both of them, even pulling at the edge, could not separate them.
Cả hai vợ chồng dù nắm lấy mép bánh mà kéo cũng không thể tách rời chúng ra được.
Athassa pūvehi saddhiṃ vāyamantasseva sarīrato sedā mucciṃsu, pipāsā upacchijji.
Then, as he struggled with the cakes, sweat broke out from his body, and his thirst subsided.
Bấy giờ, khi ông ta đang vật lộn với những cái bánh, mồ hôi từ người ông ta chảy ra, và cơn khát của ông ta cũng biến mất.
Tato bhariyaṃ āha – ‘‘bhadde, na me pūvehi attho, pacchiyā saddhiṃyeva imassa dehī’’ti.
Thereupon he said to his wife: “My dear, I have no use for these cakes. Give them to him with the basket itself.”
Sau đó, ông ta nói với vợ: “Này hiền thê, ta không cần những cái bánh này nữa, hãy đưa cả cái giỏ cho vị này đi.”
Sā pacchiṃ ādāya theraṃ upasaṅkamitvā adāsi.
She took the basket, approached the Thera, and gave it to him.
Bà ta liền cầm cái giỏ đến gần Trưởng lão và dâng lên.
Thero ubhinnampi dhammaṃ desesi, tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇaṃ kathesi, ‘‘atthi dinnaṃ, atthi yiṭṭha’’nti dinnadānādīnaṃ phalaṃ gaganatale puṇṇacandaṃ viya dassesi.
The Thera taught the Dhamma to both of them, spoke of the virtues of the Three Jewels, and revealed the fruit of giving and other acts of generosity, like a full moon in the sky.
Trưởng lão đã thuyết pháp cho cả hai vợ chồng, nói về phẩm hạnh của Tam Bảo, và chỉ cho họ thấy quả báo của việc bố thí và cúng dường, như vầng trăng tròn trên bầu trời.
Taṃ sutvā pasannacitto hutvā seṭṭhi ‘‘bhante, āgantvā imasmiṃ pallaṅke nisīditvā paribhuñjathā’’ti āha.
Having heard that, the rich man, with a delighted mind, said: “Venerable Sir, please come and sit on this couch and partake of the meal.”
Nghe vậy, trưởng giả tâm sinh hoan hỷ, nói: “Bạch Đại đức, xin ngài hãy đến ngồi trên ghế này và thọ thực.”
Thero, ‘‘mahāseṭṭhi, sammāsambuddho ‘pūve khādissāmī’ti pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ vihāre nisinno, tumhākaṃ ruciyā sati ahaṃ vo nessāmi, seṭṭhibhariyaṃ pūve ca khīrādīni ca gaṇhāpetha, satthu santikaṃ gamissāmā’’ti āha.
The Thera said: “Great rich man, the Perfectly Self-Enlightened One is sitting in the monastery with five hundred monks, saying, ‘I will eat cakes.’ If it pleases you, I will take you. Have the rich man’s wife take the cakes and the milk, etc., and we will go to the Teacher.”
Trưởng lão nói: “Này đại trưởng giả, Đức Chánh Đẳng Giác đang ngự tại tinh xá cùng với năm trăm Tỳ-kheo, nói rằng ‘Ta sẽ dùng bánh kapallaka.’ Nếu ông có lòng muốn, ta sẽ đưa ông đi. Hãy bảo vợ ông lấy bánh kapallaka, sữa và các thứ khác, chúng ta sẽ đến chỗ Đức Bổn Sư.”
‘‘Kahaṃ pana, bhante, etarahi satthā’’ti?
"Where, Venerable Sir, is the Teacher now?"
“Bạch Đại đức, hiện giờ Đức Bổn Sư đang ở đâu?”
‘‘Ito pañcacattālīsayojanamatthake jetavanavihāre, mahāseṭṭhī’’ti.
"Forty-five yojanas from here, at the Jetavana Monastery, great merchant."
“Này đại trưởng giả, Đức Bổn Sư đang ở tinh xá Jetavana, cách đây bốn mươi lăm dojana.”
‘‘Bhante, kālaṃ anatikkamitvā ettakaṃ addhānaṃ kathaṃ gamissāmā’’ti.
"Venerable Sir, how shall we travel such a distance without exceeding the mealtime?"
“Bạch Đại đức, làm sao chúng con có thể đi một quãng đường xa như vậy mà không quá giờ thọ thực?”
‘‘Mahāseṭṭhi, tumhākaṃ ruciyā sati ahaṃ vo attano iddhibalena nessāmi, tumhākaṃ pāsāde sopānasīsaṃ attano ṭhāne eva bhavissati, sopānapariyosānaṃ pana vo jetavanadvārakoṭṭhake bhavissati, uparipāsādā heṭṭhāpāsādaṃ otaraṇakālamatteneva jetavanaṃ nessāmī’’ti.
"Great merchant, if you wish, I will take you by my psychic power. The top of the staircase of your palace will remain in its place, but the bottom of the staircase will be at the gatehouse of Jetavana. I will take you to Jetavana in the time it takes to descend from the upper palace to the lower palace."
“Này đại trưởng giả, nếu ông có lòng muốn, ta sẽ đưa ông đi bằng thần lực của ta. Đầu cầu thang của cung điện ông sẽ vẫn ở vị trí cũ, nhưng cuối cầu thang sẽ ở cổng Jetavana. Ta sẽ đưa ông đến Jetavana chỉ trong khoảng thời gian ông đi từ tầng trên xuống tầng dưới của cung điện.”
So ‘‘sādhu, bhante’’ti sampaṭicchi.
He agreed, saying, "Very well, Venerable Sir."
Ông ta đáp: “Bạch Đại đức, lành thay!”
Thero sopānasīsaṃ tattheva katvā ‘‘sopānapādamūlaṃ jetavanadvārakoṭṭhake hotū’’ti adhiṭṭhāsi.
The Elder fixed the top of the staircase in its place and resolved, "Let the foot of the staircase be at the gatehouse of Jetavana."
Trưởng lão liền đặt đầu cầu thang ở đó và nguyện rằng: “Chân cầu thang hãy ở cổng Jetavana.”
Tatheva ahosi.
And so it was.
Và quả nhiên là như vậy.
Iti thero seṭṭhiñca seṭṭhibhariyañca uparipāsādā heṭṭhāpāsādaṃ otaraṇakālato khippataraṃ jetavanaṃ sampāpesi.
Thus, the Elder brought the merchant and his wife to Jetavana faster than the time it takes to descend from the upper palace to the lower palace.
Thế là, Trưởng lão đã đưa trưởng giả và vợ ông ta đến Jetavana nhanh hơn cả thời gian họ đi từ tầng trên xuống tầng dưới của cung điện.
Te ubhopi satthāraṃ upasaṅkamitvā kālaṃ ārocesuṃ.
Both of them approached the Teacher and announced the mealtime.
Cả hai vợ chồng đều đến gặp Đức Bổn Sư và báo giờ thọ thực.
Satthā bhattaggaṃ pavisitvā paññattavarabuddhāsane nisīdi saddhiṃ bhikkhusaṅghena.
The Teacher entered the dining hall and sat on the excellent Buddha-seat that had been prepared, together with the community of bhikkhus.
Đức Bổn Sư vào phòng ăn và ngồi trên pháp tòa cao quý đã được sắp đặt cùng với Tăng đoàn.
Mahāseṭṭhi buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa dakkhiṇodakaṃ adāsi.
The great merchant offered the water of dedication to the community of bhikkhus headed by the Buddha.
Đại trưởng giả đã dâng nước cúng dường cho Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu.
Bhariyāpissa tathāgatassa patte pūvaṃ patiṭṭhāpesi.
His wife placed cakes in the Tathāgata's bowl.
Vợ ông ta cũng đã đặt bánh vào bát của Đức Như Lai.
Satthā attano yāpanamattaṃ gaṇhi, pañcasatā bhikkhūpi yāpanamattaṃ gaṇhiṃsu.
The Teacher took a sufficient amount for sustenance, and the five hundred bhikkhus also took a sufficient amount for sustenance.
Đức Bổn Sư đã thọ nhận vừa đủ cho mình, và năm trăm Tỳ-kheo cũng đã thọ nhận vừa đủ.
Seṭṭhi khīrasappimadhusakkharādīni dadamāno na khayaṃ agamāsi.
As the merchant offered milk, ghee, honey, sugar, and other items, they did not diminish.
Trưởng giả cứ dâng sữa, bơ, mật ong, đường… mà không hề cạn.
Satthā pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ bhattakiccaṃ niṭṭhāpesi.
The Teacher finished the meal with the five hundred bhikkhus.
Đức Bổn Sư cùng với năm trăm Tỳ-kheo đã hoàn tất bữa ăn.
Mahāseṭṭhipi saddhiṃ bhariyāya yāvadatthaṃ khādi.
The great rich man, together with his wife, ate to their heart's content.
Đại trưởng giả cùng với vợ cũng đã ăn no đủ.
Pūvānaṃ pariyosānameva na paññāyati.
The end of the cakes was not apparent at all.
Những cái bánh vẫn không thấy hết.
Sakalavihāre bhikkhūnañca vighāsādānañca dinnesupi pariyanto na paññāyateva.
Even after being distributed to the bhikkhus and those who consume leftovers throughout the entire monastery, the end was still not apparent.
Dù đã được phân phát cho các Tỳ-kheo và những người ăn thừa trong toàn bộ tinh xá, số bánh vẫn không thấy cạn.
‘‘Bhante, pūvā parikkhayaṃ na gacchantī’’ti bhagavato ārocesuṃ.
They reported to the Blessed One, "Venerable Sir, the cakes are not running out."
Họ bạch với Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, những cái bánh không hết.”
‘‘Tena hi jetavanadvārakoṭṭhake chaḍḍethā’’ti.
"Then throw them at the gatehouse of Jetavana," (the Blessed One) said.
“Vậy thì hãy đổ chúng ở cổng Jetavana,” Đức Bổn Sư nói.
Atha ne dvārakoṭṭhakassa avidūre pabbhāraṭṭhāne chaḍḍayiṃsu.
Then they threw those cakes near the gatehouse, in a sloping area.
Thế là, họ đã đổ chúng ở một khu vực dốc gần cổng tinh xá.
Yāvajjatanāpi taṃ ṭhānaṃ kapallakapūvapabbhāranteva paññāyati.
Even to this day, that place is known as the Kapallakappūvapabbhāra (Slope of the Plate-Cakes).
Cho đến tận ngày nay, nơi đó vẫn được gọi là Kapallakapūvapabbhāra (Đống Bánh Kapallaka).
Mahāseṭṭhi saha bhariyāya bhagavantaṃ upasaṅkamitvā vanditvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
The great rich man, together with his wife, approached the Blessed One, paid homage, and stood to one side.
Đại trưởng giả cùng với vợ đến gần Đức Thế Tôn, đảnh lễ rồi đứng sang một bên.
Bhagavā anumodanamakāsi.
The Blessed One gave an anumodana (words of appreciation).
Đức Thế Tôn đã ban lời tùy hỷ.
Anumodanāvasāne ubhopi sotāpattiphale patiṭṭhāya satthāraṃ vanditvā dvārakoṭṭhake sopānaṃ āruyha attano pāsādeyeva patiṭṭhahiṃsu.
At the conclusion of the anumodana, both established themselves in the fruit of stream-entry, paid homage to the Teacher, and ascending the staircase at the gatehouse, settled in their own palace.
Sau khi tùy hỷ xong, cả hai vợ chồng đều an trú vào quả vị Dự Lưu, đảnh lễ Đức Bổn Sư, rồi bước lên cầu thang ở cổng tinh xá và trở về cung điện của mình.
Tato paṭṭhāya seṭṭhi asītikoṭidhanaṃ buddhasāsaneyeva vikkiri.
From then on, the rich man spent eighty crores of wealth in the Buddha's dispensation.
Từ đó trở đi, trưởng giả đã bố thí tám mươi crore tài sản vào giáo pháp của Đức Phật.
Punadivase sāyanhasamaye dhammasabhāyaṃ sannisinnā bhikkhū ‘‘passathāvuso, mahāmoggallānattherassa ānubhāvaṃ, anupahacca nāma saddhaṃ, anupahacca bhoge macchariyaseṭṭhiṃ muhutteneva dametvā nibbisevanaṃ katvā pūve gāhāpetvā jetavanaṃ ānetvā satthu sammukhaṃ katvā sotāpattiphale patiṭṭhāpesi, aho mahānubhāvo thero’’ti therassa guṇaṃ kathentā nisīdiṃsu.
On the following day, in the evening, the bhikkhus, seated together in the Dhamma hall, spoke: "Friends, behold the power of Mahāmoggallāna Thera! Without harming faith, without harming wealth, he tamed the miserly rich man in an instant, made him generous, had the cakes brought to Jetavana, presented them before the Teacher, and established him in the fruit of stream-entry. How mighty in power is the Thera!" They sat conversing, extolling the Thera's virtues.
Vào buổi chiều ngày hôm sau, các Tỳ-kheo đang ngồi tụ họp trong Pháp đường, nói chuyện với nhau: “Này chư Hiền, hãy xem thần lực của Đại Trưởng lão Mahāmoggallāna! Không làm tổn hại đến niềm tin, không làm hao phí tài sản, ngài đã điều phục trưởng giả keo kiệt chỉ trong chốc lát, khiến ông ta không còn tham lam, bảo ông ta mang bánh đến Jetavana, trình diện Đức Bổn Sư, và an trú vào quả vị Dự Lưu. Ôi, Trưởng lão thật có thần lực vĩ đại!” Họ ngồi ca ngợi phẩm hạnh của Trưởng lão.
Satthā dibbāya sotadhātuyā kathaṃ sutvā āgantvā, ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā, ‘‘imāya nāmā’’ti vutte, ‘‘bhikkhave, kuladamakena nāma bhikkhunā anupahacca saddhaṃ, anupahacca bhoge, kulaṃ akilametvā aviheṭhetvā pupphato reṇuṃ gaṇhantena bhamarena viya upasaṅkamitvā buddhaguṇaṃ jānāpetabbaṃ, tādiso mama putto moggallāno’’ti theraṃ pasaṃsitvā imaṃ gāthamāha –
The Teacher, hearing their conversation with His divine ear-element, approached and asked, "Bhikkhus, what conversation were you engaged in just now, seated together?" When told, "This, Venerable Sir," He said, "Bhikkhus, a bhikkhu who tames families should approach them without harming their faith or their wealth, without tiring or tormenting the families, just as a bee gathers pollen from a flower. He should make them understand the virtues of the Buddha. Such is My son, Moggallāna." Praising the Thera, the Teacher then uttered this verse:
Đức Bổn Sư, sau khi nghe câu chuyện bằng thiên nhĩ, Ngài đến và hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn luận về chuyện gì?” Khi được trả lời: “Là chuyện này, bạch Thế Tôn,” Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có thể thuần hóa gia đình (cúng dường) nên đến gần họ như con ong lấy phấn hoa mà không làm hại màu sắc và hương thơm, không làm suy giảm tín tâm, không làm tổn hại tài sản, không làm gia đình mệt mỏi hay phiền não, và làm cho họ biết đến các đức tính của Phật. Moggallāna, con của Ta, là một người như vậy.” Sau khi tán thán vị Trưởng lão, Ngài đã nói bài kệ này:
Tattha bhamaroti yā kāci madhukarajāti.
Therein, bee means any species of honey-making bee.
Lấy vị rồi bay đi, khất thực tại làng mạc, đó là ý nghĩa của từ này.
Pupphanti pupphārāme caranto pupphañca vaṇṇañca gandhañca aheṭhayanto avināsento vicaratīti attho.
Flower means, while wandering in a flower garden, it wanders without harming or destroying the flower, its color, or its fragrance—this is the meaning.
Pupphanti (hoa) có nghĩa là con ong đi trong vườn hoa mà không làm hại hay phá hoại hoa, màu sắc và hương thơm của hoa.
Paletīti evaṃ caritvā yāvadatthaṃ rasaṃ pivitvā aparampi madhukaraṇatthāya ādāya paleti, so evaṃ vanagahanaṃ ajjhogāhetvā ekasmiṃ rukkhasusire taṃ rajamissakaṃ rasaṃ ṭhapetvā anupubbena madhurarasaṃ madhuṃ karoti, na tassa pupphārāme vicaritapaccayā pupphaṃ vā vaṇṇagandhaṃ vāssa vigacchati, atha kho sabbaṃ pākatikameva hoti.
Goes away means, having wandered thus, having drunk nectar as much as it desired, it takes more for making honey and goes away. Having entered such a dense forest, it deposits that nectar mixed with pollen in a hollow of a tree, and gradually transforms the sweet nectar into honey. The flower, its color, or fragrance are not diminished due to its wandering in the flower garden; rather, everything remains natural.
Paletīti (bay đi) có nghĩa là sau khi đi như vậy, uống mật hoa đủ no, nó lại lấy thêm mật để làm mật ong rồi bay đi. Con ong đó đi sâu vào rừng, đặt mật hoa lẫn phấn hoa vào một lỗ hổng trong thân cây, dần dần biến mật hoa ngọt thành mật ong. Việc con ong đi trong vườn hoa không làm hoa mất đi màu sắc hay hương thơm; trái lại, mọi thứ vẫn tự nhiên như cũ.
Evaṃ gāme munī careti evaṃ sekhāsekhabhedo anāgāriyamuni kulapaṭipāṭiyā gāme bhikkhaṃ gaṇhanto vicaratīti attho.
So should a sage wander in the village means, in this manner, an houseless sage, distinguished as a learner (sekha) or one beyond learning (asekha), wanders in the village, receiving alms in due order of families—this is the meaning.
Evaṃ gāme munī care (Như vậy, bậc đạo sĩ nên đi trong làng) có nghĩa là bậc đạo sĩ không gia đình, thuộc loại hữu học và vô học, nên đi khất thực trong làng theo thứ tự các nhà.
Na hi tassa gāme caraṇapaccayā kulānaṃ saddhāhāni vā bhogahāni vā honti.
Indeed, due to his wandering in the village, there is no loss of faith or loss of wealth for the families.
Thật vậy, việc vị đạo sĩ đi trong làng không làm giảm sút tín tâm hay tài sản của các gia đình.
Saddhāpi bhogāpi pākatikāva honti.
Both faith and wealth remain natural.
Tín tâm và tài sản đều vẫn nguyên vẹn.
Evaṃ caritvā ca pana nikkhamitvā sekhamuni tāva bahigāme udakaphāsukaṭṭhāne saṅghāṭiṃ paññāpetvā nisinno akkhabhañjanavaṇapaṭicchādanaputtamaṃsūpamādivasena paccavekkhanto piṇḍapātaṃ paribhuñjitvā tathārūpaṃ vanasaṇḍaṃ anupavisitvā ajjhattikakammaṭṭhānaṃ sammasanto cattāro magge, cattāri ca sāmaññaphalāni hatthagatāneva karoti.
Having wandered thus and departed from the village, a learner sage, for his part, spreads his outer robe in a place convenient for water outside the village, and seated there, he partakes of his almsfood, reflecting upon it by means of similes such as the axle-greasing, the covering for a wound, and the son's flesh. Then, entering such a forest grove, he contemplates the internal meditation subject, thereby making the four paths and four fruits of recluseship as if grasped by hand.
Sau khi đi khất thực như vậy và rời khỏi làng, vị đạo sĩ hữu học trải tấm y संघाटी (saṅghāṭi) của mình ở một nơi có nước tiện lợi bên ngoài làng, ngồi xuống, quán xét vật thực khất thực theo các ví dụ như xe nghiền trục, thuốc đắp vết thương, thịt con trai, v.v., rồi thọ dụng. Sau đó, vị ấy đi vào một khu rừng như vậy, quán xét đề mục thiền nội quán, và đạt được bốn đạo và bốn quả Sa-môn như thể chúng nằm trong tầm tay.
Asekhamuni pana diṭṭhadhammasukhavihāramanuyuñjati.
An arahant sage, however, dedicates himself to a pleasant abiding in this very life.
Còn vị đạo sĩ vô học thì chuyên tâm vào an trú hạnh phúc ngay trong hiện tại (diṭṭhadhammasukhavihāra).
Ayamassa bhamarena saddhiṃ madhukaraṇasarikkhatā veditabbā.
This similarity between him and a bee in honey-making should be understood.
Đây là sự tương đồng giữa vị ấy với con ong làm mật ong cần được biết đến.
Idha pana khīṇāsavova adhippeto.
Here, however, an Arahant is intended.
Tuy nhiên, ở đây, ý muốn nói đến vị A-la-hán.
Sāvatthiyaṃ kirekā gahapatānī puttaṭṭhāne ṭhapetvā pāveyyaṃ nāma ājīvakaṃ paṭijaggi.
It is said that in Sāvatthī, a certain housewife, regarding an Ajīvaka named Pāvayya as her son, looked after him.
Nghe nói, tại Sāvatthī, có một nữ gia chủ đã chăm sóc một du sĩ tên Pāveyyaka như con trai của mình.
Tassānantaragharesu manussā satthu dhammadesanaṃ sutvā āgantvā, ‘‘aho acchariyā buddhānaṃ dhammadesanā’’ti nānappakārehi buddhaguṇe vaṇṇenti.
People in the neighboring houses, having heard the Teacher's Dhamma discourse, came and praised the Buddha's virtues in various ways, saying, "Oh, how wonderful is the Buddhas' Dhamma discourse!"
Những người ở các nhà lân cận, sau khi nghe Đức Bổn Sư thuyết pháp, đã đến và tán thán các đức tính của Đức Phật bằng nhiều cách khác nhau, nói rằng: “Ôi, bài thuyết pháp của Đức Phật thật kỳ diệu!”
Sā buddhānaṃ guṇakathaṃ sutvā vihāraṃ gantvā dhammaṃ sotukāmā ājīvakassa etamatthaṃ kathetvā, ‘‘gacchissāmi ahaṃ buddhasantikaṃ, ayyā’’ti āha.
Having heard the conversation about the Buddha's virtues, she wished to go to the monastery to listen to the Dhamma, so she told this to the Ajīvaka, saying, "Venerable Sir, I will go to the Buddha's presence."
Nghe những lời tán thán về Đức Phật, bà muốn đến tinh xá để nghe pháp. Bà đã kể chuyện này cho du sĩ và nói: “Thưa Tôn giả, con sẽ đến chỗ Đức Phật.”
So ‘‘mā gacchāhī’’ti nivāretvā taṃ punappunaṃ yācamānampi nivāresi eva.
He forbade her, saying, "Do not go!" and even though she pleaded repeatedly, he still forbade her.
Du sĩ ngăn bà lại: “Đừng đi!” Mặc dù bà cứ van nài hết lần này đến lần khác, ông ta vẫn cứ ngăn cản.
Sā ‘‘ayaṃ mama vihāraṃ gantvā dhammaṃ sotuṃ na deti, satthāraṃ nimantetvā idheva dhammaṃ suṇissāmī’’ti sāyanhasamaye puttaṃ pakkositvā, ‘‘gaccha, tāta, svātanāya satthāraṃ nimantehī’’ti pesesi.
She thought, "This one does not let me go to the monastery to listen to the Dhamma. I will invite the Teacher and listen to the Dhamma right here." So, in the evening, she called her son and sent him, saying, "Go, my son, and invite the Teacher for tomorrow."
Bà nghĩ: “Ông ta không cho mình đến tinh xá nghe pháp. Mình sẽ thỉnh Đức Bổn Sư đến đây và nghe pháp tại nhà.” Vào buổi chiều, bà gọi con trai lại và sai: “Con trai, con hãy đi thỉnh Đức Bổn Sư cho ngày mai.”
So gacchanto paṭhamataraṃ ājīvakassa vasanaṭṭhānaṃ gantvā taṃ vanditvā nisīdi.
As he went, he first went to the Ajīvaka's dwelling place, paid homage to him, and sat down.
Khi đi, cậu bé đến chỗ ở của du sĩ trước, đảnh lễ ông ta rồi ngồi xuống.
Atha naṃ so ‘‘kahaṃ gacchasī’’ti āha.
Then (the Ajīvaka) asked him, "Where are you going?"
Lúc đó, du sĩ hỏi cậu bé: “Con đi đâu vậy?”
‘‘Mātu vacanena satthāraṃ nimantetuṃ gacchāmī’’ti āha.
He replied, "By my mother's word, I am going to invite the Teacher."
Cậu bé trả lời: “Con đi thỉnh Đức Bổn Sư theo lời mẹ con.”
‘‘Mā tassa santikaṃ gacchāhī’’ti.
"(Do not go) to his presence," (the Ajīvaka said).
“Đừng đến chỗ Ngài!”
‘‘Alaṃ, ayya, mama mātu bhāyāmi, gacchissāmaha’’nti.
"Enough, Venerable Sir, I fear my mother; I will go," (the son replied).
“Thưa Tôn giả, không được đâu ạ, con sợ mẹ con, con phải đi thôi.”
‘‘Etassa katasakkāraṃ ubhopi khādissāma, mā gacchāhī’’ti.
"Then we both will eat the offerings made for him; do not go!" (the Ajīvaka said).
“Chúng ta sẽ cùng ăn vật cúng dường đã chuẩn bị cho Ngài, con đừng đi!”
‘‘Alaṃ, ayya, mātā me tajjessatī’’ti.
"Enough, Venerable Sir, my mother will scold me," (the son replied).
“Thưa Tôn giả, không được đâu ạ, mẹ con sẽ la mắng con.”
Tena hi gaccha, gantvā pana nimantetvā, ‘‘amhākaṃ gehaṃ asukaṭṭhāne vā asukavīthiyaṃ vā asukamaggena vā gantabba’’nti mā ācikkhi.
"Then go, but after inviting him, do not tell him, 'Our house is at such-and-such a place, or on such-and-such a street, or can be reached by such-and-such a road.'
“Vậy thì con cứ đi đi, nhưng sau khi thỉnh xong, đừng nói: ‘Nhà chúng tôi ở chỗ này, hay ở con đường này, hay phải đi bằng con đường này.’”
‘‘Santike ṭhito viya aññena maggena gacchanto viya palāyitvā ehī’’ti.
Come back as if you were standing nearby, or as if you were going by another road, fleeing," (the Ajīvaka instructed).
“Hãy làm như đang đứng gần đó rồi đi bằng một con đường khác, sau đó chạy về đây!”
So ājīvakassa vacanaṃ sutvā satthu santikaṃ gantvā nimantetvā ājīvakena vuttaniyāmeneva sabbaṃ katvā tassa santikaṃ gantvā, ‘‘kiṃ te kata’’nti puṭṭho, ‘‘sabbaṃ kataṃ, ayyā’’ti āha.
The son, having heard the Ajīvaka's words, went to the Teacher's presence, invited Him, and did everything exactly as instructed by the Ajīvaka. Then he went to the Ajīvaka, who asked, "What did you do?" He replied, "Everything is done, Venerable Sir."
Nghe lời du sĩ, cậu bé đến chỗ Đức Bổn Sư, thỉnh Ngài, và làm mọi thứ đúng theo lời du sĩ đã dặn. Sau đó, cậu bé đến chỗ du sĩ, khi được hỏi: “Con đã làm gì rồi?”, cậu bé trả lời: “Con đã làm xong hết rồi, thưa Tôn giả.”
‘‘Bhaddakaṃ te kataṃ, tassa sakkāraṃ ubhopi khādissāmā’’ti vatvā punadivase ājīvako pātova taṃ gehaṃ agamāsi.
"You did well. We both will partake of his offerings," (the Ajīvaka) said, and on the following day, the Ajīvaka went to that house early in the morning.
“Con đã làm tốt lắm, chúng ta sẽ cùng ăn vật cúng dường đó.” Nói xong, sáng hôm sau, du sĩ đã đến nhà đó từ sớm.
Taṃ gahetvā pacchāgabbhe nisīdāpesuṃ.
They took him and seated him in the back room.
Họ dẫn ông ta vào và mời ngồi ở phòng sau.
Paṭivissakamanussā taṃ gehaṃ allagomayena upalimpitvā lājapañcamāni pupphāni vikiritvā satthu nisīdanatthāya mahārahaṃ āsanaṃ paññāpesuṃ.
The neighboring people plastered the house with fresh cow dung, scattered flowers with parched grain as the fifth offering, and prepared a valuable seat for the Teacher to sit upon.
Những người hàng xóm đã trát nhà bằng phân bò tươi, rải hoa ngũ sắc và sắp đặt một chỗ ngồi sang trọng cho Đức Bổn Sư.
Buddhehi saddhiṃ aparicitamanussā hi āsanapaññattiṃ na jānanti, buddhānañca maggadesakena kiccaṃ nāma natthi, bodhimūle dasasahassisokadhātuṃ kampetvā sambodhiṃ pattadivaseyeva hi nesaṃ ‘‘ayaṃ maggo nirayaṃ gacchati, ayaṃ tiracchānayoniṃ, ayaṃ pettivisayaṃ, ayaṃ manussalokaṃ, ayaṃ devalokaṃ, ayaṃ amatamahānibbāna’’nti sabbe maggā āvibhūtā.
Indeed, people unfamiliar with the Buddhas do not know how to arrange seats, and the Buddhas have no need for a guide. For on the very day they attained perfect enlightenment, shaking the ten-thousand-world system at the foot of the Bodhi tree, all paths became manifest to them: 'This path leads to hell, this to the animal realm, this to the realm of hungry ghosts, this to the human world, this to the deva world, this to the deathless great Nibbāna.'
Thật vậy, những người không quen biết Đức Phật thì không biết cách sắp xếp chỗ ngồi. Và Đức Phật cũng không cần người dẫn đường, vì ngay trong ngày Ngài chứng đắc Chánh Đẳng Giác dưới cội Bồ-đề, làm rung chuyển mười ngàn thế giới, tất cả các con đường đều đã hiện rõ cho Ngài: “Con đường này dẫn đến địa ngục, con đường này dẫn đến loài súc sinh, con đường này dẫn đến loài ngạ quỷ, con đường này dẫn đến thế giới loài người, con đường này dẫn đến cõi trời, con đường này dẫn đến Niết-bàn bất tử vĩ đại.”
Gāmanigamādīnaṃ pana magge vattabbameva natthi.
As for the paths to villages and towns, there is no need to speak of them.
Huống chi các con đường trong làng mạc, thị trấn, v.v., thì không cần phải nói đến.
Tasmā satthā pātova pattacīvaramādāya mahāupāsikāya gehadvāraṃ gato.
Therefore, the Teacher, early in the morning, took his bowl and robes and went to the great female lay follower's house door.
Do đó, Đức Bổn Sư đã mang bát và y đến cửa nhà của nữ đại thí chủ ngay từ sáng sớm.
Sā gehā nikkhamitvā satthāraṃ pañcapatiṭṭhitena vanditvā antonivesanaṃ pavesetvā āsane nisīdāpetvā dakkhiṇodakaṃ datvā paṇītena khādanīyena bhojanīyena parivisi.
She came out of the house, paid homage to the Teacher with the five-point prostration, led him into the inner residence, seated him on a mat, offered water of dedication, and served him with excellent hard and soft foods.
Bà ra khỏi nhà, đảnh lễ Đức Bổn Sư bằng ngũ thể đầu địa, mời Ngài vào trong nhà, sắp Ngài ngồi vào chỗ, dâng nước cúng dường, rồi cúng dường Ngài bằng các món ăn và thức uống thượng vị.
Upāsikā katabhattakiccassa satthuno anumodanaṃ kāretukāmā pattaṃ gaṇhi.
The female lay follower, wishing to have the Teacher, who had finished his meal, recite an anumodanā, took the bowl.
Nữ cư sĩ muốn Đức Bổn Sư ban lời tùy hỷ sau khi Ngài đã dùng bữa, nên bà cầm bát.
Satthā madhurassarena anumodanadhammakathaṃ ārabhi.
The Teacher began a Dhamma talk of anumodanā in a sweet voice.
Đức Bổn Sư bắt đầu thuyết pháp tùy hỷ với giọng nói ngọt ngào.
Upāsikā ‘‘sādhu, sādhū’’ti sādhukāraṃ dadamānā dhammaṃ suṇi.
The female lay follower listened to the Dhamma, repeatedly exclaiming, "Excellent! Excellent!"
Nữ cư sĩ nghe pháp, liên tục tán thán: “Lành thay! Lành thay!”
Ājīvakopi pacchāgabbhe nisinnova tassā sādhukāraṃ datvā dhammaṃ suṇantiyā saddaṃ sutvā sandhāretuṃ nāsakkhi.
The Ājīvaka, sitting in the back room, heard her exclaiming "Excellent!" and listening to the Dhamma, could not restrain himself.
Du sĩ cũng đang ngồi ở phòng sau, nghe tiếng bà tán thán và nghe pháp, không thể kiềm chế được lòng mình.
‘‘Na idānesā mayha’’nti nikkhamitvā ‘‘naṭṭhāsi kāḷakaṇṇi, etassa evaṃ sakkāraṃ karotī’’ti nānappakārena upāsikañca satthārañca akkosanto palāyi.
Thinking, "She is no longer mine," he went out and fled, reviling the female lay follower and the Teacher in various ways, saying, "You are ruined, you wretch! You honor him like this!"
Ông ta nghĩ: “Bây giờ bà ta không còn là của mình nữa rồi!” Rồi ông ta đi ra, mắng nhiếc nữ cư sĩ và Đức Bổn Sư bằng nhiều lời lẽ khác nhau: “Đồ đen đủi! Đồ hư hỏng! Bà lại cúng dường Ngài như thế này!” Rồi ông ta bỏ chạy.
Upāsikā tassa kathāya lajjitā aññathattaṃ gataṃ cittaṃ desanānusārena ñāṇaṃ pesetuṃ nāsakkhi.
The female lay follower, ashamed by his words, was unable to direct her mind, which had become disturbed, towards the teaching with wisdom.
Nữ cư sĩ cảm thấy xấu hổ vì lời nói của ông ta, tâm trí bà trở nên xao động, không thể hướng trí tuệ theo lời thuyết pháp được nữa.
Atha naṃ satthā ‘‘kiṃ upāsike cittaṃ desanānugataṃ kātuṃ na sakkosī’’ti?
Then the Teacher asked her, "Female lay follower, why are you unable to make your mind follow the teaching?"
Bấy giờ, Đức Bổn Sư hỏi bà: “Này nữ cư sĩ, bà không thể khiến tâm mình hòa nhập với lời thuyết pháp sao?”
‘‘Bhante, etassa me kathāya cittaṃ aññathattaṃ upagata’’nti.
"Venerable Sir, my mind has become disturbed because of his words."
“Bạch Thế Tôn, vì lời nói của ông ta mà tâm con đã trở nên xao động.”
Satthā ‘‘evarūpassa visabhāgajanassa kathitaṃ kathaṃ nāma āvajjituṃ na vaṭṭati, evarūpaṃ asamannāharitvā attano katākatameva oloketuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
The Teacher said, "One should not pay attention to the words spoken by such a disagreeable person. Instead of paying attention to such things, one should only examine one's own deeds, whether done or not done," and then uttered this verse:
Đức Bổn Sư nói: “Những lời nói của người không cùng quan điểm như vậy không đáng để suy xét. Thay vì suy xét những lời nói như vậy, người ta nên tự quán chiếu những gì mình đã làm và chưa làm.” Nói xong, Ngài đã thuyết bài kệ này:
Tattha na paresaṃ vilomānīti paresaṃ vilomāni pharusāni mammacchedakavacanāni na manasikātabbāni.
Therein, 'na paresaṃ vilomāni' means that one should not pay attention to the opposing, harsh, and cutting words of others.
Ở đây, không phải là những lời nói trái ý người khác nghĩa là không nên để tâm đến những lời nói trái ý, thô tục, cắt đứt tình cảm của người khác.
Na paresaṃ katākatanti ‘‘asuko upāsako assaddho appasanno, nāpissa gehe kaṭacchubhikkhādīni diyyanti, na salākabhattādīni, na cīvarādipaccayadānaṃ etassa atthi, tathā asukā upāsikā assaddhā appasannā, nāpissā gehe kaṭacchubhikkhādīni diyyanti, na salākabhattādīni, na cīvarādipaccayadānaṃ etissā atthi, tathā asuko bhikkhu assaddho appasanno, nāpi upajjhāyavattaṃ karoti, na ācariyavattaṃ, na āgantukavattaṃ, na gamikavattaṃ, na cetiyaṅgaṇavattaṃ, na uposathāgāravattaṃ, na bhojanasālāvattaṃ, na jantāgharavattādīni, nāpissa kiñci dhutaṅgaṃ atthi, na bhāvanārāmatāya ussāhamattampī’’ti evaṃ paresaṃ katākataṃ nāma na oloketabbaṃ.
Not others’ deeds, done or undone means one should not look at the deeds, done or undone, of others in this way: ‘That lay follower is faithless and unappreciative; no spoonfuls of alms-food or the like are given in his house, no ticket-meals or the like, nor does he have donations of robes and other requisites. Likewise, that lay follower (female) is faithless and unappreciative; no spoonfuls of alms-food or the like are given in her house, no ticket-meals or the like, nor does she have donations of robes and other requisites. Likewise, that bhikkhu is faithless and unappreciative; he does not perform the duties for his preceptor, nor for his teacher, nor for visiting bhikkhus, nor for departing bhikkhus, nor for the cetiya grounds, nor for the Uposatha hall, nor for the refectory, nor for the hot-water house duties and the like. He has no dhutaṅga practice whatsoever, nor even the slightest effort in delighting in meditation.’
Không phải là những việc người khác đã làm hay chưa làm nghĩa là không nên để ý đến việc người khác đã làm hay chưa làm, chẳng hạn như: “Vị cận sự nam kia không có đức tin, không có tịnh tín, không hề cúng dường dù chỉ một muỗng cơm, không có các bữa ăn theo phiếu, không có sự cúng dường y phục và các vật dụng khác; vị cận sự nữ kia cũng vậy, không có đức tin, không có tịnh tín, không hề cúng dường dù chỉ một muỗng cơm, không có các bữa ăn theo phiếu, không có sự cúng dường y phục và các vật dụng khác; vị Tỳ-khưu kia không có đức tin, không có tịnh tín, không thực hành bổn phận đối với Hòa thượng, không thực hành bổn phận đối với A-xà-lê, không thực hành bổn phận đối với khách tăng, không thực hành bổn phận đối với tăng lữ đi xa, không thực hành bổn phận đối với sân tháp, không thực hành bổn phận đối với trai đường, không thực hành bổn phận đối với phòng tắm hơi, v.v., cũng không có bất kỳ hạnh đầu đà nào, thậm chí không có chút tinh tấn nào trong việc an trú vào thiền định.”
Attanova avekkheyyāti ‘‘kathaṃ bhūtassa me rattindivā vītivattantīti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabba’’nti (a. ni. 10.48) imaṃ ovādaṃ anussaranto saddhāpabbajito kulaputto ‘‘kiṃ nu kho ahaṃ ‘aniccaṃ dukkhaṃ anattā’ti tilakkhaṇaṃ āropetvā yoge kammaṃ kātuṃ sakkhiṃ, nāsakkhi’’nti evaṃ attano katākatāni olokeyyāti.
But one’s own should be examined means that a young man who has gone forth out of faith, remembering this advice—‘How are my days and nights passing?’—should examine his own deeds, done or undone, in this way: ‘Have I been able to apply the three characteristics of impermanence, suffering, and non-self, and engage in practice, or have I not been able?’
Chỉ nên quán xét chính mình nghĩa là một người con thiện tín đã xuất gia, ghi nhớ lời giáo huấn này: “Đêm ngày của ta trôi qua như thế nào?” (A. X. 10.48), nên quán xét những việc mình đã làm hay chưa làm, như: “Ta đã có thể áp dụng ba pháp ấn ‘vô thường, khổ, vô ngã’ vào việc thực hành thiền định hay chưa?”
Sāvatthiyañhi chattapāṇi nāma upāsako tipiṭakadharo anāgāmī.
Indeed, in Sāvatthī, there was a lay follower named Chattapāṇi, who was a Tipiṭakadhara and an Anāgāmī.
Tại Sāvatthī, có một cận sự nam tên là Chattapāṇi, một vị Anāgāmī thông thạo Tam Tạng.
So pātova uposathiko hutvā satthu upaṭṭhānaṃ agamāsi.
Early in the morning, having observed the Uposatha, he went to attend upon the Teacher.
Vào buổi sáng, ông giữ giới uposatha và đến hầu Đức Bổn Sư.
Anāgāmiariyasāvakānañhi samādānavasena uposathakammaṃ nāma natthi, maggeneva tesaṃ brahmacariyañca ekabhattikañca āgataṃ.
For noble disciples who are Anāgāmī, there is no Uposatha observance in the sense of undertaking it, for their celibacy and eating only one meal have come about with the path itself.
Đối với các bậc Thánh đệ tử Anāgāmī, việc giữ giới uposatha theo cách thọ trì là không có, vì Phạm hạnh và việc chỉ ăn một bữa đã đến với họ cùng với Đạo (magga).
Tenevāha – ‘‘ghaṭikāro kho, mahārāja, kumbhakāro ekabhattiko brahmacārī sīlavā kalyāṇadhammo’’ti (ma. ni. 2.288).
Therefore it is said: “Ghaṭikāra, the potter, O great king, eats only one meal, is a celibate, virtuous, and of good conduct.”
Chính vì thế mà kinh nói: “Này Đại vương, người thợ gốm Ghaṭikāra chỉ ăn một bữa, sống Phạm hạnh, giữ giới, có thiện pháp.”
Evaṃ anāgāmino pakatiyāva ekabhattikā ca brahmacārino ca honti.
Thus, Anāgāmīs are naturally those who eat one meal and are celibate.
Như vậy, các vị Anāgāmī tự nhiên đã là những người chỉ ăn một bữa và sống Phạm hạnh.
Sopi tatheva uposathiko hutvā satthāraṃ upasaṅkamitvā vanditvā dhammakathaṃ suṇanto nisīdi.
He too, having observed the Uposatha in that manner, approached the Teacher, paid homage, and sat listening to the Dhamma talk.
Ông ấy cũng giữ giới uposatha như vậy, đến gần Đức Bổn Sư, đảnh lễ và ngồi nghe pháp thoại.
Tasmiṃ samaye rājā pasenadi kosalo satthu upaṭṭhānaṃ agamāsi.
At that time, King Pasenadi of Kosala came to attend upon the Teacher.
Vào lúc đó, vua Pasenadi xứ Kosala cũng đến hầu Đức Bổn Sư.
Chattapāṇi upāsako taṃ āgacchantaṃ disvā ‘‘uṭṭhātabbaṃ nu kho, no’’ti cintetvā – ‘‘ahaṃ aggarājassa santike nisinno, tassa me padesarājānaṃ disvā uṭṭhātuṃ na yuttaṃ, rājā kho pana me anuṭṭhahantassa kujjhissati, etasmiṃ kujjhantepi neva uṭṭhahissāmi.
The lay follower Chattapāṇi, seeing him approaching, thought, “Should I rise or not?” and then thought, “I am sitting in the presence of the supreme king (the Buddha). It is not proper for me to rise upon seeing a provincial king. However, the king will be angry if I do not rise. Even if he gets angry, I will not rise.
Cận sự nam Chattapāṇi thấy vua đến, suy nghĩ: “Ta có nên đứng dậy hay không?” rồi quyết định: “Ta đang ngồi trước vị Đại vương tối thượng (Đức Phật), không nên đứng dậy khi thấy một vị tiểu vương. Tuy nhiên, nhà vua có thể giận ta nếu ta không đứng dậy. Dù vua có giận, ta cũng sẽ không đứng dậy.
Rājānaṃ disvā uṭṭhahantena hi rājā garukato hoti, no satthā, tasmā neva uṭṭhahissāmī’’ti na uṭṭhahi.
For by rising upon seeing the king, the king is honored, not the Teacher. Therefore, I will not rise.” So, he did not rise.
Vì nếu đứng dậy khi thấy vua, thì vua được tôn trọng, chứ không phải Đức Bổn Sư. Vì vậy, ta sẽ không đứng dậy.”
Paṇḍitapurisā nāma garutarānaṃ santike nisīditvā anuṭṭhahantaṃ disvā na kujjhanti.
Wise men do not get angry when they see someone not rising while sitting in the presence of those more worthy of respect.
Những người trí tuệ không giận khi thấy người khác không đứng dậy khi đang ngồi trước những người đáng kính hơn.
Rājā pana taṃ anuṭṭhahantaṃ disvā kupitamānaso satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
But the king, seeing him not rise, became angry in mind, paid homage to the Teacher, and sat down to one side.
Nhưng nhà vua, thấy ông ấy không đứng dậy, tâm sinh giận dữ, đảnh lễ Đức Bổn Sư và ngồi sang một bên.
Satthā kupitabhāvaṃ ñatvā, ‘‘mahārāja, ayaṃ chattapāṇi upāsako paṇḍito diṭṭhadhammo tipiṭakadharo atthānatthakusalo’’ti upāsakassa guṇaṃ kathesi.
The Teacher, knowing his anger, said, “Great King, this lay follower Chattapāṇi is wise, one who has seen the Dhamma, a Tipiṭakadhara, skilled in what is beneficial and what is not.” Thus, he spoke of the lay follower’s virtues.
Đức Bổn Sư biết vua đang giận, liền nói về đức hạnh của cận sự nam: “Đại vương, cận sự nam Chattapāṇi này là người trí tuệ, đã thấy pháp, thông thạo Tam Tạng, tinh thông về lợi ích và bất lợi.”
Rañño tassa guṇakathaṃ suṇantasseva cittaṃ mudukaṃ jātaṃ.
As the king listened to the praise of his virtues, his mind became soft.
Khi vua nghe lời khen ngợi đức hạnh của ông ấy, tâm liền trở nên dịu lại.
Athekadivasaṃ rājā uparipāsāde ṭhito chattapāṇiṃ upāsakaṃ katabhattakiccaṃ chattamādāya upāhanamāruyha rājaṅgaṇena gacchantaṃ disvā pakkosāpesi.
Then, one day, the king, standing on the upper palace, saw the lay follower Chattapāṇi, who had finished his meal, carrying an umbrella and wearing sandals, walking through the royal courtyard, and sent for him.
Một ngày nọ, nhà vua đang đứng trên lầu cao của cung điện, thấy cận sự nam Chattapāṇi đã dùng bữa xong, đang cầm dù và mang dép đi qua sân điện, liền cho người gọi ông ấy đến.
So chattupāhanaṃ apanetvā rājānamupasaṅkamitvā vanditvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
He removed his umbrella and sandals, approached the king, paid homage, and stood to one side.
Ông ấy bỏ dù và cởi dép, đến gần vua, đảnh lễ và đứng sang một bên.
Atha naṃ rājā āha – ‘‘bho upāsaka, kinte chattupāhanaṃ apanīta’’nti.
Then the king asked him, “Lay follower, why did you remove your umbrella and sandals?”
Bấy giờ, nhà vua hỏi ông: “Này cận sự nam, sao ông lại bỏ dù và cởi dép?”
‘‘‘Rājā pakkosatī’ti sutvā apanetvā āgatomhī’’ti.
“Having heard, ‘The king is calling,’ I came after removing them,” he replied.
“Thần nghe nói ‘Đức vua gọi’, nên bỏ dù và cởi dép rồi đến đây, thưa Đại vương.”
‘‘Ajja amhākaṃ rājabhāvo tumhehi ñāto bhavissatī’’ti.
“Today, you will know our kingship,” said the king.
“Hôm nay chắc ông đã biết được vương quyền của chúng ta rồi.”
‘‘Sadāpi mayaṃ, deva, tumhākaṃ rājabhāvaṃ jānāmā’’ti.
“Indeed, Your Majesty, we always know your kingship,” he replied.
“Thưa Đại vương, chúng thần luôn biết được vương quyền của ngài.”
‘‘Yadi evaṃ kasmā purimadivase satthu santike nisinno maṃ disvā na uṭṭhahī’’ti?
“If that is so, why did you not rise when you saw me, while you were sitting near the Teacher on the previous day?”
“Nếu vậy, tại sao hôm trước, khi đang ngồi cạnh Đức Bổn Sư, ông thấy ta mà không đứng dậy?”
‘‘Mahārāja, ahaṃ aggarājassa santike nisinno, padesarājānaṃ disvā uṭṭhahanto satthari agāravaṃ pavedeyyaṃ, tasmā na uṭṭhahi’’nti.
“Great King, I was sitting near the chief king. If I had risen upon seeing a provincial king, I would have shown disrespect towards the Teacher. Therefore, I did not rise.”
“Thưa Đại vương, thần đang ngồi trước vị Đại vương tối thượng (Đức Phật), nếu đứng dậy khi thấy một vị tiểu vương, thần sẽ thể hiện sự bất kính đối với Đức Bổn Sư. Vì vậy, thần đã không đứng dậy.”
‘‘Hotu, bho, tiṭṭhatetaṃ’’.
“Very well, good sir, let that matter be.”
“Thôi được, việc đó cứ để yên.”
‘‘Tumhe kira diṭṭhadhammikasamparāyikānaṃ atthānatthānaṃ kusalā tipiṭakadharā amhākaṃ antepure dhammaṃ vācethā’’ti.
“I hear that you are skilled in what is beneficial and unbeneficial in this life and the next, and that you are a master of the Tipiṭaka. Would you teach the Dhamma in our royal palace?”
“Nghe nói ông là người thông thạo về lợi ích và bất lợi trong đời này và đời sau, là người thọ trì Tam Tạng. Xin ông hãy thuyết pháp trong nội cung của chúng ta.”
‘‘Na sakkomi, devā’’ti.
“I am unable to, Your Majesty.”
“Thưa Đại vương, thần không thể.”
‘‘Kiṃ kāraṇā’’ti?
“For what reason?”
“Vì lý do gì?”
‘‘Rājagehaṃ nāma mahāsāvajjaṃ, duyuttasuyuttakāni garukānettha, devā’’ti.
“A royal palace is fraught with great dangers. Both proper and improper conduct are serious matters there, Your Majesty.”
“Thưa Đại vương, cung điện hoàng gia là nơi có nhiều lỗi lầm lớn, những việc làm đúng hay sai ở đó đều rất quan trọng.”
‘‘Mā evaṃ vadetha, ‘purimadivase maṃ disvā na uṭṭhitomhī’ti mā kukkuccaṃ karothā’’ti.
“Do not speak thus. Do not feel remorse, thinking, ‘I did not rise when I saw him on the previous day.’”
“Đừng nói vậy, đừng lo lắng về việc ‘hôm trước ta đã không đứng dậy khi thấy ngài’.”
‘‘Deva, gihīnaṃ vicaraṇaṭṭhānaṃ nāma mahāsāvajjaṃ, ekaṃ pabbajitaṃ pakkosāpetvā dhammaṃ vācāpethā’’ti.
“Your Majesty, the dwelling place of householders is fraught with great dangers. Please invite another bhikkhu to teach the Dhamma.”
“Thưa Đại vương, nơi cư trú của người tại gia có nhiều lỗi lầm lớn. Xin hãy thỉnh một vị Tỳ-khưu đến để thuyết pháp.”
Rājā ‘‘sādhu, bho, gacchatha tumhe’’ti taṃ uyyojetvā satthu santikaṃ gantvā satthāraṃ yāci, ‘‘bhante, mallikā ca devī vāsabhakhattiyā ca dhammaṃ pariyāpuṇissāmāti vadanti, pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ nibaddhaṃ mama gehaṃ gantvā tāsaṃ dhammaṃ uddisathā’’ti.
The king said, “Very well, good sir, you may go,” and having dismissed him, went to the Teacher and requested, “Venerable Sir, Queen Mallikā and Queen Vāsabhakhattiyā say they wish to learn the Dhamma. Please go to my house regularly with five hundred bhikkhus and teach them the Dhamma.”
Nhà vua nói: “Được rồi, ông hãy đi đi,” rồi tiễn ông ấy, sau đó đến chỗ Đức Bổn Sư và thỉnh cầu: “Bạch Thế Tôn, Hoàng hậu Mallikā và Hoàng hậu Vāsabhakhattiyā nói rằng họ muốn học pháp. Xin Ngài cùng với năm trăm vị Tỳ-khưu thường xuyên đến nhà con để giảng pháp cho họ.”
‘‘Buddhānaṃ nibaddhaṃ ekaṭṭhānagamanaṃ nāma natthi, mahārājā’’ti.
“It is not the custom for Buddhas to go to one place regularly, Great King.”
“Này Đại vương, các vị Phật không có việc thường xuyên đến một nơi duy nhất.”
‘‘Tena hi, bhante, aññaṃ ekaṃ bhikkhuṃ dethā’’ti.
“In that case, Venerable Sir, please give us another bhikkhu.”
“Vậy thì, bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy cử một vị Tỳ-khưu khác.”
Satthā ānandattherassa bhāramakāsi.
The Teacher entrusted the task to Venerable Ānanda Thera.
Đức Bổn Sư giao trách nhiệm cho Đại đức Ānanda.
Thero nibaddhaṃ gantvā tāsaṃ uddesaṃ uddisati.
The Thera went regularly and taught them the recitation.
Đại đức Ānanda thường xuyên đến và giảng pháp cho các vị hoàng hậu.
Tāsu mallikā sakkaccaṃ gahetvā sajjhāyitvā uddesaṃ paṭicchāpesi.
Among them, Mallikā took it seriously, recited it, and was able to master the recitation.
Trong số đó, Hoàng hậu Mallikā đã chăm chú học hỏi, tụng đọc và có thể ghi nhớ bài giảng.
Vāsabhakhattiyā pana neva sakkaccaṃ gaṇhāti, na sajjhāyati, na uddesaṃ paṭicchāpetuṃ sakkoti.
Vāsabhakhattiyā, however, neither took it seriously, nor recited it, nor was she able to master the recitation.
Còn Hoàng hậu Vāsabhakhattiyā thì không chăm chú học hỏi, không tụng đọc, và không thể ghi nhớ bài giảng.
Athekadivasaṃ satthā theraṃ pucchi – ‘‘kimānanda, upāsikā dhammaṃ pariyāpuṇantī’’ti?
Then one day, the Teacher asked the Thera, “Ānanda, are the female lay disciples learning the Dhamma?”
Một ngày nọ, Đức Bổn Sư hỏi Đại đức: “Này Ānanda, các cận sự nữ có học pháp không?”
‘‘Āma, bhante’’ti.
“Yes, Venerable Sir,” he replied.
“Bạch Thế Tôn, có ạ.”
‘‘Kā sakkaccaṃ gaṇhātī’’ti?
“Who is taking it seriously?”
“Ai là người chăm chú học hỏi?”
‘‘Mallikā, bhante, sakkaccaṃ gaṇhāti, sakkaccaṃ sajjhāyati, sakkaccaṃ uddesaṃ paṭicchāpetuṃ sakkoti.
“Mallikā, Venerable Sir, takes it seriously, recites it seriously, and is able to master the recitation seriously.
“Bạch Thế Tôn, Hoàng hậu Mallikā chăm chú học hỏi, chăm chú tụng đọc, và có thể chăm chú ghi nhớ bài giảng.
Tumhākaṃ pana ñātidhītā neva sakkaccaṃ gaṇhāti, na sajjhāyati, na uddesaṃ paṭicchāpetuṃ sakkotī’’ti.
But your relative’s daughter neither takes it seriously, nor recites it, nor is she able to master the recitation.”
Còn con gái của dòng tộc Ngài thì không chăm chú học hỏi, không tụng đọc, và không thể ghi nhớ bài giảng.”
Satthā therassa vacanaṃ sutvā, ‘‘ānanda, mayā kathitadhammo nāma sakkaccamasuṇantassa aggaṇhantassa asajjhāyantassa adesentassa vaṇṇasampannaṃ agandhakapupphaṃ viya aphalo hoti, sakkaccaṃ pana savanādīni karontassa mahapphalo hoti mahānisaṃso’’ti vatvā imā dve gāthā abhāsi –
Having heard the Thera’s words, the Teacher said, “Ānanda, the Dhamma taught by me is fruitless for one who does not listen attentively, does not learn, does not recite, and does not teach, like a beautiful flower without fragrance. But for one who performs listening and so forth attentively, it is greatly fruitful and greatly beneficial,” and then he uttered these two verses:
Đức Bổn Sư nghe lời của Đại đức, liền nói: “Này Ānanda, giáo pháp do Ta thuyết giảng, đối với người không chăm chú lắng nghe, không học hỏi, không tụng đọc, không thuyết giảng, thì vô ích như một đóa hoa có màu sắc đẹp nhưng không có hương thơm. Còn đối với người chăm chú lắng nghe, v.v., thì sẽ mang lại đại lợi ích, đại quả báo.” Nói xong, Ngài thuyết hai bài kệ này:
Tattha ruciranti sobhanaṃ.
Therein, ruciraṃ means beautiful.
“Như đóa hoa tươi đẹp,
Vaṇṇavantanti vaṇṇasaṇṭhānasampannaṃ, agandhakanti gandhavirahitaṃ pālibhaddakagirikaṇṇikajayasumanādibhedaṃ.
Vaṇṇavantaṃ means endowed with color and form; agandhakaṃ means devoid of fragrance, such as the pālibhaddaka, girikaṇṇikā, and jayasumanā flowers.
Có sắc lại có hương,
Evaṃ subhāsitā vācāti subhāsitā vācā nāma tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ.
Evaṃ subhāsitā vācā means the well-spoken word, which is the Tipiṭaka Buddha-word.
Cũng vậy, lời pháp lành,
Taṃ vaṇṇasaṇṭhānasampannaṃ agandhakapupphasadisaṃ.
That is like a beautiful flower without fragrance.
Kẻ có hành có quả.”
Yathā pana agandhakapupphaṃ yo naṃ dhāreti, tassa sarīre gandhaṃ na pharati, evaṃ etampi yo naṃ sakkaccaṃ savanādīhi na samācarati, tassa sakkaccaṃ asamācarantassa yaṃ tattha kattabbaṃ, taṃ akubbato sutagandhañca vācāgandhañca paṭipattigandhañca na āvahati aphalā hoti.
Just as a flower without fragrance does not spread its scent on the body of one who wears it, so too, this*, for one who does not practice it properly through listening and so forth, for one who does not do what should be done in it, it does not bring the fragrance of learning, the fragrance of speech, or the fragrance of practice; it is fruitless.
Cũng như một bông hoa không hương, người nào mang nó thì hương không lan tỏa khắp thân thể của người ấy, cũng vậy, nếu ai không thực hành giáo pháp này một cách cẩn trọng bằng cách lắng nghe và các hành động khác, thì đối với người không thực hành cẩn trọng ấy, việc cần làm ở đó mà không làm, sẽ không mang lại hương thơm của sự nghe, hương thơm của lời nói, và hương thơm của sự thực hành; nó trở nên vô ích.
Tena vuttaṃ – ‘‘evaṃ subhāsitā vācā, aphalā hoti akubbato’’ti.
Therefore, it was said: “Even so, a well-spoken word is fruitless for one who does not act accordingly.”
Do đó đã nói rằng: “Lời nói thiện xảo như vậy, trở nên vô ích đối với người không thực hành.”
Sagandhakanti campakanīluppalādibhedaṃ.
Sagandhakaṃ means such as the campaka and nīluppala flowers.
Sagandhakanti (có hương thơm) có nghĩa là các loại hoa như Campaka, sen xanh, v.v.
Evanti yathā taṃ pupphaṃ dhārentassa sarīre gandho pharati, evaṃ tepiṭakabuddhavacanasaṅkhātā subhāsitā vācāpi.
Evaṃ means, just as that flower spreads its fragrance on the body of one who wears it, so too is the well-spoken word, which is the Tipiṭaka Buddha-word.
Evanti (cũng vậy) có nghĩa là, cũng như hương thơm lan tỏa khắp thân thể của người mang bông hoa ấy, lời nói thiện xảo được gọi là Phật ngôn Tam Tạng cũng vậy.
Kubbatoti yo sakkaccaṃ savanādīhi tattha kattabbaṃ karoti, sā assa puggalassa saphalā hoti, sutagandhavācāgandhapaṭipattigandhānaṃ āvahanato mahapphalā hoti, mahānisaṃsāti attho.
Kubbato means: the person who diligently performs what should be done there through listening and so on, for that person, it is fruitful; it brings great fruit and great benefit because it carries the fragrance of hearing, the fragrance of speaking, and the fragrance of practice. This is the meaning.
Kubbatoti (đối với người thực hành) có nghĩa là, người nào thực hành những gì cần làm một cách cẩn trọng bằng cách lắng nghe và các hành động khác, thì giáo pháp ấy sẽ có kết quả cho người ấy; nó mang lại nhiều kết quả lớn, nhiều lợi ích lớn vì nó mang lại hương thơm của sự nghe, hương thơm của lời nói và hương thơm của sự thực hành.